Các nguyên tắc dạy học đọc hiểu văn bản văn học

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:PHƯƠNG PHÁP DẠY “ĐỌC HIỂU VĂN BẢN” TRONG BÀI NGỮ VĂN 8I. ĐẶT VẤN ĐỀ.Hiện nay việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã và đang được các thầy cô thực hiện đồng bộ. Mặc dù còn có rất nhiều ý kiến về việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy, song từ những trải nghiệm thực tế, chúng ta có thể khẳng định rằng việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã giúp các em tiếp xúc được nhiều tác phẩm hay, mới lạ, cập nhật vơí cuộc sống. Không những thế, đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn nói riêng giúp các em biết tư duy sáng tạo, biết phát hiện vấn đề, biết nói lên những suy nghĩ, cảm nhận của riêng mình. Mỗi giờ học văn là một niềm vui bất ngờ đối với các em, các em chủ động học tập hơn trước nhiều. Nhiều hình thức học tập ngoài giờ chính khoá đã được tổ chức, giáo viên đã quen dần với lối dạy theo nguyên tắc tích cực, đã có nhiều sáng kiến trong việc phát huy tính tích cực trong mọi khâu của hoạt động dạy học.Qua những năm thực hiện chương trình thay sách và đổi mới phương pháp daỵ học nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng, tôi đã được dự nhiều giờ, song điều tôi còn băn khoăn là một số thầy cô vẫn thuyết trình nhiều, việc cung cấp kiến thức đôi khi còn mang tính chất áp đặt, đặc biệt ở khâu “đọc – hiểu văn bản”. Tôi thiết nghĩ có nhiều cách để phát huy tính tích cực của học sinh như thực hiện thật tốt, thật sáng tạo nguyên tắc tích hợp vì theo giáo sư Nguyễn Khắc Phi khẳng định “… xét về bản chất của việc vận dụng triệt để nguyên tắc ấy không cho phép dạy học theo kiểu máy móc rập khuôn, nhồi sọ mà luôn luôn đòi hỏi sự năng động, sự vận dụng linh hoạt sáng tạo của người thầy”.Chính vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến của phương châm tích hợp trong quá trình ứng dụng đó là: “Một cách “đọc – hiểu văn bản” trong bài học ngữ văn 8”.II. CƠ SỞ LÝ LUẬN.Phải nói rằng, lứa tuổi học sinh THCS đặc điểm tâm sinh lý hết sức điển hình. Đây là thời kỳ quá độ chuyển từ giai đoạn trẻ em sang người lớn. Trong giai đoạn này hứng thú của các em đã phát triển ở mức độ cao, hứng thú về học tập đã phát triển và ngày càng đậm nét. Đây là một đặc điểm hết sức thuận lợi đối với việc giảng dạy bộ môn Văn. Việc tò mò thích thú môn văn không phải là khoảng cách xa đối với các em. Bên cạnh đó ý thức tư lập và khả năng đào sâu khám phá những nét đẹp trong cuộc sống là một ưu điểm điển hình của học sinh bậc THCS. Song song với những ưu điểm trên, một số em còn rụt rè e ngại, đôi lúc còn nản chí, nản lòng khi tiếp cận với một văn bản khó. Vậy làm thế nào để khắc phục khó khăn đó? Làm thế nào để tiết dạy học môn Ngữ Văn thật sự có hiệu quả để thu hút học sinh say mê học tập?Như chúng ta đã biết, văn học xuất phát từ đời sống, chính vì thế văn học rất gần gũi với mọi người. Những bài thơ hay, những văn bản hấp dẫn đã giúp cho giờ văn không chỉ là giờ học mà còn là những giờ giải trí, khám phá biết bao điều kỳ diệu của cuộc sống con người. Để có giờ văn như thế thì khâu “đọc – hiểu văn bản” là rất quan trọng đòi hỏi người thầy chủ động, sáng tạo và linh hoạt khi thiết kế bàI giảng. III.CƠ SỞ THỰC TIỄNNhư chúng ta đã biết “văn học là nhân học”, “văn học là nghệ thuật của ngôn từ”. Chính vì vậy việc học văn không phải là đơn giản, hơn nữa trong thời đại hiện nay, môn ngữ văn không còn là “điểm đến” hấp dẫn với các em học sinh như các môn Toán, Lý, Hoá, Anh … mặc dù đó là một trong 2 môn chính chiếm số lượng tiết không nhỏ. Có nhiều học sinh rất ngại học môn Văn bởi lý do là Văn viết dài, khó học, khó thuộc. Có những tác phẩm tự sự dài học sinh lười không đọc hết dẫn tời tình trạng mơ màng về nội dung, cốt truyện, nhân vật. Có những bài thơ khi học xong học sinh không nắm được những nghệ thuật tiêu biểu, nội dung của bài thơ. Những lý do trên khiến tâm lý học sinh ngại và chán học môn Văn. Vậy làm thế nào để khắc phục khó khăn đó? Làm thế nào để tiết dạy học môn Ngữ Văn thật sự có hiệu quả để thu hút học sinh say mê học tập?Như chúng ta đã biết, văn học xuất phát từ đời sống, chính vì thế văn học rất gần gũi với mọi người. Những bài thơ hay, những văn bản hấp dẫn đã giúp cho giờ văn không chỉ là giờ học mà còn là những giờ giải trí, khám phá biết bao điều kỳ diệu của cuộc sống con người. Để có giờ văn như thế thì khâu “đọc – hiểu văn bản” là rất quan trọng đòi hỏi người thầy chủ động, sáng tạo và linh hoạt khi thiết kế bàI giảng. IV. CÁC GIẢI PHÁPNhư chúng ta đã biết, trong ba phân môn của ngữ văn thì tác phẩm văn học chiếm vị trí quan trọng. Trong sách giáo khoa phần Văn học được biểu hiện bằng các văn bản. Khi học tập học sinh phải “đọc – hiểu văn bản”. Vậy “đọc - hiểu văn bản” là gì? Khái niệm “đọc - hiểu văn bản” không diến tả hành động tách rời đọc và hiểu. “Đọc - hiểu văn bản” là hoạt động đọc văn một cách nghiêm túc có nghiền ngẫm, cảm xúc, tưởng tưởng và liên tưởng. Bản chất đọc – hiểu là tìm hiểu phân tích để chiếm lĩnh văn bản bằng nhiều phương pháp và hình thức dạy học văn, trong đó phương pháp dạy học văn bằng hệ thống câu hỏi cảm thụ văn bản được thực hiện dưới hình thức đối thoại sẽ là hình thức và phương pháp chủ đạo. Các tác giả trong Ngữ Văn 6 tập một sách giáo viên đã lý giảI như sau “ khả năng đọc – hiểu [bao gồm cả cảm thụ] một tác phẩm văn chương lệ thuộc không ít vào việc có thể trả lời được hay không những câu hỏi đặt ra ở những cấp độ khác nhau. Mức thấp nhất là chỉ cần sử dụng những thông tin có ngay trong văn bản. Đó là trường hợp câu trả lời sẵn có trong bài chỉ mới biết đọc trên dòng. Mức cao hơn là buộc phải suy nghĩ và sử dụng những thông tin trong bài. Đó là trường hợp phải suy nghĩ ra câu trả lời, là trình độ đã biết đọc giữa dòng. Cao hơn là yêu cầu khái quát, liên hệ giữa những cái mà học sinh đã đọc với thế giới bên ngoài đó là trình độ vượt ra khỏi dòng để đọc văn bản. Khám phá văn bản theo hướng ấy thì học sinh khôn chỉ hứng thú hiểu sâu văn bản mà còn liên hệ được một cách sinh động tự nhiên với những vấn đề trong cuộc sống. Như vậy “đọc - hiểu văn bản” đòi hỏi người phải có thái độ chủ động tích cực và sáng tạo trong đọc văn. Các văn bản được học trong chương trình Ngữ Văn 8 bao gồm:1.Một số truyện Việt Nam 1930 – 1945- Tôi đi học [Thanh Tịnh]- Trong lòng mẹ [trích “Những ngày thơ ấu” – Nguyên Hồng]2.Một số truyện nước ngoài- Cô bé bán diêm [An - đéc – xen]- Đánh nhau với cối xay gió [trích “Đôn-ki-hô tê” – Xéc-van-téc]- Chiếc lá cuối cùng [OHen-ri]Hai cây phong [Ai-man-tốp]3.Một số văn bản thơ trữ tình giàu yếu tố biểu cảm.- Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông [Phan Bội Châu]- Đập đá ở Côn Lôn [Phan Châu trinh]- Muốn làm thằng cuội [Tản Đà]- Ông Đồ [Vũ Đình Liên]- Hai chữ nước nhà [á Nam Trần Tuấn Khải]- Nhớ rừng [Thế Lữ]- Quê hương [Tế Hanh]- Khi con tú hú [Tố Hữu]- Tức cảnh Pác Bó, ngắm trăng [Hồ Chí Minh]4. Một số tác phẩm nghị luận- Chiếu dời đô [Lý Công Uẩn]- Hịch tướng sĩ [Trần Quốc Tuấn]- Nước Đại Việt [Nguyễn Trãi]- Bàn luận về phép học [Nguyễn Thiếp]- Thuế máu [Hồ Chí Minh]- Đi bộ ngao du 5.Một số đoạn trích kịch: Ông Guốc-danh mặc lễ phục6.Một số văn bản nhật dụng: Thông tin về trái đất năm 2000. Ôn dịch thuốc lá, giáo dục chìa khoá trong tương lai.Với các loại văn bản trên, kỹ năng “đọc - hiểu văn bản” cần đạt tới mức độ sau:1.Biết đọc thầm, đọc thành tiếng có diễn cảm.2. Biết chọn đọc hững đoạn văn bản có minh họa cho các nhiệm vụ học tập một cách chính xác, tốc độ vừa phải, đúng với nội dung văn bản.3. Biết đọc nhanh các đoạn văn bản, ngữ liệu có những cách dùng từ ngữ và cấu trúc câu phức tạp với năng lực phán đoán ngôn ngữ nhanh nhạy.4. Biết đặt câu hỏi cho mình hoặc cho người khác để hiểu mục đích văn bản và các yêu cầu của nội dung học tập. 5. Biết tóm tắt, chia đoạn, xác định chủ đề, mối liên hệ giữa các phần trong văn bản và biết đặt tên cho đoạn văn6. Biết nhận ra các câu văn, đoạn văn hay, có nội dung sâu sắc và hiểu được nghĩa, vai trò và tác dụng của cac từ ngữ, câu then chốt, các biện pháp nghệ thuạt trong đoạn văn đó.7. Nhớ chính xác một số câu, đoạn và văn bản hay, thơ hay biết bình giá chi tiết nghệ thuật trong các văn bản. 8. Đọc và hiểu được các phương thức biểu đạt khác nhau và đặc điểm thể loại, thái độ, tình cảm và tư tưởng của tác giả.9. Xác định được các hệ thống luận điểm và tuyến lập luận trong các văn bản qua việc tổng kết các tác phẩm tự sự, trữ tình, nghị luận, nhật dụng và sự kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, lập luận, thuyết minh trong một số tác phẩm qua việc hệ thống hoá các khái niệm: Loại, thể loại, đặc điểm của truyện ngắn, tiểu thuyết và thể hiện đại.Như vậy "Đọc - Hiểu văn bản" đã thực hiện phương châm tích hợp. HS vận dụng được kỹ năng, hiểu bíêt về một phân môn này vào việc học tập phân môn khác. Trong thực tế, rất hiếm những văn bản chỉ dùng một phương thức biểu đạt mà một trong những trọng tâm của phần tập làm văn là dạy cho học sinh biết phân tích, biết thực hiện sự kết hợp các phương thức ấy. Chính điều đó đã tạo ra một trường tích hợp vô cùng rộng lớn. Các câu hướng dẫn "Đọc - Hiểu văn bản" trong SGK đã tạo ra cơ chế cho sự tích hợp ấy. Điều quan trọng là giáo viên cần thực sự năng động, biết vận dụng linh hoạt và khi cần vẫn có thể tạo ra những tình huống tích hợp mới. Việc đọc hiểu, phân tích, bình giá các loại văn bản sẽ giúp HS có điều kiện tốt hơn các nội dung làm văn tự sự, thuyết minh và nghị luận. Hoạt động "Đọc - Hiểu văn bản" giúp HS qua việc đọc đúng sẽ cảm nhận và hiểu đúng những thông tin, hiển ngôn và hàm ngôn trong văn bản. Nếu quan niệm văn bản là sự tổng hợp của 3 cấu trúc: Cấu trúc ngôn ngữ, cấu trúc hình tượng và cấu trúc ý nghĩa thì đối với HS lớp 8 thực hiện tốt hoạt động "Đọc - Hiểu văn bản" có nghĩa là HS phải nắm và lý giải được mối liên hệ của 3 lớp cấu trúc này không chỉ trên phương diện của từ ngữ, câu chữ, nhịp điệu mà còn hiểu được giá trị iểu đạt và biểu cảm của ngôn từ như là phương tiên để thể hiện hình tượng nghệ thuật, hiểu được những quan điểm, tư tưởng về con người, về thời đại, về ý tưởng giáo dục của tác giả gửi gắm trong văn bảnĐối với một số tryện nước ngoài trong SGK ngữ văn 8 thì đó là những văn bản tự sự tiêu biểu có lối kể chuyện hấp dẫn, nội dung giàu tính nhân đạo. các văn bản này được học song song với các nội dung làm văn, đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm cũng là do dụng ý dạy tích hơp của các tác giả nhằm giúp HS có cái nhìn toàn diện hơn về sự biến hoá của tự sự cũng như sự đan xen các yếu tố miêu tả, biểu cảm trong văn tự sự. ở đó có sự độc đáo về cách tạo dựng tình huống truyện, cách sắp xếp tình tiết, trình tự kể, cách khắc hoạ nhân vật, cách chọn ngôi kể, lời kể trong giáo án mới, hoạt động "Đọc - Hiểu văn bản" có thể được tiến hành tuần tự theo 3 hướng nhằm vào các nội dung của văn bản, đó là - Đọc hiểu cấu trúc văn bản- Đọc - Hiểu nội dung văn bản- Đọc-hiểu ý nghỉa văn bản1-Hoạt động đọc-hiểu cấu trúc văn bản Đây là hoạt động tiếp nhận các dấu hiệu cơ bảnvề thể loại của văn bản. mỗi văn bản được tạo ra chủ yếu từ một phương thức biểu đạt nào đó tương ứng với các phương thứcphản ánh bằng nghệ thuật như tự sự hoặc trữ tình .Đồng thời mỗi văn bản tồn tại trong một kiểu dáng thể nào đó như truyện, ký , thơ Loại hình của văn bản quy định tính chất nội dung của văn bản, trong khi thể của nó quy định tính chất hình thức của văn bản. Từ đó tính chất của hoạt động "Đọc - Hiểu văn bản" sẽ được quy đinh theo nguyên tắc: Đọc - Hiểu văn bản phù hợp cvới đặc điểm của thể loại văn bản. điều đó cũng đồng nghĩa với việc "Đọc - Hiểu văn bản" ở mỗi thể loại khác nhau. ở văn bản tự sự, đọc để nắm chắc chuỗi các sự việc sung quanh nhân vật để từ đó đánh giá tính chất xã hội của sự việc và nhân vật. ở văn bản trữ tình- Biểu cảm thì đọc để đồng cảm với nỗi niềm của con người. Còn trong văn bản nghị luận thì đọc để nắm bắt các tư tưởng của tác giả qua hệ thống luận điểm, luận cứ.Chính vì vậy "Đọc - Hiểu cấu trúc văn bản" được coi là khởi điểm của quá trình "Đọc - Hiểu văn bản", nó sẽ tạo cơ hội tích hợp rõ rệt giữa văn, tập làm văn, mở luồng mạch cho hoạt động, tìm hiểu sâu văn bản đồng thời rèn luyện kiến thức và kỹ năng nhận biết các kiểu loại văn bản.2. Hoạt động: Đọc - hiểu nội dung văn bảnĐây là hoạt động đi sau vào văn bản nhằm phát hiện, phân tích, đánh giá văn bản từ các chi tiết nổi bật. Nội dung văn bản bao gồm nội dung đời sống và hình thức thể hiện. nội dung của các tác phẩm văn học không chỉ đơn thuần là nội dung đời sống mà là đời sống được tổ chức trong các tác phẩm theo những cách thức của nghệ thuật ngôn từ. cái chết khủng khiếp và đau thương của một lão nông nghèo hiện lên thật sinh động và cảm động trong lời văn miêu tả tỉ mỉ với vô số từ láy, từ tượng hình và từ tượng thanh ở phần kết truyện "Lão Hạc" của Nam Cao.Không có nội dung nào nằm ngoài hình thức của tác phẩm. Như vậy thực chất của việc đọc hiểu nội dung văn bản là sự phát hiện phân tích chiếm lĩnh các thành phần nội dung văn bản trong các dấu hiệu hình thức của nó3. Hoạt động đọc - hiểu ý nghĩa văn bản là hoạt động cuối cùng của một quá trình đọc hiểu văn bản. là quá trình đánh giá các phảm chất nổi trội của kết cấu nội dung hình thức của văn bản. Hiểu văn là hiểu được cách làm, cách khám phá đời sống của tác giả. Hiểu văn còn có nghĩa là cảm nhận vẻ đẹp của ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu thể loại của văn bản . "Đọc - Hiểu ý nghĩa văn bản" còn mở rộng tới một phương diện ngoài văn bản, điều mà lý luận gọi là cáp độ đọc vượt ra khỏi dòng. Chẳng hạn có thể đọc trong văn bản "Trong lòng mẹ" ngữ văn lớp 8 tập 1, một tình yêu đau đớn, trong sáng bền bỉ của bé Hồng dành cho mẹ là bài ca thiêng liêng của tình mẫu tử, nhưng cũng là hình ảnh của tuổi thơ cay đắng, tủi cực của một nhà văn yêu thương vô hạn những cuộc đời khốn khổ- nhà văn Nguyên Hồng.ở Hoạt động này có cơ hội tích hợp cả 3 phân môn Văn - Tập làm văn - Tiếng việtIV. GIÁO ÁN MINH HOẠTuần 8. Bài 8 Tiết 29- 30VĂN BẢN: CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG[Trích- O.HEN-RI]A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT1. Kiến thức: Giúp HS cảm nhận được từ văn bản: - Tình yêu thương cao cả giữa những con người lao động nghèo khổ, thấy được nghệ thuật chân chính là nghệ thuạt vì sự sống con người.- Cách kết thúc truyện theo kiểu đảo ngược tình huống hai lần đã gây bất ngờ và hứng thú cho người đọc- Sự kết hợp giữa các yếu tố miêu tả và biểu cảm trênnền tự sự là đặc điểm của phương thức biểu đạt trong văn bản này2. Kỹ năng: Rèn kỹ năng đọc, kỹ năng tóm tắt truyện, phân tích nhân vật3. Thái độ: giáo dục tình yêu thương con người, tình yêu nghệ thuật, có ý thức đưa yếu tố biểu cảm, miêu tả khi làm văn tự sự.B. CHUẨN BỊ:Thầy: Tranh minh hoạ "Chiếc lá cuối cùng"- Bảng phụBảng 1: Câu nào nói về việc mà cụ Bơ-Men đã làm cho Giôn - Xi trong đoạn trích a. Cụ sợ sệt nhìn thấy day thường xuân đang rụng dần hết lá.b. Trong đêm mưa tuyết cụ đã vẽ chiếc lá cuối cùng trên tườngc. Cụ đã mằng Giôn - Xi không được có ý nghĩ vớ vẩnd. Cả a,b,c đều đúng Bảng 2: Tại sao tác giả không kể lại sự việc cụ Bơ- men vẽ chiếc lá cuối cùng một cách trực tiếp ?a. Vì Xiu muốn tự mình kể việc đó cho Giôn-xi nghe .b. Vì nhà văn muốn tạo cho nhân vật và người đọc sự bất ngờ làm nổi bật đức hi sinh , tấm lòng vị tha của cụ Bơ -men.c. Vì đó là việc không quan trọng.d. Vì đó là việc ngẫu nhiên xảy ra , nhà văn khôngdự tính trướcTrò: Đọc kỹ văn bản và trả lời các câu hỏi trong SGKC. TIẾN TRÌNH CÁC HOẠT ĐỘNG. 1. Ổn định tổ chức. 2. Kiểm tra bài cũ. Phân tích mặt tích cực và mặt hạn chế của nhân vật Đôn-ki-hô-tê trong đoạn trích” Đánh nhau với cối xay gió”của nhà văn Xéc –van –téc. 3. Giới thiệu bài mới: Theo tiến sĩ Nguyễn Văn Đường thì : Trên đời hiếm gì nghịch lý oái oăm ! Có cái thật làm người ta đau đớn, héo mòn rồi chết lụi. Nhưng lại có cái giả an ủi ,nâng đỡ tâm hồn như một liều thuốc thập toàn đại bổ. Hình ảnh chiếc lá thường xuân trong truyện ngắn lừng danh “ chiếc lá cuối cùng” của nhà văn Mỹ O.Hen-ri là một trong những liều thuốc đó. ở đây con người được hồi sinh nhờ một tình yêu được đền đáp , đã thoát được ác bệnh bởi một xác tín mãnh liệt. Chiếc lá đó như thế nào mà lại có sức mạnh đến như vậy?B. Tiến trình tổ chức bài dạyHoạt động của thầy Hoạt động của trò Nội dung cần đạtHoạt động 1: Hướng dẫn đọc và tìm hiểu chú thích:Hướng dẫn cách đọc: Phân biệt lời kể, tả của nhà văn với lời nhân vật. Lời của Xiu khi kể về cái chết của cụ Bơ-men đọc giọng rưng rưng nghẹn ngào.Gọi HS đọc*Truyện có những nhân vật nào? Nhân vật nào được kể đến nhiều nhất? Nhân vật nào quan trọng góp phần tạo nên chủ đề của truyện?*Xác định các sự việc trong đoạn trích?*Dựa và nhân vật và các sự việc, kể tóm tắt đoạn trích.*Trình bày hiểu biết của em về tác giả O.Henri?-3 HS đọc tiếp nối – HS khác nhận xét cách đọc.-3 HS đọc tiếp nối – HS khác nhận xét cách đọc. -Gồm 3 nhân vật: Xiu. Giôn –xi và Bơ-men [ngoàI ra còn Bác sĩ]-Giôn-xi được nhắc nhiều nhất.-Bơ-men [chiếc lá cuối cùng] góp phần tạo nên chủ đề của truyện.-3 sự việc:+Giôn-xi đợi cái chết+Giôn-xi vượt qua cái chết+Cái chết của cụ Bơ-men và bí mật của chiếc lá cuối cùng.-1 HS kể tóm tắt-1 HS nhận xét, GV bổ xung.-Tác giả: 1862 – 1910, nhà văn I.Đọc – chú thích1.Đọc2.kể tóm tắt*truyện sáng tác khoảng thời gian nào? Vị trí đoạn trích?Hoạt động 2: Hướng dẫn tìm hiểu nội dung văn bản:*truyện được kể theo ngôI thứ mấy? Tác dụng của ngôi kể?*Văn bản sử dụng phương thức biểu đạt nào?*Dựa vào phần chữ in nhỏ, giới thiệu một vàI nét cụ thể về cụ Bơ- men.*Em hiểu thế nào là một kiệt tác?[Kiệt tác là gì?]Mỹ chuyên viết truyện ngắn.-Truyện của ông nhẹ nhàng, toát lên tinh thần nhân đạo, yêu thương người nghèo khổ rất cảm động.-Truyện sáng tác khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.-Đoạn trích chiếm khoảng 11/4 phần cuối tác phẩm.-Ngôi kể: ngôi thứ 3 –Tạo cho sự việc mang tính chất khách quan.-Phương thúc biểu đạt: tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm.-là một hoạ sĩ nghèo, kiếm tiền bằng cách ngồi làm mẫu vẽ cho các hoạ sĩ trẻ.- Mơ ước vẽ một kiệt tác nhưng 40 năm nay chưa thực hiện.-Kiệt tác là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc đã được công nhận…3.Chú thícha. Tác giả [1862 – 1910]-Là nhà văn Mỹ chuyên viết truyện ngắn.b.Tác phẩm:- Vị trí đoạn trích: chiếm hẳn đoạn cuối tác phẩm.II.Tìm hiểu văn bản:1.Kiệt tác của cụ Bơ-men.*ở đầu đoạn trích ta thấy Xiu và Bơ-men ngó ra ngoài cửa sổ nhìn dây Thường Xuân, em thấy cụ Bơ-men có thái độ gì?-Đây là bản dịch song ta vẫn cần lưu ý “Thường Xuân” còn có nơI gọi là “Trường Xuân”*Em hãy tưởng tượng ra lời độc thoại của cụ Bơ - men lúc này.Bảng phụ 1: Đưa ra cho học sinh quan sát.-Yêu cầu học sinh trả lời.+Theo em cụ đã vẽ trong hoàn cảnh nào? Cụ có nói việc làm của mình với ai không? Chi tiết nào nói lên điều đó?+TháI độ và vịêc làm của cụ Bơ-men giúp em hiểu gì về tình cảm của cụ đối với Giôn-xi?+Tại sao tác giả không trực tiếp miêu tả việc cụ Bơ-men vẽ chiếc lá như thế nào mà đợi đến dòng cuối của truyện mới cho bạn đọc biết - Sợ sệt khi thấy dây thường xuân đang rụng dần hết lá.*H/S thảo luận theo nhóm: Tự bộc lộ: VD “có lẽ thời tiết thế này thì đêm nay chiếc lá sẽ rụng. Ta phải làm gì để cứu con bé tội nghiệp. à ta có cách rồi… nếu như chiếc lá cuối cùng chưa rụng…”*Hoạt động chung cả lớp.B.Việc cụ bơ-men làm cho Giôn-xi vẽ chiếc lá cuối cùng trong đêm mưa tuyết lạnh lẽo.-cụ vẽ âm thầm, lặng lẽ bằng chứng là: “Người ta tìm thấy chiếc thang … trộn lẫn…”-Yêu thương lo lắng hết lòng cho số phận của Giôn-xi+H/S quan sát bảng phụ 2. thảo luận nhóm, làm bài tập trắc nghiệm trên giấy.-Đại diện lên làm trên bảng phụ.+Tạo cho nhân vật và người đọc bất ngờ, làm nổi bật đức hy sinh và lòng vị tha của Bơ-men.-Nghệ thuật kể chuyện đảo lộn Chiếc lá cuối cùng được vẽ trong đêm mưa tuyết phũ phàng.-Thể hiện tình thương yêu bác là:- Đức hy sinh và lòng vị tha cao quý của cụ Bơ-men.- Bức vẽ là một kiệt tác, là một tác phẩm nghệ thuật hướng tới qua lời của Xiu?-Gọi đại diện học sinh làm trên bảng phụ sau khi thu giấy.+ Em hãy nhận xét nghệ thuật của cách kể chuyện ấy?+ Phần cuối truyện tác giả để cho Xiu nhận xét về bức vẽ như thế nào? em có đồng ý với ý kiến đó không?Bình: Bức vẽ là một kiệt tác bởi nó đã cứu sống một con người. Để hoàn thành nó người hoạ sĩ không chỉ dùng bút lông, bột màu mà bằng cả tình yêu thương, đức hi sinh cao quý. Cụ đã đánh đổi cả mạng sống của mình để giành lại sự sống cho Giôn –Xi.+ Theo em khi vẽ chiếc lá cuối cùng, cụ Bơ-men có nghĩ đến việc mình đang làm nghệ thuật, đang thực hiện công trình để có lưu danh hậu thế không? Điều dó có ý nghĩa gì?Bình:Cụ Bơ-men trở thành người châm thời gian.-Xiu nhận xét: “đó là một kiệt tác” đó là nhận xét hoàn toàn đúng.-Vì nó giống như thật đến nỗi 2 hoạ sĩ thật cũng không nhận ra.- Nó ra đời trong hoàn cảnh khắc nghiệt của một tình yêu thương mạnh mẽ và sự hy sinh cao thượng.- Nó thổi vào tâm hồn Giôn –xi hơi ấm và nghị lực, giúp cô vượt qua cái chết trở về sự sống.- Cụ không hề nghĩ như vậy mà chỉ đơn giản là may ra có thể cứu được cô bé Giôn-xi đáng thương.- Điều đó càng làm tăng thêm giá trị nhân văn của tác phẩm.con người-Tác phẩm mang giá trị nhân văn lơn lao.ngòi, người khơi nguồn làm rực lên ngọn lửa tình yêu cuộc sống vĩnh cửu cho Giôn-xi nhưng chính nó đã đầy nhanh người sáng tạo ra nó về cõi hư vô. cái nghĩa cử ấy của cụ Bơ-men chính là một kiệt tác; không có bố cục, đường nét, sắc màu nhưng thật kỳ diệu và bất diệt.+ Theo em qua hình ảnh chiếc lá vẽ trên tường và cách sáng tác âm thầm của cụ Bơ-men, nhà văn muốn nói điều gì với chúng ta?GV có thể hướng dẫn học sinh liên hệ đến các nhà văn Việt Nam qua “Lão Hạc”, “Trong lòng mẹ”.+ Tìm các yếu tố miêu tả và biểu cảm, trong văn bản các yếu tố đó đã giúp nhà văn hoàn thành xuất sắc hình tượng nghệ thuật “chiếc lá cuối cùng “ như thế nào? “tích hợp với tập làm văn”+ Hãy tìm những chi tiết nói lên -Nhà văn muốn ca ngợi tình yêu thương, tấm lòng vị tha của những con người nghèo khổ trên đất Mỹ nói riêng, trên mọi miền trái đất nói chung-Nghệ thuật chân chính phảihướng tới con người và vì con người.-VD: “Nhưng ô kìa!” “ngà hôm đó trôi qua … kiểu Hà Lan…” → giúp người đoc thấy rõ thiên nhiên khắc nghiệt và chiếc lá cuối cùng đang héo tàn, theo quy luật tư nhiên nó sẽ rụng – là điều không thể tránh khỏi. Thấy được sự dũng cảm trường tồn của chiếc lá.-Sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ nhìn dây thường xuân đang rụng dần hết lá mà chẳng biết nói năng gì.-Khi nghe Giôn-xi ra lệnh kéo mành lên, Xiu làm theo một cách chán nản gần như tuyệt vọng.-Cố hết sức chăm sóc Giôn-xi: 2.Tình yêu thương của Xiu.thái độ và việc làm của Xiu dành cho Giôn-xi.? Những chi tiết ấy đã nói lên tình cảm gì của Xiu đối với Giôn –Xi.Xiu liệu có biết sự thật về chiếc lá cuối cùng ngay từ đầu không? Chi tiết nào giúp em biết điều đó +Câu văn “nhưng ôkìa đã diễn tả tâm trạnggì của ai” nấu cháo, pha sữa, mời bác sĩ…Thể hiện tình yêu thương, chăm sóc Giôn-xi như đối với đứa em ruột thịt Lúc đầu Xiu không hề biết sự thật đó. vì vậy mà khi Giôn-xi bảo kéo mành lên, cô đã “làm theo một cách chán nản” sau đó còn “cúi khuôn mặt hốc hác” xuống người bệnh nói lời não nuột.-Tâm trạng ngạc nhiên không ngờ chiếc lá cuối cùng còn trên cành trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy.-Đó là tâm trạng của Giôn-xi và XiuHS thảo luận: Có thể ngay khi kéo mành lên lần thứ nhất, cô đã đến đó xem thực hư ra sao và cô đã dấu sự thật đó với Giôn-xi.-Truyện sẽ bớt hấp dẫn vì Xiu không bị bất ngờ và không làm nổi bật được tâm trạng lo lắng *Cách kể chuyện, ngắt đoạn, đảo ngược vậy theo em Xiu biết sự thật vào lúc nào? Tại sao cô lại bình tĩnh khi lần thứ 2 Giôn-xi bảo kéo mành lên?-Nếu Xiu biết trước ý đinh của cụ Bơ-men thì truyện có bớt sức hấp dẫn không vì sao?-GV: Cho đến hai, ba ngày sau khi chắc chắn Giôn-xi khỏi bệnhXiu mới khoan thai kể về sự thật của chiếc lá dũng cảm.+Vậy cách ngắt đoạn, đảo ngược thời gian như thế có tác dụng gì.GV: Cùng với nhân vật Bơ-men, Xiu đã góp những màu sắc nhỏ nhẹ, trong sáng làm đẹp thêm bức tranh tình người bao la, kỳ diệu.+Khi khắc hoạ nhân vật Xiu, nhà văn đã sử dụng giọng kể như thế nào? Hiệu quả nghệ thuật của giọng kể ấy? +Em hãy nhắc lại hoàn cảnh sống của Giôn _xi?thấm đượm tình yêu của xiu.Làm cho nhân vật trở nên tinh tế, vai trò người chị của Xiu càng thêm nổi bật.Giọng kể thủ thỉ, tâm tình như một làn hơi ấm, dịu dàng giữa đêm đông giá buốt_ Bị bệnh nặng, nghèo, mang tâm trạng yếu đối gần như bất lực trước bệnh tật. Cô chỉ trông đợi chiếc lá cuối cùng của cái dây leo già cỗi kia rụng xuống thì cô lìa đời_ Chán nản, mệt mỏi và tuyệt vọng buông xuôithời gian làm nổi bật vai trò người chị của Xiu với Giôn-xi: Giàu lòng yêu thương, có tấm lòng vị tha cao cả.3.Diễn biến tâm trạng của Giôn-xi+Suy nghĩ của Giôn_xi:”khi chiếc lá cuối cùng rụng …sẽ chết” giúp em hiểu gì về tâm trạng của Giôn-xi?-Chán nản, mệt mỏi, tuyệt vọng, buông xuôi + Lúc nhìn thấy chiếc lá cuối cùng chưa rụng vào sáng hôm sau, Giôn-xi có tâm trạng như thế nào?+Lần thứ hai, khi trời vừa hửng sáng Giôn-xi lại kéo mành lên hành động đó thể hiện tâm trạng gì?+Khi thấy chiếc lá cuối cùng vẫn dai dẳng kiên cường chống chọi lại khắc nghiệt của thiên nhiên,Giôn-xi đã quyết định ra sao?+Nguyên nhân nào dẫn đến tâm trạng hồi sinh ở Giôn –xi?GV bình: Chiếc lá cuối cùng ấy đã đem lại nhiệt tình tuổi trẻ của Giôn-xi, trở lại cho cô, là phương thuốc màu nhiệm kỳ diệu. Nó như một tia lửa, một động lực làm phát sinh, nội lực giúp Giôn-xi thay đổi tâm trạng, có được tình yêu cộng sống và đấu trang để chiến thắng bệnh tật. +Tại sao nhà văn kết thúc truyên bằng lời kể của Xiu mà không để cho Giôn-xi phản ứng gì thêm-Ngạc nhiên nhưng rồi lại trở lại tâm trạng ban đầu -Tàn nhẫn, lạnh lùng thờ ơ với chính bản thân mình -Nhìn chiếc lá hồi lâu, cô gọi Xiu để tâm sự “ có cái gì đấy…muốn chết là một tội.”-Thèm ăn cháo, uống sữa, ước mơ vẽ vịnh…-Thuốc men, sự chăm sóc nhiệt tình của bạn, khâm phục sự gan góc kiên cường của chiếc lá.-Đó còn là quá trình đấu tranh của bản thân Giôn-Xi để chiến thắng cái chết-Tàn nhẫn, lạnh ling, thờ ơ với chính bản thân mình-Khát khao được sống, được làm nghệ thuật+ Truyên được kết thúc trên cơ sở 2 sự kiện bất ngờ đối lập nhau tạo nên hiện tượng đảo ngược tình huống 2 lần,em hãy chỉ rõ điều đó*Hoạt động 3: Hướng dẫn tìm hiểu ý nghĩa văn bản:+Từ sự phân tích trên, hãy khái quá lại nghệ thuật của văn bản+Những nghệ thuật đó có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung văn -Kết thúc như vậy sẽ tạo cho truyện một dư âm như còn vương vấn để lại trong lòng người đọc nhiều suy nghĩvà dự đoán+Tình huống 1:Giôn-xi đang tiến dần đến cái chết cuối cùng đã chiến thắng bệnh tật trở lại yêu đời.-Tình huống 2: Cụ Bơ-men đang khoẻ mạnh đến cuối truyện thì lại qua đời-Nghệ thuật: Cách kể chuyện độc đáo nhiều tình tiết hấp dẫn, Sắp xếp chặt chẽ, khéo léo, kết cấu đảo ngược tình huống 2 lần, khắc hoạ rõ nét tâm lí hành động của nhân vật4.Đảo ngược tình huống 2 lần -Một cụ già đi từ sự sống đến cái chết để dẫn dắt một cô gái từ cái chết trở về sự sốngIII.Tổng kếtGhi nhớ /SGK-90bản?Hoạt đông IV: Hướng dẫn củng cố luyện tập +Nếu được phép đặt tên cho tác phẩm, em sẽ chon nhan đề nào? vì sao+Vì sao OHen-ri lại đặt tên cho tác phẩm của mình là” chiếc lá cuối cùng “?+Hãy tưởng tượng ra sự phản ứng -Nội dung: Làm nổi bật chiếc lá dũng cảm và chân dung những con người nghèo khổ nhưng tình yeu thương thì bao la vô tận.-VD: “Kiệt tác của cụ Bơ- men” vì muốn đè cao nhân vật Bơ -men. Và tác phẩm nghệ thuật của cụ-HS tuỳ chọn miễn các em lí giải phù hợp-Vì” chiếc lá cuối cùng” có một vị trí quan trọng xuyên suet toàn bộ cốt truyện gây xúc động và nhên lên tình yêu sự sống đó là hình ảnh cảm động tận đáy lòng người và trở thành một biểu tượng nghệ thuật bất ngờ độc đáo mang ý nghĩa nhân văn, nhân bản sâu sắc IV. Luyện tập1.Chon nhan đề khác cho văn bảncủa Giôn-xi khi nghe Xiu kể về sự thật của chiếc lá cuối cùng và cái chết của cụ Bơ -menTừ sự tưởng tượng đó, em hãy viết lại phần kết truyện.+Bức tranh trong SGK minh hoạ cho cảnh nào của truyện? Nếu được vẽ tranh minh hoạ em sẽ chon cảnh nào? Hãy nêu ý tưởng ?+Yêu cầu HS về nhà học để nắm chắc nội dung nghệ thuậtcủa tác phẩm- chủ đề+Viết một đoạn văn tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm về một nhân vật yêu thích trong văn bản+Chuẩn bị tốt tiết Tiếng Việt và Tập Làm Văn tiết 31.32-HS thảo luận nhóm, cử đại diện trình bày-Hoạt động cá nhân-Hoạt động nhóm-Yêu cầu1: HS phải làm rõ chủ đề: Bức thông điệp màu xanh về tình yêu thương con người, về quan điểm nghệ thật chân chính là phải hướng tới con người, phục vụ con người.-Yêu cầu 2:HS viết đoạn văn2. Viết lại phần kết của truyện3.Trình bầy ý tưởng vẽ tranhV.Bài tập về nhàIV Kết luận Việc đọc-hiểu văn bản’’ với biện pháp dạy học bằng hệ thống câu hỏi cảm thụ văn bản được thực hiện dưới hình thức đối thoại để đem lại những kết quả tương đối khả quan .Học sinh đã biết chọn đọc những đoạn văn bản minh hoạ cho các nhiện vụ học tập mọt các chính xác Học sinh có năng lực phán đoán nhanh nhạy nhưng ngữ liệu ngôn ngữ hiểu được mục đích của các văn bản .đạc biệt các em đã biết liên hệ giữa những điều có trong văn bản với thế giới bên ngoài .Trong những lời phát biểu những bài kiểm tra các em đã thực sự hiểu vàvận dụng tác phẩm một cách linh hoạt VBài học rút ra Để giờ học có hiệu quả trước hết người giáo viên phải nắm chắc các phương pháp’’Đọc –hiểu văn bản’’ Nghiên cứu , Nghị quyết Trung ương đã nhiều lần khẳng định “Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học…áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.” Qua việc học tập và nghiên cứu tôi đã nhận thấy việc đổi mới chương trình giáo dục hiện nay không chỉ là việc đổi mới chương trình sách giáo khoa mà thực sự là một cuộc cách mạng về phương pháp dạy học. Trong nhà trường hiện nay, mục tiêu giáo dục tổng quát đã được xác định tương đối phù hợp với sự phát triển của thời đại nhằm đào tạo những con người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo, có năng lực giải quyết mọi vấn đề thực tiễn…Muốn đào tạo được những con người như vậy thì phương pháp giáo dục phải hướng vào khơi dậy, rèn luyện và phát triển khả năng nghĩ và làm một cách tự chủ, sáng tạo ngay trong học tập và lao động ở nhà trường. Bên cạnh đó , theo quan điểm giáo dục hiện nay là lấy người học làm trung tâm, phát huy vai trò chủ động tích cực của học sinh trong quá trình học tập…Đó là những mục tiêu và quan điểm chung trong nhà trường hiên nay. Ngoài những mục tiêu chung của nhà trường phổ thông , bộ môn Ngữ văn ở nhà trường THCS có mục tiêu cụ thể của nó. Môn Ngữ văn trước hết là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng tình cảm cho học sinh. Môn Ngữ văn còn là một môn học thuộc nhóm công cụ, vị trí đó nói lên mối quan hệ giữa môn Ngữ văn với các môn học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ có tác động tích cựcđến kết quả học tập của các môn học khácvà ngược lại các môn học khác cũng có thể góp phần giúp học tốt môn Ngữ văn

Page 2

i ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ Nguyễn Thị Hoàn PHƯƠNG PHÁP TRÍCH CHỌN ĐẶC TRƯNG ẢNH TRONG THUẬT TOÁN HỌC MÁY TÌM KIẾM ẢNH ÁP DỤNG VÀO BÀI TOÁN TÌM KIẾM SẢN PHẨM KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY Ngành: Công Nghệ Thông Tin Hà Nội – 2010 ii ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ Nguyễn Thị Hoàn PHƯƠNG PHÁP TRÍCH CHỌN ĐẶC TRƯNG ẢNH TRONG THUẬT TOÁN HỌC MÁY TÌM KIẾM ẢNH ÁP DỤNG VÀO BÀI TOÁN TÌM KIẾM SẢN PHẨM KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY Ngành: Công Nghệ Thông Tin Cán bộ hướng dẫn: PGS.TS. Hà Quang Thụy Cán bộ đồng hướng dẫn: Ths. Nguyễn Cẩm Tú Hà Nội - 2010 iii Lời cảm ơn Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn và lòng biết ơn sâu sắc nhất tới Phó Giáo sư Tiến sĩ Hà Quang Thụy và Thạc sĩ Nguyễn Cẩm Tú, người đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện khoá luận tốt nghiệp. Tôi chân thành cảm ơn các thầy, cô đã tạo những điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Công nghệ. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các anh chị, các bạn và các em sinh viên trong phòng nghiên cứu SIS-KTLab đã giúp tôi rất nhiều trong việc hỗ trợ kiến thức chuyên môn để hoàn thành tốt khoá luận. Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm vô hạn tới gia đình và bạn bè, những người thân yêu luôn bên cạnh và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Sinh viên Nguyễn Thị Hoàn iv Tóm tắt Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ ảnh số làm lượng ảnh lưu trữ trên web tăng lên một cách nhanh chóng đòi hỏi phải có các công cụ hỗ trợ tìm kiếm ảnh hiệu quả và tiện lợi. Mặc dù các công cụ tìm kiếm ảnh theo văn bản đi kèm ảnh ra đời cho phép người dùng tìm kiếm ảnh với thời gian đáp ứng khá nhanh, tuy nhiên, các công cụ này vẫn còn hạn chế trong việc giải quyết nhập nhằng giữa nội dung câu truy vấn và nội dung hiển thị của ảnh trả về. Sự ra đời của các công cụ tìm kiếm ảnh theo nội dung ảnh đã giải quyết được những nhập nhằng trên. Mục tiêu của khóa luận là nghiên cứu các phương pháp biểu diễn đặc trưng ảnh để nâng cao chất lượng tìm kiếm ảnh. Đầu tiên, khóa luận khảo sát phương pháp trích chọn đặc trưng ảnh trong tìm kiếm và xếp hạng ảnh. Tiếp đó, dựa theo phương pháp lượng tử hóa tích của Hervé Jégou và cộng sự [12], khóa luận đưa ra một mô hình tìm kiếm k láng giềng gần nhất kết hợp độ đo tương đồng về khoảng cách giữa các vector đặc trưng và tiến hành thực nghiệm mô hình. Thực nghiệm ban đầu cho thấy, từ một ảnh truy vấn đầu vào hệ thống trả về 10 ảnh tương đồng nhất đối với mỗi truy vấn với độ chính xác 80.4% và đây là một kết quả khả quan. v Mục lục Mở đầu 1 Chương 1. Khái quát về trích chọn đặc trưng ảnh và tìm kiếm theo đặc trưng ảnh 3 1.1. Đặt vấn đề 3 1.2. Đặc trưng văn bản đi kèm ảnh và tìm kiếm ảnh theo văn bản đi kèm ảnh. 3 1.3. Đặc trưng nội dung ảnh và tìm kiếm theo đặc trưng nội dung. 5 Tổng kết chương 1 8 Chương 2. Các phương pháp lựa chọn đặc trưng và độ đo tương đồng giữa các ảnh 10 2.1. Đặt vấn đề 10 2.2. Đặc trưng màu sắc 11 2.2.1. Đặc trưng màu sắc 11 2.2.2. Độ đo tương đồng cho màu sắc 11 2.3. Đặc trưng kết cấu 12 2.3.1. Đặc trưng kết cấu 12 2.3.2. Độ đo tương đồng cho kết cấu 12 2.4. Đặc trưng hình dạng 13 2.4.1. Đặc trưng hình dạng 13 2.4.2. Độ đo tương đồng cho hình dạng 13 2.5. Đặc trưng cục bộ bất biến 13 2.5.1. Đặc trưng cục bộ bất biến 14 2.5.2. Độ đo tương đồng cho đặc trưng cục bộ bất biến 18 2.6. Lựa chọn đặc trưng 18 Tổng kết chương 2 20 Chương 3. Một số phương pháp tìm kiếm ảnh theo nội dung 21 3.1. Phương pháp PageRank cho tìm kiếm ảnh sản phẩm 21 3.2. CueFlik: Một phương pháp xếp hạng lại ảnh dựa trên luật của người dùng 22 vi 3.3. Phương pháp tìm kiếm ảnh dựa trên màu sắc, hình dạng, kết cấu của ảnh 24 3.3.1. Lưới 25 3.3.2. Tích hợp các đối sánh ảnh 25 3.3.3. Hình dạng: 26 3.4. Phương pháp tìm kiếm ảnh dựa vào nội dung sử dụng các phân vùng ảnh như mẫu truy vấn 26 Tổng kết chương 3 27 Chương 4. Mô hình k láng giềng gần nhất sử dụng bộ lượng tử hóa 28 4.1. Đặt vấn đề 28 4.2. Cơ sở lý thuyết 28 4.2.1. Các ký hiệu và khái niệm 28 4.2.2. Tìm kiếm sử dụng lượng tử hóa 30 4.2.3. Tìm kiếm không toàn bộ 31 4.3. Mô hình bài toán 33 4.3.1. Trích chọn đặc trưng ảnh 33 4.3.2. Tìm kiếm K láng giềng gần nhất 34 Tổng kết chương 4 35 Chương 5. Thực nghiệm và đánh giá 36 5.1. Môi trường và các công cụ sử dụng cho thực nghiệm 36 5.2. Xây dựng tập dữ liệu ảnh 37 5.3. Quy trình, phương pháp thực nghiệm 38 5.4. Kết quả thực nghiệm 38 Tổng kết chương 5 41 Kết luận 42 Tài liệu tham khảo 43 vii Danh sách các bảng Bảng 1. Cấu hình phần cứng sử dụng trong thực nghiệm 36 Bảng 2. Công cụ phần mềm sử dụng trong thực nghiệm 36 Bảng 3. Một số thư viện sử dụng trong thực nghiệm 37 Bảng 4. Kết quả độ chính xác trung bình của 10 truy vấn 40 Bảng 5. Độ chính xác mức k của một số truy vấn 40 Danh sách các hình vẽ Hình 1. Ví dụ hiển thị một ảnh 4 Hình 2. Ví dụ truy vấn của Google 5 Hình 3. Ví dụ truy vấn của Google 5 Hình 4. Ví dụ về một số lọai kết cấu 6 Hình 5. Một kết quả trả về của Google Image Swirl 7 Hình 6. Một kết quả trả về của Tiltomo 7 Hình 7. Một kết quả trả về của Byo Image Search 8 Hình 8. Biểu đồ mô phỏng việc tính toán các DoG ảnh từ các ảnh kề mờ 15 Hình 9. Mỗi điểm ảnh được so sánh với 26 láng giềng của nó 16 Hình 10. Quá trình lựa chọn các điểm hấp dẫn 17 Hình 11. Biểu diễn các vector đặc trưng 18 Hình 12. Ví dụ các ảnh sản phẩm trả về từ hệ thống của Jing 22 Hình 13. Tổng quan về mô hình của hệ thống tìm kiếm theo màu sắc, kết cấu và hình dạng 25 Hình 14. Mô hình hệ thống IVFADC 33 Hình 15. Mô hình giải quyết bài toán 34 Hình 16. 10 kết quả trả về đầu tiên của hệ thống với truy vấn Apple 41 viii Danh sách các từ viết tắt STT Từ viết tắt Từ viết đầy đủ 1 ADC Asymmetric distance computation 2 AP Average Precision 3 BDA Biased Discriminant analysis 4 CBIR Content Based Images Retrieval 5 DoG Difference of Gaussian 6 IVFADC Inverted file asymmetric distance Computation 7 JSD Jensen-Shannon divergence 8 MAP Mean Average Precision 9 MDA Multiple Discriminant analysis 10 QBIC Query Based Image Content 11 SDC Symmetric distance computation 12 SIFT Scale Invariant feature transform 13 SMMS Symmetric maximized minimal distance in subspace ix Danh sách tham chiếu thuật ngữ Anh – Việt STT Thuật ngữ tiếng Anh Thuật ngữ tiếng Việt 1 Asymmetric distance Khoảng cách bất đối xứng 2 Biased Discriminant analysis Phân tích biệt thức không đối xứng 3 Boosting manner Tăng khuyếch đại 4 Content Based Images Retrieval Tìm kiếm ảnh theo nội dung 5 Co-occurrence matrix Ma trân đồng xuất hiện 6 Cotourlet transform Biến đổi đường viền 7 Discriminant analysis Phân tích biệt thức 8 Distribution based method Phương pháp dựa vào phân phối 9 Feature contrast Model Mô hình tương phản đặc trưng 10 Feature selection Lựa chọn đặc trưng 11 Gabor Wavelet transform Biến đổi sóng Gabor 12 Global texture descriptor Đặt tả kết cấu toàn cục 13 Image Segment Phân vùng ảnh 14 Interest point Điểm hấp dẫn 15 Inverted file asymmetric distance computation Tính toán khoảng cách bất đối xứng file chỉ mục ngược 16 Inverted list Danh sách chỉ mục ngược 17 Local features Đặc trưng cục bộ 18 Local interest Point Điểm hấp dẫn cục bộ 19 Local scale – invariant feature Đặc trưng cục bộ bất biến 20 Mean Average Precision Độ chính xác trung bình 21 Metadata Siêu dữ liệu 22 Non exhausitive search Tìm kiếm không toàn bộ 23 Product quantization Lượng tử hóa tích 24 Quantization code Mã lượng tử hóa 25 Query Based Image Content Truy vấn theo nội dung ảnh 26 Similarity measurment Độ đo tương đồng 27 Symmetric distance Khoảng cách đối xứng 28 Texture Kết cấu 29 The complex directional fillter Bộ lọc định hướng phức tạp 30 The steerable pyramid Kim tự tháp có thể lái được 31 Visual hyperlinks Siêu liên kết trực quan 1 Mở đầu Cùng với sự bùng nổ thông tin trên web và sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số, lượng ảnh lưu trữ trên Web cũng tăng một cách nhanh chóng. Vì vậy, việc xây dựng các hệ thống tìm kiếm và xếp hạng ảnh là rất cần thiết và thực tế đã có nhiều công cụ tìm kiếm ảnh thương mại xuất hiện. Các công cụ tìm kiếm ảnh thường dựa vào hai đặc trưng chính là văn bản đi kèm ảnh hoặc nội dung ảnh. Một số công cụ tìm kiếm ảnh theo văn bản đi kèm như Google Image Search, Yahoo!, MSN,…Một số công cụ tìm kiếm ảnh dựa vào nội dung ảnh như Google Image Swirl, Bing, Tiltomo, Tineye,…Tuy nhiên, việc tìm kiếm chỉ dựa vào văn bản đi kèm còn có nhiều nhập nhằng giữa nội dung hiển thị ảnh và nội dung văn bản đi kèm ảnh trong quá tình tìm kiếm. Ví dụ, với truy vấn “Apple”, máy tìm kiếm khó phân biệt được người dùng muốn tìm hình ảnh quả táo hay logo của hãng Apple. Những công cụ tìm kiếm ảnh theo nội dung của các bức ảnh ra đời tỏ ra ưu thế vì hạn chế được những nhập nhằng trên. Tìm kiếm ảnh theo nội dung đã nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học. Nhiều công trình nghiên cứu về tìm kiếm ảnh theo nội dung được đăng trên các tạp chí như International Journal of Computer Vision, IEEE conference… Nhóm nghiên cứu chúng tôi đã tiến hành một số nghiên cứu bước đầu liên quan đến xếp hạng ảnh dựa vào độ tương đồng theo nội dung ảnh trong công tác sinh viên nghiên cứu khoa học. Khóa luận “Phương pháp trích chọn đặc trưng ảnh trong học máy tìm kiếm ảnh và ứng dụng trong trong tìm kiếm sản phẩm” nhằm khảo sát, phân tích một số phương pháp trích chọn đặc trưng ảnh phổ biến và tìm kiếm ảnh theo ảnh mẫu, thử nghiệm hệ thống trong ứng dụng tìm kiếm sản phẩm. Ngoài phần MỞ ĐẦU này, khóa luận bao gồm các nội dung sau:  Chương 1. Khái quát về lựa chọn đặc trưng cho tìm kiếm ảnh. Các đặc trưng về về văn bản đi kèm ảnh và đặc trưng về nội dung ảnh.  Chương 2. Các phương pháp lựa chọn đặc trưng và độ đo tương tự giữa ảnh. Trình bày một số đặc trưng về nội dung ảnh và một số độ đo tương đồng tương ứng với các đặc trưng. 2  Chương 3. Một số phương pháp tìm kiếm và xếp hạng ảnh dựa trên nội dung của ảnh. Giới thiệu một số công trình nghiên cứu liên quan đến tìm kiếm ảnh theo nội dung ảnh.  Chương 4. Mô hình tìm kiếm K láng giềng gần nhất. Giới thiệu mô hình tìm kiếm K láng giềng gần nhất, phương pháp lưu trữ và đánh chỉ mục trong tìm kiếm.  Chương 5. Thực nghiệm. Trình bày quá trình thực nghiệm, kết quả, nhận xét, đánh giá khi áp dụng mô hình K láng giềng gần nhất với các đặc trưng trích chọn trong tìm kiếm ảnh sản phẩm.  Cuối cùng là phần KẾT LUẬN. Tổng kết các kết quả chính của khóa luận và phương hướng nghiên cứu tiếp theo. 3 Chương 1. Khái quát về trích chọn đặc trưng ảnh và tìm kiếm theo đặc trưng ảnh 1.1. Đặt vấn đề Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ ảnh số làm lượng ảnh lưu trữ trên web tăng lên một cách nhanh chóng. Mỗi ngày, có hàng triệu bức ảnh được đăng tải trên các trang ảnh trực tuyến như: Flickr1, Photobucket2, Facebook3,…. Theo thống kê, có 10 tỉ ảnh trên Facebook [tính đến tháng 10/2008], 3 tỉ ảnh trên Flickr [tính đến tháng 11/2008], 6.2 tỉ ảnh trên Photobucket[tính đến tháng 10/2008] [36]. Cùng với nhu cầu tìm kiếm văn bản, nhu cầu tìm kiếm ảnh cũng nhận được nhiều quan tâm của người sử dụng. Tuy nhiên, với một số lượng ảnh quá lớn trên Internet công việc tìm kiếm trở nên vô cùng khó khăn. Để giải quyết vấn đề này, các hệ thống tìm kiếm ảnh đã ra đời như: Yahoo, MSN, Google Image Search, Bing,…. Các hệ thống này cho phép người sử dụng nhập truy vấn về các ảnh cần quan tâm. Thông qua việc phân tích các văn bản đi kèm ảnh, hệ thống gửi trả các ảnh tương ứng với truy vấn của người dùng. Một số công cụ tìm kiếm ảnh thương mại khác như Tiltomo, ByoImageSearch,… cho phép người dùng nhập câu hỏi dưới dạng ảnh. Đây là một hướng nghiên cứu mới nhận được nhiều sự quan tâm của nhiều công trình khoa học trên thế giới. Một số sản phẩm thử nghiệm của các công ty lớn về tìm kiếm ảnh như: Google Image Swirl, Like, Tineye, Tiltomo….đã ra đời. Chương 1 trình bày về các đặc trưng của ảnh gồm đặc trưng văn bản đi kèm ảnh và đặc trưng về nội dung ảnh[ màu sắc, kết cấu, hình dạng, đặc trưng cục bộ] và một số vấn đề về tìm kiếm ảnh. 1.2. Đặc trưng văn bản đi kèm ảnh và tìm kiếm ảnh theo văn bản đi kèm ảnh. Mỗi ảnh trên web thường có các văn bản đi kèm như là tên ảnh [title], các thẻ [tags], bình luận [comment],…để mô tả các thông tin về ảnh, đây là các siêu dữ liệu 1 Flickr: //www.flickr.com 2 Photobucket: //www.photobucket.com 3 Facebook: //www.facebook.com 4 [metadata] về ảnh. Các dữ liệu này thường do người dùng tạo ảnh gắn cho mỗi ảnh, vì vậy chúng đều mang một ý nghĩa nhất định. Độ quan trọng của các loại siêu dữ liệu khác nhau cũng khác nhau. Ví dụ, các thẻ thường quan trọng hơn tên ảnh, tên ảnh quan trọng hơn bình luận. Dưới đây là một ví dụ về văn bản đi kèm một ảnh:  Title: “Red_Rose Flower”  Tags: “redRoseflower, hongkongflowershow, 2009, bokeh, causewaybay, hongkong, jonnoj, jonbinalay, nikond80, interestingness50”  Description: “HEAVEN SCENT" FOR THE LOVE OF THE RED RED ROSE  Content: Hình 1. Ví dụ hiển thị một ảnh Vì văn bản đi kèm ảnh mang ngữ nghĩa về nội ảnh cho nên hai bức ảnh có nội dung giống nhau thường có tên giống nhau và các thẻ tương tự nhau. Vì vậy, các công cụ tìm kiếm ảnh theo văn bản đi kèm thường tập trung khai thác nội dung của các văn bản này để tìm kiếm và xếp hạng ảnh. Phương pháp này cho kết quả khả quan cũng như đáp ứng nhanh nhu cầu của người sử dụng. Tuy nhiên, với các câu truy vấn mang ý nghĩa nhập nhằng có thể các kết quả trả về sẽ không đúng với yêu cầu đặt ra. Ví dụ khi truy vấn là “d-80”, một máy ảnh phổ biến của Nikon, thì các hệ thống trả về kết quả khá tốt [hình 2]. Tuy nhiên, với truy vấn “apple’, nếu người dùng muốn tìm quả táo thì kết quả trả về đầu tiên không thỏa mãn [logo của hãng Apple] [hình 3]: 5 Hình 2. Ví dụ truy vấn của Google Kết quả với truy vấn “d-80” Hình 3. Ví dụ truy vấn của Google Kết quả với truy vấn “Apple” Mặt khác, các albumn cá nhân thường không có các thẻ hoặc văn bản đi kèm ảnh. Cùng với số lượng ảnh số được chụp thêm mỗi ngày, việc gán thủ công các thẻ cho ảnh rất tốn kém. Một hướng nghiên cứu nhằm khắc phục vấn đề trên là tìm kiếm theo chính các đặc trưng trích xuất từ nội dung của ảnh. 1.3. Đặc trưng nội dung ảnh và tìm kiếm theo đặc trưng nội dung. Tìm kiếm ảnh theo nội dung [Content Based Images Retrieval CBIR] hay truy vấn theo nội dung ảnh [Query Based Image Content QBIC] là một ứng dụng của thị giác máy tính đối với bài toán tìm kiếm ảnh [30][35]. “Dựa vào nội dung ảnh [Content-Based] ” nghĩa là việc tìm kiếm sẽ phân tích nội dung thực sự của các bức ảnh. Nội dung ảnh ở đây được thể hiện bằng màu sắc, hình dạng, kết cấu [texture], các đặc trưng cục bộ [local features], … hay bất cứ thông tin nào có từ chính nội dung ảnh. Cụm từ CBIR được T.Kato đưa ra vào năm 1992 trong quá trình thu thập ảnh một cách tự động từ cơ sở dữ liệu dựa trên biểu diễn màu sắc và hình dạng của ảnh. Tee Cheng Siew đã giới thiệu một số đặc trưng nội dung ảnh[23]:  Đặc trưng màu sắc: Màu sắc là một đặc trưng nổi bật và được sử dụng phổ biến nhất trong tìm kiếm ảnh theo nội dung. Mỗi một điểm ảnh [thông tin màu sắc] có thể được biểu diễn như một điểm trong không gian màu sắc ba chiều. Các không gian màu sắc thường dùng là: RGB, Munsell, CIE, HSV. Tìm kiếm ảnh theo màu sắc tiến hành tính toán biểu đồ màu cho mỗi ảnh để xác định tỉ trọng các điểm ảnh của ảnh mà chứa các giá trị đặc biệt [màu sắc]. Các nghiên cứu gần đây đang cố gắng phân vùng ảnh theo các màu sắc khác nhau và tìm mỗi quan hệ giữa các vùng này. 6  Đặc trưng kết cấu: Trích xuất nội dung ảnh theo kết cấu nhằm tìm ra mô hình trực quan của ảnh và cách thức chúng được xác định trong không gian. Kết cấu được biểu diễn bởi các texel mà sau đó được đặt vào một số các tập phụ thuộc vào số kết cấu được phát hiện trong ảnh. Các tập này không chỉ xác định các kết cấu mà còn chỉ rõ vị trí các kết cấu trong ảnh. Việc xác định các kết cấu đặc biệt trong ảnh đạt được chủ yếu bằng cách mô hình các kết cấu như những biến thể cấp độ xám 2 chiều. Ví dụ về một số loại kết cấu[41] Hình 4. Ví dụ về một số lọai kết cấu  Đặc trưng hình dạng: Hình dạng của một ảnh hay một vùng là một đặc trưng quan trong trong việc xác định và phân biệt ảnh trong nhận dạng mẫu. Mục tiêu chính của biểu diễn hình dạng trong nhận dạng mẫu là đo thuộc tính hình học của một đối tượng được dùng trong phân lớp, so sánh và nhận dạng đối tượng. Thực tế, đã có nhiều máy tìm kiếm cho phép tìm kiếm ảnh theo nội dung ảnh, tuy nhiên, các máy tìm kiếm này thường chỉ khai thác vào một phần nội dung của ảnh.  Google Image Swirl: Là một thử nghiệm tìm kiếm hình ảnh theo nội dung của Google, trong đó, kết quả tìm kiếm được sẽ được tổ chức lại dựa vào hiển thị trực quan và độ tương đồng ngữ nghĩa giữa các ảnh. Google Image Swril phân cụm tốp đầu các kết quả trả về cho trên 200.000 câu truy vấn và cho phép hiển thị hình ảnh dưới dạng các cụm và mối quan hệ giữa các ảnh. 7 Hình 5. Một kết quả trả về của Google Image Swirl  Tiltomo: Là một công cụ dựa trên Flickr và duy trì chính cơ sở dữ liệu ảnh của Flickr. Nó cho phép tìm kiếm ảnh dựa vào độ tương đồng về chủ đề, màu sắc hay kết cấu. Hình 6. Một kết quả trả về của Tiltomo 8  Byo Image Search: Tìm kiếm ảnh theo độ tương đồng về màu sắc với mẫu ảnh mà người dùng tải lên từ máy tính hoặc từ một địa chỉ URL. Công cụ tìm kiếm này không hỗ trợ tính năng tìm kiếm ảnh dựa vào độ tương đồng về chủ đề. Hình 7. Một kết quả trả về của Byo Image Search Tìm kiếm ảnh theo mẫu [example-based image search]: Tìm kiếm ảnh theo mẫu là một dạng của tìm kiếm ảnh dựa vào nội dung. Trong hệ thống đó, đầu vào là một ảnh, hệ thống tìm kiếm và trả lại cho người dùng những ảnh tương đồng với ảnh mẫu. Trong nội khóa luận này, chúng tôi tập trung vào bài toán tìm kiếm ảnh dựa theo mẫu, tìm hiểu các phương pháp trích chọn đặc trưng nội dung cũng như các độ đo tương đồng để tìm kiếm tập ảnh sản phẩm gần với ảnh mẫu nhất trong tập cơ sở dữ liệu các ảnh sản phẩm. Tổng kết chương 1 Trong chương này, chúng tôi trình bày khái quát đặc trưng văn bản đi kèm ảnh và đặc trưng nội dung của ảnh, và giới thiệu một số công cụ tìm kiếm dựa vào nội dung ảnh. Phương pháp tìm kiếm ảnh theo nội dung đã khắc phục được một phần 9 nhược điểm của phương pháp tìm kiếm ảnh theo văn bản đi kèm ảnh và cho ra những kết quả khả quan. Chương 2, khóa luận sẽ trình bày một số công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến bài toán tìm kiếm ảnh theo nội dung. 10 Chương 2. Các phương pháp trích chọn đặc trưng và độ đo tương đồng giữa các ảnh 2.1. Đặt vấn đề Trong tìm kiếm ảnh theo nội dung, việc lựa chọn các đặc trưng thích hợp với từng loại truy vấn và miền ứng dụng cùng với các độ đo tương đồng tưong ứng là thành phần quan trọng và then chốt nhất[31]. Việc lựa chọn các đặc trưng và độ đo thích hợp sẽ giúp tăng cả tốc độ và mức độ chính xác của các hệ thống. J.V.Jawahe và cộng sự [32] đã nêu ra các yêu cầu cơ bản đối với thành phần lựa chọn đặc trưng cho ảnh:  Thành phần lựa chọn đặc trưng phải lựa chọn được một tập các đặc trưng cung cấp đầu vào tốt nhất cho hệ thống tìm kiếm ảnh. Nếu số lượng các đặc trưng quá nhiều sẽ làm “che khuất” các “tín hiệu” [giảm các “tín hiệu” đối với tỉ lệ nhiễu], mặt khác, nếu số lượng các đặc trưng quá ít sẽ khó phân biệt được ảnh trong tìm kiếm.  Nó phải giảm bớt được độ phức tạp trong lúc tính toán tổng thể bằng giảm đa chiều của bài toán phân lớp.  Khi người dùng muốn sử dụng các đặc trưng đó cho mọi truy vấn, thì việc sử dụng các đặc trưng này phải hiệu quả. Vì số lượng các đặc trưng có thể là hàng ngàn, dó đó thời gian xử lý của module phải tuyến tính với số lượng đặc trưng.  Vì thời gian xử lý của thành phần lựa chọn đặc trưng tuyến tính với số lượng đặc trưng, do đó việc lựa chọn các đặc trưng cũng nên tuyến tính dựa trên phân lớp.  Thành phần lựa chọn đặc trưng có thể xử lý được với kích thước tập mẫu nhỏ [khoảng 5 mẫu]. Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày sơ bộ về các vấn đề về đặc trưng của ảnh[màu sắc, kết cấu, hình dạng, đặc trưng cục bộ SIFT], một số độ đo tương đồng tương ứng với các đặc trưng và phương pháp lựa chọn đặc trưng ảnh để tăng chất lượng tập đặc trưng. 11 2.2. Đặc trưng màu sắc 2.2.1. Đặc trưng màu sắc Tìm kiếm ảnh theo lược đồ màu là phương pháp phổ biến và được sử dụng nhiều nhất trong các hệ thống tìm kiếm ảnh theo nội dung. Đây là phương pháp đơn giản, tốc độ tìm kiếm tương đối nhanh tuy nhiên kết quả tìm kiếm có độ chính xác không cao. Đây có thể xem là bước lọc đầu tiên cho những bước tìm kiếm sau. Một số lược đồ màu được sử dụng như: lược đồ màu RGB, lược đồ màu HSI, lược đồ HSI cải tiến. Trong đó, lược đồ màu RGB được sử dụng phổ biến nhất[18][20].  Lược đồ màu RGB: Đối với ảnh 256 màu, lược đồ màu của ảnh tương đương với lược đồ màu của ảnh xám. Đối với ảnh 24 bit màu, lược đồ miêu tả khả năng kết nối về cường độ của ba kênh màu R, G, B. Luợc đồ màu này được định nghĩa như sau: , ,, , Pr , ,R G Bh r g b N ob R r G g B b     [1] Trong đó N là số lượng điểm có trong ảnh. Lược đồ màu này được tính bằng cách rời rạc hóa từng màu trong ảnh, sau đó đếm số điểm ảnh của mỗi màu. Khi mà số lượng màu là có hạng, để thuận tiện hơn, người ta thường chuyển đổi ba kênh màu thành một biến giá trị duy nhất. Một cách khác để tính lược đồ màu của ảnh RGB là ta phân ra làm 3 lượt đồ riêng biệt []Rh, []Gh, []Bh. Khi đó, mỗi lược đồ được tính bằng cách đếm kênh màu tương ứng trong mỗi điểm ảnh. 2.2.2. Độ đo tương đồng về màu sắc Một số độ đo tương đồng được sử dụng như: Đ ộ đo khoảng cách Ơclit, độ đo Jensen-Shannon divergence [JSD]. Gọi h[I] và h[M] tương ứng là 2 lượt đồ màu của hai ảnh I và ảnh M. Khi đó các loại độ đo màu được định nghĩa là một số nguyên [hoặc số thực] theo các loại độ đo tương ứng như sau:  Khoảng cách Ơclit: Đây là khoảng cách Ơclit thông thường giữa các K bin:  21ersec [ [ ], [ ]] [ ] [ ]KjInt tion h I h M h I h M  [2] 12 Hoặc: 1ersec [ [ ], [ ]] [ ] [ ]KjInt tion h I h M h I h M  [3]  Độ đo Jensen-Shannon divergence [JSD] : Độ đo Jensen-Shannon divergence sử dụng lược độ màu RGB để tính toán độ tương đồng về màu sắc giữa 2 ảnh : 12 2 '[ , '] log ' log' 'Mm mJSD m mmm m m mH Hd H H H HH H H H   [4] Trong đó : H và H’ là 2 biểu đồ màu được so sánh, mHlà bin thứ m của biểu đồ H. 2.3. Đặc trưng kết cấu 2.3.1. Đặc trưng kết cấu Hiện tại, vẫn chưa có một định nghĩa chính thức cụ thể về kết cấu. Kết cấu là một đối tượng dùng để phân hoạch ảnh ra thành những vùng quan tâm để phân lớp những vùng đó[27][24][18][23]. Kết cấu cung cấp thông tin về sự sắp xếp về mặt không gian của màu sắc và cường độ một ảnh. Kết cấu được đặc trưng bởi sự phân bổ không gian của những mức cường độ trong một khu vực láng giềng với nhau. Kết cấu gồm các kết cấu gốc hay nhiều kết cấu gộp lại đôi khi gọi là texel. Một số phương pháp dùng để trích xuất các đặc trưng kết cấu như[18]:  Kim tự tháp "có thể lái được" [the steerable pyramid]  Biến đổi đường viền [the cotourlet transform]  Biến đổi sóng Gabor [The Gabor Wavelet transform]  Biểu diễn ma trận đồng hiện [co-occurrence matrix]  Hệ thống bộ lọc định hướng phức tạp [The complex directional fillter bank] 2.3.2. Độ đo tương đồng cho kết cấu ảnh Để đo độ tương đồng theo kết cấu giữa các ảnh, người ta thường sử dụng độ đo Ơclit. Kết cấu được trích xuất từ các bức ảnh sẽ được biểu diễn thành các vector nhiều chiều và khoảng cách Ơclit được dùng để đo độ tương đồng giữa các đặc trưng của ảnh truy vấn với đặc trưng của ảnh trong cơ sở dữ liệu. 13 2.4. Đặc trưng hình dạng 2.4.1. Đặc trưng hình dạng Màu sắc và kết cấu là những thuộc tính có khái niệm toàn cục trong một ảnh. Trong khi đó, hình dạng không phải là một thuộc tính của ảnh. Nói tới hình dạng không phải là nhắc đến hình dạng của một ảnh. Thay vì vậy, hình dạng có khuynh hướng chỉ đến một khu vực đặc biệt trong ảnh, hay hình dạng chỉ là biên của một đối tượng nào đó trong ảnh. Trong tìm kiếm ảnh theo nội dung, hình dạng là một cấp cao hơn so với màu sắc và kết cấu. Nó đòi hỏi sự phân biệt giữa các vùng để tiến hành xử lý về độ đo của hình dạng. Các hệ thống tìm kiếm ảnh theo nội dung thường khai thác hai nhóm biểu diễn hình dạng sau :  Biểu diễn hình dạng theo đường biên [cotour-based descriptor] : Biểu diễn các đường biên bao bên ngoài  Biểu diễn theo vùng [region-based descriptor]: Biểu diễn một vùng toàn vẹn 2.4.2. Độ đo tương đồng cho hình dạng Độ đo về hình dạng rất nhiều trong phạm vi lý thuyết của bộ môn xử lý ảnh. Chúng trải rộng từ những độ đo toàn cục dạng thô với sự trợ giúp của việc nhận dạng đối tượng, cho tới những độ đo chi tiết tự động tìm kiếm những hình dạng đặc biệt. Lược đồ hình dạng là một ví dụ của độ đo đơn giản. Kỹ thuật dùng đường biên hiệu quả hơn phương pháp trước, chúng tìm kiếm những hình dạng đối tượng gần giống với đường biên nhất. Phương pháp vẽ phác họa là phương pháp có nhiều đặc trưng rõ ràng hơn, không chỉ tìm kiếm những đường biên đối tượng đơn, mà còn đối với tập những đối tượng đã được phân đoạn trong một ảnh mà người dùng vẽ hay cung cấp. 2.5. Đặc trưng cục bộ bất biến Người ta thường chia đặc trưng cụ bộ thành 2 loại là những điểm trích xuất được từ điểm "nhô ra" [salient points] của ảnh và đặc trưng SIFT được trích chọn từ các điểm hấp dẫn Haris [interest points]. Trong phần này, chúng tôi sẽ trình bày chi tiết về việc trích chọn các đặc trưng cục bộ bất biến [Scale Invariant Feature Transform SIFT] của ảnh. 14 2.5.1. Đặc trưng cục bộ bất biến Phần này trình bày phương pháp trích rút các đặc trưng cục bộ bất biến SIFT của ảnh. Các đặc trưng này bất biến với việc thay đổi tỉ lệ ảnh, quay ảnh, đôi khi là thay đổi điểm nhìn và thêm nhiễu ảnh hay thay đổi cường độ chiếu sáng của ảnh. Phương pháp được lựa chọn có tên là Scale-Invariant Feature Transform [SIFT] và đặc trưng trích rút đựợc gọi là đặc trưng SIFT [SIFT Feature]. Các đặc trưng SIFT này được trích rút ra từ các điểm hấp dẫn cục bộ [Local Interest Point] [17][30][16]. Điểm hấp dẫn [Interest Point [Keypoint]]: Là vị trí [điểm ảnh] "hấp dẫn" trên ảnh. "Hấp dẫn" ở đây có nghĩa là điểm đó có thể có các đặc trưng bất biến với việc quay ảnh, co giãn ảnh hay thay đổi cường độ chiếu sáng của ảnh. Phương pháp trích rút các đặc trưng bất biến SIFT được tiếp cận theo phương pháp thác lọc, theo đó phương pháp được thực hiện lần lượt theo các bước sau:  Phát hiện các điểm cực trị Scale-Space [Scale-Space extrema detection]: Bước đầu tiên này tiến hành tìm kiếm các điểm hấp dẫn trên tất cả các tỉ lệ và vị trí của ảnh. Nó sử dụng hàm different-of-Gaussian để xác định tất cả các điểm hấp dẫn tiềm năng mà bất biến với quy mô và hướng của ảnh.  Định vị các điểm hấp dẫn [keypoint localization]: Một hàm kiểm tra sẽ được đưa ra để quyết định xem các điểm hấp dẫn tiềm năng có được lựa chọn hay không?  Xác định hướng cho các điểm hấp dẫn [Orientation assignment]: Xác định hướng cho các điểm hấp dẫn được chọn  Mô tả các điểm hấp dẫn [Keypoint descriptor]: Các điểm hấp dẫn sau khi được xác định hướng sẽ được mô tả dưới dạng các vector đặc trưng nhiều chiều. 2.5.1.1. Phát hiện điểm cực trị Scale-space Các điểm hấp dẫn với đặc trưng SIFT tương thích với các cực trị địa phương của bộ lọc difference –of-Gaussian [DoG] ở các tỉ lệ khác nhau. Định nghĩa không gian tỉ lệ của một hình ảnh là hàm [x,y,k ]L được mô tả như sau: [x,y, ] G[x,y,k ]* I[x,y]L  [5] Với [ , , ]G x y k: biến tỉ lệ Gaussian [variable scale Gaussian] [ , ]I x y : Ảnh đầu vào * là phép nhân chập giữa x và y 15 Và 2 2 2[ ]/221[ , , ]2x yG x y e  [6] Để phát hiện được các điểm hấp dẫn, ta đi tìm các cực trị của hàm DoG được định nghĩa: [ , , ] [ [ , , ] [ , , ]]* [ , ]D x y G x y k G x y I x y   [ , , ] [ , , ] [ , , ]D x y L x y k L x y    [7] Giá trị hàm DoG được tính xấp xỉ dựa vào giá trị scale-normalized Laplacian of Gaussian 2 2[ ]Gthông qua các phương trình [5][6][7] 2GG  [8] 2[ , , ] [ , , ]G G x y k G x yGk        [9] 2 2[ , , ] [ , , ] [ 1]G x y k G x y k G      [10] Như vậy, bước đầu tiên của giải thuật SIFT phát hiện các điểm hấp dẫn với bộ lọc Gaussian ở các tỉ lệ khác nhau và các ảnh GoG từ sự khác nhau của các ảnh kề mờ. Hình 8. Biểu đồ mô phỏng việc tính toán các DoG ảnh từ các ảnh kề mờ Các ảnh cuộn được nhóm thành các octave [mỗi octave tương ứng với giá trị gấp đôi của ]. Giá trị của k được chọn sao cho số lượng ảnh mờ [blured images] cho 16 mỗi octave là cố định. Điều này đảm bảo cho số lượng các ảnh DoG cho mỗi octave không thay đổi. Các điểm hấp dẫn được xác định là các cực đại hoặc cực tiểu của các ảnh DoG qua các tỉ lệ. Mỗi điểm ảnh trong DoG được so sánh với 8 điểm ảnh láng giềng của nó ở cùng tỉ lệ đó và 9 láng giềng kề ở các tỉ lệ ngay trước và sau nó. Nếu điểm ảnh đó đạt giá trị cực tiểu hoặc cực đại thì sẽ được chọn làm các điểm hấp dẫn ứng viên. Hình 9. Mỗi điểm ảnh được so sánh với 26 láng giềng của nó 2.5.1.2. Định vị điểm hấp dẫn: Mỗi điểm hấp dẫn ứng viên sau khi được chọn sẽ được đánh giá xem có được giữ lại hay không:  Loại bỏ các điểm hấp dẫn có độ tương phản thấp  Một số điểm hấp dẫn dọc theo các cạnh không giữ được tính ổn định khi ảnh bị nhiễu cũng bị loại bỏ. Các điểm hấp dẫn còn lại sẽ được xác định hướng.

Page 3

Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.Đề tài" Giải pháp nhằm hạn chế rủi rotrong thanh toán quốc tế theophương thức tín dụng chứng từ tạingân hàng thương mại cổ phầnxuất nhập khẩu Việt Nam "Sinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng11Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.Mục lụcSinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng22Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong thanh toán quốctế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàngthương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt NamLời nói đầuHoạt động ngoại thương với những đặc thù riêng luôn tiềm ẩn nhữngrủi ro có thể dẫn đến những thiệt hại to lớn về vật chất cho bên mua hoặcbên bán, thậm chí là thiệt hại cho tất cả các bên có tham gia vào hợp đồngngoại thương đó. Theo báo cáo của Tổng cục thống kê Việt Nam, tổng giátrị xuất khẩu của Việt Nam năm 2007 đạt 48 tỷ USD tăng 20,5% so với năm2006 và nhập khẩu đạt 59 tỷ USD tăng 31% so với năm 2006, dự đoán tăngtrưởng tốc độ 20% trong năm 2008 với cả tổng giá trị xuất nhập khẩu. Nhưvậy vấn đề hạn chế rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế nhằm đảm bảocho hoạt động ngoại thương được vận hành hoàn hảo là điều hết sức cầnthiết. Mặc dù đã có sự quan tâm và nỗ lực rất nhiều của Quốc hội, Chínhphủ, các bộ ngành có liên quan, nhưng khó khăn của những năm kinh tếđóng cửa đã để nước ta ở một vị trí quá xa so với thế giới tư bản đầy năngđộng. Những đối tác chính của chúng ta trong hoạt động ngoại thương giaiđoạn hiện nay. Chúng ta cần hoàn thiện hơn nữa môi trường pháp lý chohoạt động thanh toán quốc tế nói riêng và hoạt động ngoại thương nóichung, đào tạo đội ngũ nhân lực đạt đẳng cấp quốc tế để phục vụ nhữngtham vọng bay cao hơn của đất nước.Biết năng lực còn nhiều hạn chế, nhưng với mong muốn được bày tỏ ýkiến của mình trong việc đem lại vị thế tốt hơn cho các doanh nghiệp xuấtnhập khẩu Việt Nam và hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàngSinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng33Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.thương mại Việt Nam, tôi xin đề cập đến trong chuyên đề của mình một số ýkiến về "hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụngchứng từ tại NHTMCP xuất - nhập khẩu Việt Nam" như một nỗ lực cá nhânhy vọng có thể đem lại được một số kết quả nhất định.Khương Thanh TùngSinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng44Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.Chương 1: Lý luận chung về rủi ro trong thanh toán quốc tế theophương thức thanh toán tín dụng chứng từ.1.1. Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế theophương thức tín dụng chứng từ.Phương thức tín dụng chứng từ [L/C]: là phương thức thanh toán quốctế được sử dụng rộng rãi nhất và ưu việt nhất trong thanh toán quốc tế,chiếm khoảng hơn 70% giá trị thanh toán. Lý do chính ở đây là nó đảm bảoquyền lợi một cách tương đối cho cả người mua và người bán.1.1.1. Khái niệm về thanh toán theo phương thức tín dụngchứng từ.*Khái niệm. Thư tín dụng là một cam kết thanh toán của ngân hàng chongười xuất khẩu nếu như họ xuất trình được một bộ chứng từ thanhtoán phù hợp với các điều kiện và điều khoản của L/C.Do có cách tuỳ ý về cách gọi nên trong thực tế ta thường gặp nhiềuthuật ngữ khác nhau được dùng để chỉ phương thức thanh toán tín dụngchứng từ bằng tiếng Anh và tiếng Việt.Bằng tiếng Anh: Letter of Credit [L/C] hoặc DocumentaryCredit [D/C]Bằng tiếng Việt: Tín dụng thư, Thư tín dụng, Tín dụng chứngtừ, hoặc sử dụng các từ viết tắt như L/C, D/C.Cho dù với cách gọi như thế nào thì nó vẫn phải tuân thủ điều 2 củaUCP 600. Và từ khái niệm trên ta thấy, phương thức tín dụng chứng từ cóthể được áp dụng trong cả nội thương và ngoại thương. Trong ngoại thương,theo yêu cầu của nhà nhập khẩu một ngân hàng phát hành một L/C cho nhàxuất khẩu hưởng. Nội dung chủ yếu của L/C là sự cam kết của ngân hàngphát hành, theo đó ngân hàng phát hành sẽ trả tiền cho nhà xuất khẩu khi nhàSinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng55Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.xuất khẩu tuân thủ những điều quy định trong L/C và chuyển bộ chứng từcho ngân hàng để được thanh toán.Thực chất, L/C là một cam kết bằng văn bản của một ngân hàng pháthành được phát hành theo chỉ thị của người mua cho người bán hưởng và cóthể thanh toán theo phương thứctrả ngay [at sight] hay trả chậm [usancepayment]Thuật ngữ "Tín dụng - Credit" ở đây được dùng theo nghĩa rộng tức là"Tín nhiệm", chứ không phải để chỉ "một khoản cho vay" theo nghĩa thôngthường. Điều này được thể hiện rõ trong trường hợp khi người nhập khẩu kýquỹ 100% giá trị của L/C, thực chất ngân hàng phát hành không cấp bất cứmột khoản tín dụng nào cho người mơ L/C mà chỉ cho người nhập khẩu vaysự tín nhiệm của mình. Ngay cả trong trường hợp nhà nhập khẩu không hềký quỹ thì một khoản tín dụng thực sự chỉ xảy ra khi ngân hàng phát hànhtiến hành trả tiền cho nhà xuất khẩu và ghi nợ nhà nhập khẩu. Như vậy, thuậtngữ tín dụng trong phương thức tín dụng chứng từ chỉ thể hiện một khoản"Tín dụng trừu tượng" bằng lời hứa trả tiền của ngân hàng thay cho nhà nhậpkhẩu bằng vào uy tín của ngân hàng cao hơn nhà nhập khẩu.Qua phân tích cho thấy, trong phương thức tín dụng chứng từ, ngânhàng không chỉ là người trung gian thu hộ, chi hộ mà còn:- Là người đại diện cho nhà nhập khẩu thanh toán tiềnhàng cho nhà xuất khẩu, đảm bảo cho nhà xuất khẩunhận được khoản tiền tương ứng với hàng hoá mà họ đãcung ứng.- Là người đảm bảo cho nhà nhập khẩu nhận được sốlượng và chất lượng hàng hoá do bộ chứng từ đại diệnvà tương ứng với số tiền mà họ đã bỏ ra.Sinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng66Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.Nhà nhập khẩu có cơ sở để tin rằng ngân hàng sẽ không trả tiền trướckhi nhà xuất khẩu giao hàng, bởi vì điều này đòi hỏi nhà xuất khẩu phải xuấttrình bộ chứng từ gửi hàng. Trong khi đó, nhà nhập khẩu tin chắc rằng sẽnhận được tiền hàng xuất khẩu nếu anh ta trao cho ngân hàng phát hành bộchứng từ đầy đủ và phù hợp với quy định của L/C.Một cách tổng quát, có thể xem L/C là một sự "bảo lãnh thanh toán cóđiều kiện" bởi một ngân hàng cho một người thụ hưởng khi người này xuấttrình bộ chứng từ phù hợp với quy định của L/C. Hay nói cách khác, L/C làcam kết thanh toán hoặc chấp nhận và thanh toán của ngân hàng phát hànhđối với chứng từ xuất trình phù hợp với yêu cầu của L/C.Trong ngoại thương, người yêu cầu mở L/C là nhà nhập khẩu, cònngười thụ hưởng là nhà xuất khẩu. Như vậy, về bản chất L/C là một bức thưdo một ngân hàng viết ra theo yêu cầu của nhà nhập khẩu, cam kết trả chonhà xuất khẩu một số tiền nhất định, trong một thời hạn nhất định với điềukiện là nhà xuất khẩu phải thực hiện đúng và đầy đủ những điều khoản quyđịnh của L/C.L/C có tính chất quan trọng, nó được hình thành trên cơ sở của hợpđồng ngoại thương, nhưng sau khi được thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lậpvới hợp đồng này. Một khi L/C đã được mở và đã được các bên chấp nhậnthì cho dù nội dung của L/C có đúng với hợp đồng ngoại thương hay khôngcũng không làm thay đổi quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan. Điềunày hàm ý, khi nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ phù hợp về mặt hệthống với những quy định trong L/C thì ngân hàng phát hành phải trả tiền vôđiều kiện cho nhà xuất khẩu, mặc dù trên thực tế hàng hoá không hoàn toànđúng nhưđã ghi trên chứng từ, nếu hàng hoá không ghi đúng như trongchứng từ thì 2 bên tự giải quyết với nhau không liên quan đến ngân hàngphát hành. Chỉ trong trường hợp chứng từ không phù hợp với các điềuSinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng77Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.khoảncủa L/C mà ngân hàng vẫn thanh toán thì ngân hàng phải chịu hoàntoàn trách nhiệm và nhà nhập khẩu có quyền từ chối thanh toán cho ngânhàng phát hành.Như vậy trong giao dịch L/C tất cả các bên tham gia chỉ căn cứ vàochứng từ mà không căn cứ vào hàng hoá. Trong thực tế một số nhà nhậpkhẩu có thể sử dụng L/C như là một công cụ dự phòng để cụ thể hàng hoá,chi tiết hàng hoá hoặc bổ sung những điều khoảnmà hợp đồng ngoại thươngcòn sót, ngoài ra còn để đính chính, sửa chữa những nội dung bất lợi tronghợp đồng ngoại thương đã ký. Nhưng việc này chỉ tránh được việc phải mởmột L/C cho nhà xuất khẩu hưởng còn nhà xuất khẩu có thể kiện nhà nhậpkhẩu ra toà trên cơ sở các điều khoản của hợp đồng thương mại.1.1.2. Phân loại L/C.1.1.2.1. Theo công dụng của L/C.* L/C có thể huỷ ngang [Revocable letter of credit]: là loại L/Ccó thể bị sửa đổi hoặc huỷ bỏ mà không cần thông báo cho người hưởng lợi.Nó chứa đựng những rủi ro đối với người bán vì việc sửa đổi hoặc huỷ L/Ccó thể xảy ra khi hàng hoá đang trên đường vận chuyển hoặc trước khi việcthanh toán được thực hiện. L/c huỷ ngang tạo cho người mua tối đa sự chủđộng vì nó có thể được sửa đổi hoặc huỷ ngang mà không cần thông báo chongười bán. Vì vậy L/C huỷ ngang chỉ có thể sử dụng trong các trường hợp:o Việc giao hàng thực hiện giữa công ty mẹ và công ty cono Giữa người mua và người bán có quan hệ rất tốt.* L/C không thể huỷ ngang [Irrevocable letter of credit]: Là loạiL/C sau khi đã được ngân hàng mở thì không thể sửa đổi, bổ sung hay huỷbỏ trong thời hạn hiệu lực của L/C nếu không có sự thoả thuận của các bêntham gia. L/C không huỷ ngang đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia,nên nó được sử dụng rộng rãi.Sinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng88Ngân hàng thông báo/ Ngân hàng trả tiền Ngân hàng phát hành3. Hàng hoá1. Đơn xin mở L/C6. Bộ C. Từ2. L/C5. Bộ c. từ +hối phiếu+ thư đòi tiền8. Thanh toán2. L/C4. Bộ c.từ + hối phiếuGiải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.Quy trình nghiệp vụ L/C không thể huỷ ngang* Thư tín dụng xác nhận [confirming L/C]: là loại thư tín dụng không thểhuỷ ngang, được một ngân hàng khác xác nhận, điều đó có nghĩa là ngoàicam kết thanh toán của ngân hàng phát hành L/C còn có thêm sự cam kếtcủa ngân hàng xác nhận. Ngân hàng xác nhận có thể là ngân hàng thông báohoặc là một ngân hàng thứ 3 tuỳ theo thoả thuận giữa người mua, ngườibánvà ngân hàng phát hành L/C. Trong thực tế việc yêu cầu xác nhận L/Ckhông xuất phát từ mong muốn của người mở L/C mà xuất phát từ yêu cầucủa người hưởng lợi khi họ nghi ngờ khả năng thanh toán và uy tín của ngânhàng phát hành L/C hoặc họ lo lắng về tình hình an ninh chính trị của nướcngười nhập khẩu. Khi ngân hàng xác nhận đã thanh toán cho người hưởngtheo đúng quy định của L/C nó có quyền truy đòi số tiền thanh toán từ ngânhàng phát hành. Để đảm bảo an toàn, ngân hàng xác nhận có thể yêy cầungân hàng phát hành ký quỹ theo một tỷ lệ nhất định. Ngược lại, để đảm bảoquyền lợi của mình, ngân hàng phát hành sẽ thoả thuận với khách hàng đểSinh viên thực hiện: Khương Thanh TùngHợp đồng ngoại thương7. T.toán9. TtoánNhà nhập khẩuNhà Xuất khẩu991. Đơn xin mở L/C7.Bộ C.Từ2. L/C6. Bộ c. từ+hối phiếu9. Thanh toán3.L/C đã được xác nhận5.Bộ c.từ + hối phiếu4. Hàng hoáGiải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.chọn ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu làm ngân hàng xácnhận, tránh những rủi ro về vốn ký quỹ tại ngân hàng xác nhận. L/C này,người hưởng lợi được đảm bảo chắc chắn của ngân hàng xác nhận, cộngthêm vào sự cam kết của ngân hàng phát hành L/C, người hưởng lợi sẽ đượcngân hàng các nhận thanh toán miễn truy đòi nếu xuất trình chứng từ phùhợp, ngay cả trong trường hợp ngân hàng phát hành không thanh toán được,người thụ hưởng cũng tránh được cả những rủi ro về ngoại hối hay rủi roquốc gia khác của ngân hàng phát hành L/C.Quy trình nghiệp vụ của L/C xác nhận.1.1.2.2. Căn cứ vào thời gian thanh toán của L/C.* L/C trả ngay [L/C payable by draff at sight]: là loại L/C không thểhuỷ ngang và phải thanh toán ngay khi hối phiếu được xuất trình. Rủi roSinh viên thực hiện: Khương Thanh TùngHợp đồng ngoại thươngNhà nhập khẩu Nhà xuất khẩu10.ThanhtoánNgân hàng thông báoxác nhậnNgân hàng phát hành8.Thanhtoán1010Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.trong loại L/C này là thường phải thanh toán trước khi nhận hàng, vì hốiphiếu và chứng từ thường đến trước hàng hoá cập cảng.* L/C trả chậm [L/C available by deffered Payment]: là loại L/C trongđó ngân hàng phát hành cam kết thanh toán cho người hưởng lợi số tiền củaL/C một số ngày sau khi bộ chứng từ hoàn hảo được xuất trình hoặc saungày giao hàng.Loại L/C này có 2 dạng:- L/C có kỳ hạn: là loại L/C không huỷ ngang trong đóngân hàng phát hành sẽ chấp nhận hối phiếu có kỳ hạndo người hưởng lợi ký phát khi họ xuất trình được bộchứng từ hoàn hảo. Những hối phiếu này nhà xuất khẩucó thể giữ cho đến thời hạn thanh toán và lúc ấy trìnhnộp ngân hàng để nhận tiền hoặc bán, chuyển nhượngtrên thị trường, các ngân hàng có thể mua hối phiếuchấp nhận thanh toán cho chính mình.- L/C trả dần: là loại L/C không thể huỷ ngang, trong đóquy định cho người hưởng sẽ được thanh toán dần toànbộ số tiền của L/C theo những thời hạn đã quy định rõtrong L/C đó. Khác với loại L/C có kỳ hạn, loại L/C nàykhông đòi hỏi hối phiếu do người bán ký phát. Do vậy,người bán không có quyền lợi pháp lý đối với hối phiếuvà quyền truy đòi đối với hối phiếu đó. Quy trình nàychỉ khác với quy trình nghiệp vụ L/C không huỷ ngangở chỗ việc thanh toán được thực hiện theo từng kỳ hạnnhất định.Quy trình nghiệp vụ của L/C có kỳ hạn.Giai đoạn 1: Thực hiện L/C trả chậm.Sinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng11111. Đơn xin mở L/C2. L/C3.L/C4. Hàng hóa5. Bộ c.từ + hối phiếu6a.Bộ c.từ+hphiếu7a. Bộ c.từ7b.Chấp nhận thanh toán6b. HF được c/nGiải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.Giai đoạn 2: Khi hối phiếu đáo hạn, chuyển sang nhờ thu hối phiếu đã đượcchấp nhận.* L/C chấp nhận [L/C available by acceptance]: là loại L/C trong đóngân hàng phát hành L/C thực hiện chấp nhận hối phiếu hoặc chỉ định bênthứ 3 chấp nhận hối phiếu, với điều kiện người thụ hưởng xuất trình bộchứng từ theo quy định của L/C. Ngân hàng phát hành L/c trong bất kỳSinh viên thực hiện: Khương Thanh TùngHợp đồng ngoạithươngNhà nhập khẩu 6b.HFđượcc/nNgân hàng pháthànhNgân hàng thôngbáoNhà xuất khẩuNhà nhập khẩuNhà xuất khẩu3.thanhtoán4. Ghi nợ Tknhà nhập khẩu3. Thanh toán2.Hp đã c/n+điện đòitiền1.Hpđượcc/nNgân hàng phát hànhNgân hàng thông báo1212Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.trường hợp nào cũng phải thanh toán hối phiếu đã chấp nhận, khi các điềukiện của L/C đã được đáp ứng đầy đủ.1.1.2.3. Trên giác độ quan hệ đối tác.* L/C trực tiếp [Straight L/C]: là loại L/C trong đó nghĩa vụ thanhtoán của ngân hàng phát hành L/C chỉ giới hạn duy nhất đối với người thụhưởng của L/C. Dạng L/C này thường yêu cầu người thụ hưởng xuất trìnhchứng từ trực tiếp cho ngân hàng phát hành L/C hết hạn hiệu lực tại thờiđiểm giao dịch của ngân hàng]* L/C cho phép chiết khấu [L/C available by Negotiation]: là loại L/Ctrong đó ngân hàng phát hành L/C uỷ quyền cho một ngân hàng nhất định[trường hợp hạn chế - Restricted Negotiation] hoặc cho phép bất kỳ ngânhàng nào [trường hợp không hạn chế - Freely Negotiation] mua lại bộ chứngtừ hoàn hảo do người thụ hưởng xuất trình. L/C chiết khấu có thể được xácnhận hoặc không được xác nhận. Thông thường ngân hàng được uỷ quyền sẽchỉ mua chứng từ với điều kiện boả lưu, nghĩa là ngân hàng chiết khấu giànhquyền truy đòi lại từ người hưởng lợi một số tiền đã chiết khấu giành quyềntruy đòi từ người hưởng lợi số tiền đã chiết khấu nếu không thu được từngân hàng phát hành L/C.1.1.2.4. Một số loại L/C đặc biệt.* L/C có điều khoản đỏ [Red clause L/C]: là loại L/C trong đó có mộtđiều khoản ghi rõ điều khoản đặc biệt ngân hàng phát hành sẽ chuyển tiềnhoặc uỷ quyền cho một ngân hàng thông báo [hoặc ngân hàng thông báo,Sinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng1313Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.ngân hàng xác nhận, ngân hàng chiết khấu] để thực hiện ứng trước chongườihưởng lợi một số tiền nhất định trước khi giao hàng, thông thường số tiềnứng trước tính theo tỷ lệ % so với giá trị L/C và phải xuất trình chứng từ tạingân hàng mà họ đã nhận tiền ứng trước và phải bồi hoàn lại số tiền này nếukhông xuất trình đủ chứng từ hợp lệ trong thời hạn quy định. Số tiền ứngtrước được thực hiện theo yêu cầu của người mở L/C. Rủi ro trong thanhtoán L/C điều khoản đỏ là tiền ứng trước có thể bị sử dụng sai mục đích,chứng từ do nhà xuất khẩu xuất trình có thể không phù hợp hoặc ngườichứng khoán không hoàn thành được việc sản xuất hàng hoá mà cũng khônghoàn lại được tiền ứng trước.Để tăng thêm độ an toàn cho các khoản tiền ứng trước các bên có thểthoả thuận về việc phát hành một L/C điều khoản đỏ có bảo đảm, còn gọi làtín dụng điều khoản xanh. Nghĩa là bên cạnh các chứng từ như bình thường,người hưởng lợi còn phải xuất trình thêm thư bảo lãnh của một ngân hànghoặc giấy phép chứng minh việc hàng tập kết chuẩn bị giao cho mua. Điềukhoản ứng trước này phải được người yêu cầu mở L/C quy định cụ thể vàchịu trách nhiệm đối với ngân hàng phát hành L/C về điều khoản cụ thể.Quy trình nghiệp vụ thanh toán L/C điều khoản đỏ.Sinh viên thực hiện: Khương Thanh TùngNhà nhậpkhẩu8. Thanh toán9.ThanhtoánHợp đồng ngoại thươngNgân hàngphát hànhNgân hàng thôngbáo, ngân hàng trảtiềnNhà xuấtkhẩu1414Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.* L/C tuần hoàn [Revolving L/C]: là loại L/C không thể huỷ ngangmà sau khi sử dụng xong hoặc sau khi hết hạn hiệu lực L/C thì sẽ tự độngkhôi phục lại giá trị như cũ mà không cần mở L/C mới. Quy trình giống nhưL/C không huỷ ngang, sau khi thực hiện bước 9 thì quy trình được lặp lại từbước thứ 3 cho tới khi hết tổng giá trị L/C. Loại L/C tuần hoàn thường đượcsử dụng trong thanh toán với các bạn hàng quen biết, với số lượng hàng,chủng loại hàng mua ổn định trong một thời gian dài.L/C tuần hoàn có thể khống chế việc thực hiện theo 2 cách- Theo thời gian: Là khống chế thời hạn hiệu lực của L/C trong mỗilần tuần hoàn và tổng giá trị L/C. Theo cách này có thể là L/C tích luỹ hoặckhông tích luỹ. L/C tuần hoàn không tích luỹ không cho phép cộng số tiềncủa L/C trước để tăng giá trị của L/C sau nếu L/C trước chưa sử dụng hết.L/C tuần hoàn tích luỹ cho phép cộng dồn số tiền trước nếu các L/C trướcchưa sử dụng hết.- Theo giá trị: L/C tuần hoàn theo giá trị là L/C được phép khôi phụclại giá trị ngay khi giá trị cũ đã được sử dụng. Loại L/C này ít được sử dụngSinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng1515Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.vì nó tạo ra một cam kết vô hạn của ngân hàng phát hành. Do đó, khi phátdinh nhu cầu thanh toán L/C tuần hoàn, các ngân hàng thường phát hànhL/C khống chế theo thời gian hoặc khống chế số tiền vừa khống chế theothời gian.Có 3 cách tuần hoàn: Tự động, không tự động và hạn chế.- Tuần hoàn tự động: L/C tiếp sau tự động có giá trị,không cần thông báo của ngân hàng phát hành L/C.- Tuần hoàn không tự động: Chỉ khi nào ngân hàng pháthành L/C thông báo cho người bán thì L/C mới có giátrị hiệu lực.- Tuần hoàn hạn chế: nếu sau vài ngày kể từ ngày L/C cũhết hạn hiệu lực hoặc đã sử dụng hết mà không có ýkiến gì của ngân hàng phát hành thì L/C kế tiếp có giátrị hiệu lực.Rủi ro trong thanh toán L/C tuần hoàn là với khoàng thời gian dài nhưvậy thì tình hình tài chính của người nhập khẩu có thể xấu đi hoặc có nhữngbiến động trên thị trường tài chính của người nhập khẩu, biến động trên thịtrường tiêu thụ của người nhập khẩu, hàng hoá bị ứ đọng nhưng vẫn phảinhập tiếp hàng, không huỷ được L/C. Rủi ro của nhà nhập khẩu sẽ đem đếnrủi ro cho ngân hàng phát hành vì vậy loại L/C này chỉ được sử dụng trongviệc mua bán những hàng hoá với số lượng đều đặn và nhiều lần trong năm.Để hạn chế rủi ro, ngân hàng phát hành nên chủ động chỉ định L/C tuầnhoàn hạn chế hoặc không tự động hơn là tuần hoàn tự động.* L/C có thể chuyển nhượng[transferable L/C]: là một L/C mà ngườihưởng đầu tiên có thể yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển nhượng toànbộ hoặc một phần giá trị L/C gốc cho một hoặc nhiều người hưởng lợi thứ 2.Mục đích của loại L/C này nhằm giúp cho nhà xuất khẩu [thực chất là đốiSinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng1616Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.tác trung gian] tiến hành dịch vụ xuất khẩu mà không cần đến vốn của mình.Trong L/C chuyển nhượng, người hưởng lợi thứ nhất không tự động cungcấp được hàng hoá và người mua cuối cùng, L/C chỉ được chuyển nhượngmột lần. Các bên tham gia chuyển nhượng gồm:- Nhà nhập khẩu.- Ngân hàng phát hành.- Nhà xuất khẩu [người hưởng lợi thứ nhất]- Ngân hàng thông báo/ chuyển nhượng/ ngân hàng chấpnhận hoặc chiết khấu.- Người cung cấp/ người hưởng lợi thứ 2.L/C chuyển nhượng thường được sử dụng khi người hưởng lợi thứnhất là đại lý cho nhà nhập khẩu, khi đó họ không cần phải giữ bí mật vềngười cung cấp hàng hoá, còn trong trường hợp người hưởng lợi chỉ làngười trung gian cung cấp hàng hoá cho nhà nhập khẩu thì họ rất muốn giữbí mật về người cung cấp. Trong nghiệp vụ L/C chuyển nhượng thì ngườihưởng lợi thứ 2 chịu nhiều rủi ro hơn cả. Họ chỉ nhận được tiền khi ngườihưởng lợi thứ nhất được người mua thanh toán. Vì vậy họ gánh chịu rủi rokhông những về người mua và ngân hàng phát hành mà còn phải gánh chịucả rủi ro về người hưởng lợi thứ nhất và ngân hàng chuyển nhượng.Quy trình nghiệp vụ của L/C chuyển nhượngSinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng1717Ngân hàng thông báo/ ngân hàng chuyển nhượngNgân hàng phát hànhGiải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.- Trường hợp thứ nhất: người trung gian là đại lý chongười cung cấp5. hàng hoáTrường hợp thứ 2: người trung gian không có hoặc không đủ hànghoá để cung cấp cho nhà nhập khẩu.Sinh viên thực hiện: Khương Thanh TùngNgười cungcấpNgườitrunggianNhà nhậpkhẩu11.Thanhtoán9.Thanhtoán8. Bộchứngtừ6. Bộ c. từ+hối phiếu3.YêucầuchuyểnnhượngL/C2.L/C2. L/C1.ĐơnxinmởL/C10. Thanh toán7. C.từ + hối phiếu4. L/C đã c. nhượng1818Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.* L/C giáp lưng [Back to back L/C]: khi người hưởng nhận được mộtL/C [L/C gốc] không phải chuyển nhượng song không thể tự mình cungcấp hàng hoá, khi đó họ có thể thoả thuận với ngân hàng của mình pháthành một L/C thứ 2 [L/C giáp lưng] với nội dung tương tự cho người cungcấp hàng hoá. Điều khác biệt cơ bản nhất ở đây giữa L/C gốc và L/Cchuyển nhượng là L/C gốc và L/C giáp lưng hoàn toàn độc lập với nhau,ngân hàng phát hành L/C giáp lưng hoàn toàn chịu trách nhiệm thanh toánbộ chứng từ hợp lệ của L/C giáp lưng. Hay nói cách khác nghĩa vụ và tráchnhiệm của hai ngân hàng phát hành L/C gốc và L/C giáp lưng hoàn toànđộc lập với nhau. Vì vậy người cung cấp hàng hoá [người hưởng lợi L/CSinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng5. hàng hoá12b.Thanhtoán12a.Thanhtoán11.Thanhtoán10.Thanhtoán9.C.từ6. bộ c.từ +hối phiếu4. L/C đã được chuyểnnhượng7.H.đơnthaythế3.YcC.nhgL/C2.L/C8.C.từ +hphiếu2. L/C1.ĐơnxinmởL/CNgân hàngphát hànhNgân hàngthông báo/chuyểnnhượngNgười trunggianNhà nhậpkhẩuNgười cungcấp1919Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.giáp lưng] có thể yên tâm về mặt thanh toán. Về nguyên tắc L/C gốc sẽ làvật thế chấ hoặc sự đảm bảo cho việc thanh toán L/C giáp lưng, song việcthanh toán cho nhà cung cấp sẽ được thực hiện trước khi ngân hàng pháthành L/C giáp lưng nhận được L/C gốc. Đây chính là rủi ro đối với ngânhàng phát hành L/C giáp lưng. Để đảm bảo an toàn cho mình, ngân hàngphát hành L/C giáp lưng phải kiểm tra chặt chẽ chứng từ của L/C giáplưng, phối hợp với khách hàng của mình để hoàn thiện các chứng từ thanhtoán L/C gốc hoặc phải thực hiện nghiêm ngặt chế độ ký quỹ và thế chấpđối với người hưởng lợi thử nhất.Quy trình nghiệp vụ nhượng tiền thu được.Quy trình thanh toán L/C giáp lưngSinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng7. hàng hoá5. hàng hoá12. T.toán11.Thanhtoán10.Bộc.từ13a.thanhtoán6. bộC.từ13b. thanh toán4. thôngbáoc/nhượng8.Bộc.từNgân hàng thôngbáo/ ngân hàngchuyển nhượng3.Đơnxinc/nhg2.L/C9.C.từ+ hp2. L/C1.ĐơnxinmởL/CNgân hàngphát hànhNgười cungcấpNhà nhậpkhẩuNgười trunggian20205. hàng hoá6. bộ c.tư L/C giỏp lưngGiải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.* L/C dự phòng [standby L/C]: thực chất đây là một hình thức bảolãnh của ngân hàng, là một loại tín dụng chứng từ hoặc một thoả thuậntương tự, theo đó ngân hàng phát hành cam kết với người thụ hưởng:- Trả khoản tiền mà người yêu cầu mở thư tín dụng đã vay hoặcnhận ứng trước.- Bồi hoàn về những thiệt hại do người yêu cầu mở không thựchiện được nghĩa vụ của mình.L/C dự phòng cũng là cam kết thanh toán của ngân hàng phát hànhcho người thụ hưởng. Song khác với thư tín dụng truyền thống là phươngtiện thanh toán của người mua cho người bán theo hợp đồng thương mại thìL/C dự phòng chỉ để sử dụng để phòng ngừa đối tác vi phạm cam kết gâyhậu quả xấu cho người hưởng, và việc thanh toán sẽ được thực hiện khingười hưởng lợi xuất trình được những bằng chứng nêu lên những điều kiệncam kết không được thực hiện.Sinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng9a.hànghoá7.thanhtoỏnL/Cgiỏplưng14.thanhtoán4. L/C giáp lưng12.Thanhtoán11. bộchứngtừ9b8.bộc.từgl3.ĐơnxinmởL/Cgl2.L/C13. Ttoán10. Bộc.từ2. L/C 1.ĐơnxinmởL/CNgân hàng pháthành L/C gốcNgân hàng thôngbáo / ngân hàngchuyển nhượngNgười cung cấp Nhà nhập khẩuNgười trunggian2121Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.Như vậy, thực chất L/C dự phòng giống như một thư bảo lãnh củangân hàng. Riêng trong xuất nhập khẩu hàng hoá, L/C dự phòng là L/C màtrong đó ngân hàng mở cam kết với người hưởng lợi [nhà nhập khẩu ] sẽthanh toán lại cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thànhnghĩa vụ giao hnàg theo L/C đã đề ra. Khoản tiền này bao gồm: tiền đặt cọc,tiền ứng trước, mọi khoản chi phí liên quan đến việc mở một thư tín dụngthương mại và những chi phí liên quan khác.Quy trình thanh toán L/C dự phòngĐiểm khác biệt giữa tín dụng thương mại và thư tín dụng dự phòngSinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng6. L/Cdựphòng5. L/C dự phòng4. Đơnxin mởL/C dựphòng3. L/Cthươngmại2. L/C thương mại1.ĐơnxinmởL/CHợp đồng ngoại thươngNgân hàng phụcvụ nhập khẩuNgân hàng phụcvụ nhà xuấtkhẩuNhà nhậpkhẩuNhà xuất khẩu2222Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.- Trong thư tín dụng thương mại yêu cầu bộ chứng từ xuất trình đểthanh toán phải chứng minh việc người hưởng lợi đã hoàn thành nghĩa vụtheo hợp đồng.- Trong thư tín dụng dự phòng, việc xuất trình chứng từ nhằm mụcđích chứng minh việc người yêu cầu mở thư tín dụng không thực hiện đúngcam kết trong hợp đồng, khi đó ngân hàng mở thư tín dụng dự phòng phảithực hiện thanh toán ngay số tiền mở L/C cho người thụ hưởng.Thư tín dụng thương mại Thư tín dụng dự phòngLà phương thức thanh toán Là công cụ bảo lãnhNghĩa vụ thanh toán luôn được cácbên mong muốn thực hiệnNghĩa vụ thanh toán các bên khôngmong muốn thực hiện chứng từ thanh toán phức tạp chứng từ thanh toán đơn giảnÁp dụng UCP 600 Áp dụng UCP 600 hoặc ISP981.1.3. Quy trình nghiệp vụ trong giao dịch L/C.1.1.3.1. Các bên tham gia.- Người xin mở L/C [Applicant for L/C]: là người nhậpkhẩu hay người mua yêu cầu ngân hàng phục vụ mìnhphát hành một L/C và có trách nhiệm pháp lý về việc trảtiền của ngân hàng cho người bán theo L/C này.- Người thụ hưởng L/C [Beneficiary]: Người thụ hưởngcòn gọi là người hưởng hay người hưởng lợi L/C. Thưoquy định của L/C, đây là người được hưởng số tiềnthanh toán hay sở hữu hối phiếu đã chấp nhận thanhtoán. Tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà người thụ hưởng L/C cóthể có những tên gọi khác nhau như: seller, exporter,drawer, contractor.Sinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng2323Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.- Ngân hàng phát hành [issuing Bank – Opening Bank]:là ngân hàng theo yêu cầu của người mua, phát hànhmột L/C cho người bán hưởng. Ngân hàng phát hànhthường được các bên quy định trong hợp đồng ngoạithương, nếu không có sự thoả thuận trước thì nhà nhậpkhẩu được phép lựa chọn ngân hàng phát hành.- Ngân hàng thông báo [Advising Bank]: là ngân hàngđược ngân hàng phát hành yêu cầu thông báo L/C chongười thụ hưởng. Ngân hàng thông báo thường là mộtđại lý hay một chi nhánh của ngân hàng phát hành ởnước nhà xuất khẩu.- Ngân hàng xác nhận [Confirming Bank]: trong trườnghợp nhà xuất khẩu muốn có sự bảo đảm chác chắn củaL/C, thì một ngân hàng có thể đứng ra xác nhận L/Ctheo yêu cầu của ngân hàng phát hành. Thông thườngNHXN là một ngân hàng lớn có uy tín và có nhiềutrường hợp NHTB là NHXN. Muốn được xác nhận thìngân hàng phát hành phải trả chi phí rất cao, có thể phảiđặt cọc 100% giá trị của L/C.- Ngân hàng chỉ định [Nominated Bank]: là NHXN hoặcbất cứ ngân hàng nào khác được NHPH uỷ nhiệm đểkhi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp vớinhững quy định trong L/C thì:+ Thanh toán ngay cho người thụ hưởng. Ngânhàng được chỉ định thanh toán có tên gọi là PayingBank.Sinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng2424[6][7][7][6][5][8][10]Giải pháp nhằm hạn chể rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.+ Chấp nhận hối phiếu kỳ hạn. Ngân hàng đượcchỉ định chấp nhận hối phiếu có tên gọi làAccepting Bank+ Chiết khấu hối phiếu hoặc bộ chứng từ.+ Chịu trách nhiệm trả chậm giá trị của L/C.Trách nhiệm kiểm tra chứng từ của NHCĐ là giống ngân hàng pháthành khi nhận được bộ chứng từ nhà xuất khẩu gửi đến.1.1.3.2. Quy trình nghiệp vụ tín dụng chứng từ.1.1.3.2.1 L/C thanh toán tại ngân hàng pháthành.[1]: 2 bên mua bán và ký kết hợp đồng ngoại thương với điều khoảnthanh toán theo phương thức L/C.Sinh viên thực hiện: Khương Thanh Tùng[9] [4][3][2][1]Người hưởng[Nhà xuất khẩu ]Người mở[Nhà nhập khẩu]Ngân hàng thôngbáoNgân hàng pháthành2525

Page 4

Page 5

Phơng pháp giải toán có lời văn ở lớp 5.III- Những phơng pháp thực hiện :III-1 Các kiến thức cần nhớ:1 a- Tìm số trung bình cộng:TBC = Tổng các số hạng : số các số hạng.1- b -Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số:Số bé = [Tổng hiệu ]: 2Số lớn = tổng số bé.Hoặc số lớn = [tổng + hiệu] : 2Số bé = tổng số lớn.1-c -Tìm hai số biết tổng và tỉ số của hai số:Tìm tổng số phần,Tìm 1 phần,Tìm số bé,Tìm số lớn.1-d- Tìm hai số biết hiệu và tỉ số của hai số:Tìm hiệu số phần ,Tìm một phần,Tìm số bé,Tìm số lớn.1-e-Bài toán liên quan đến tỉ lệ:+Giải bằng phơng pháp rút về đơn vị.+Giải bằng phơng pháp dùng tỉ số.1-g - Giải bài toán về tỉ số phần trăm:Tìm tỉ số[ thơng ] của hai số nhân nhẩm với 100 và ghi thêm kí hiệu % vào bên phải số vừa tìm đợc.1-h-Giải các bài toán về chuyển động đều.v =s : t [trong đó v là vận tốc , s là quãng đờng, t là thời gian.]s = v x t [trong đó v là vận tốc , s là quãng đờng, t là thời gian.]t = s : v [trong đó v là vận tốc , s là quãng đờng, t là thời gian.][Trong mỗi công thức đó: Các đại lợng phải cùng sử dụng trong một hệ thống đơn vị đo]Lu ý tới chuyển động cùng chiều [ tìm hiệu vận tốc của 2 chuyển động], chuyển động ng-ợc chiều[ tìm tổng vận tốc của 2 chuyển động].1-i-Giải bài toán có nội dung hình học:Nhớ các công thức tính chu vi và diện tích, thể tích các hình đã học. A Hình chữ nhật: P = [a + b ] x 2 S = a x b Trong đó : P là chu vi S là diện tích a là chiều dài b là chiều rộng B- Hình vuông:Ngời thực hiện : Trần Thị Hằng Trang1 baa P = a x 4 S = a x a Trong đó : P là chu vi S là diện tích a là cạnh hình vuông C- Hình tam giác: S = a = h = Trong đó : S là diện tích, a là cạnh đáy, h là chiều cao. D-Hình thang: S = a +b = h = Trong đó : S là diện tích, a là đáy lớn, b là đáy nhỏ, h là chiều cao. E- Hình tròn: C = d x 3,14 = r x 2 x 3,14 S = rxr x 3,14 Trong đó : C là chu vi, S là diện tích, R là bán kính, d là đờng kính. G- Hình hộp chữ nhật: Sxq = [a + b] x 2 x h Stp = Sxq + [a x b ] x 2 V = a x b x h Trong đó : Sxq là diện tích xung quanh, Stp là diện tích toàn phần, a là chiều dài, b là chiều rộng, h là chiều cao, V là thể tích.H- Hình lập phơng: Sxq = a x 4 Ngời thực hiện : Trần Thị Hằng Trang2 ah2axhhSx2aSx22][ xhba+hSx2baSx+2d0rbhaahba Stp = a x 6 V = a x a x a Trong đó : Sxq là diện tích xung quanh Stp là diện tích toàn phần V là thể tích a là cạnh III_ 2 - Những biện pháp thực hiện: Cụ thể với các dạng toán cơ bản thờng gặp nh sau: Dạng 1: Các bài toán về trung bình cộng: Ví dụ: Trong 2 ngày Lan đọc xong một quyển truyện. Ngày thứ nhất Lan đọc đợc 20 trang, ngày thứ 2 đọc đợc 40 trang. Hỏi nếu mỗi ngày Lan đọc đợc số trang sách đều nh nhau thì mỗi ngày Lan đọc đợc bao nhiêu trang sách? Giáo viên cho học sinh đọc kĩ đầu bài. Tìm hiểu kĩ đề bài qua câu hỏi gợi ý : Bài toán cho biết gì?[ Lan đọc ngày 1 đợc 20 trang sách, ngày 2 đợc 40 trang sách] Bài toán hỏi gì?[ Tìm trung bình mỗi ngày lan đọc đợc bao nhiêu trang sách]Ta có tóm tắt bài toán nh thế nào là dễ hiểu và hợp lí, thuận tiện nhất? [vẽ sơ đồ]Ta thấy bài toán ở dạng toán cơ bản nào ta đã đợc học ? [ tìm số trung bình cộng]Muốn giải và trình bày bài toán TBC ta làm nh thế nào? [ Tìm tổng các số hạng rồi chia cho số các số hạng]- ở bài này cụ thể ta cần tính 2 ngày Lan đọc đợc tất cả bao nhiêu trang sách lấy số nào để thực hiện[ 20 + 40], số các số hạng là mấy[2] Lời giảiTa có sơ đồ sau:Số trang sách Lan đọc đợc trong hai ngày là:20 + 40 = 60 [trang]Số trang sách Lan đọc đều nh nhau trong mỗi ngày là:60 : 2 = 30 [trang]Đáp số :30 trangBài 2 Một gia đình gồm 3 ngời [bố, mẹ ,một con ].Bình quân thu nhập hàng tháng là 800 000 đồng mỗi ngời. Nếu gia đình đó có thêm một con nữa mà tổng thu nhập của gia đình không đổi thì bình quân thu nhập hàng tháng của mỗi ngời bị giảm đi bao nhiêu? Giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề bài, tìm hiểu bài toán cho biết gì [có 3 ngời, bình quân mỗi ngời 800 000 đồng]? hỏi gì [ thêm một ngời, bình quân thu nhập giảm đi bao nhiêu]? ta đa về dạng toán nào[ dựa theo TBC hay giải bài toán với phân số]? có thể dùng phơng pháp nào để giải [ Giải bài toán về phân số hay TBC, bằng phơng pháp vẽ sơ đồ, hay sơ đồ cây]? Bằng các câu hỏi gợi ý tìm hiểu đề bài để tóm tắt nh:Ngời thực hiện : Trần Thị Hằng Trang3 trang20trang40??Muốn biết bình quân thu nhập giảm đi bao nhiêu ta cần biết gì?[tổng số thu nhập và tổng số ngời sử dụng]. Tính đợc không và bằng cách nào ? cần biết những gì để dựa vào tính? phép tính là gì?[800 000 x 3 =2 400 000; 3+1 = 4; 2 400 000 : 4= 600 000; 800 000 600 000 = 200 000].Từ cách phân tích trên học sinh thực hiện tính và trình bày trình tự giải hợp lí. Hoặc [thêm một ngời giờ có ? ngời, tỉ số của số ngời lúc đầu và giờ đây là bao nhiêu , rồi tính , cũng có thể thực hiện tính gộp để bớt trình bày câu trả lời sẽ giúp nhanh và gọn hơn.[3: [3+1]= , 800 000 x = 600 000, 800 000 600 000 = 200 000] Tóm tắt phân tích đề : Số thu nhập bình quân giảm [200 000]Số thu nhập lúc đầu trừ đi số thu nhập Tổng số thu nhập chia cho số ngời lúc sau [800 000 600 000] [2400 000 : 4]Bình quân thu nhập lúc đầu nhân với số ngời lúc đầu , số ngời lúc đầu thêm 1[800 000 x 3] [3 +1]Sau đó lật ngợc lại lập phép tính từ dới lên ta sẽ tìm ra lời giải cho cách 1:Khi có thêm một con nữa gia đình có số ngời là:3+1 = 4 [ngời]Tổng số thu nhập lúc đầu là:800 000 x 3 = 2400000[đồng]Bình quân thu nhập lúc có thêm em bé là:2400000 : 4 = 600 000 [đồng]Bình quân thu nhập đã giảm đi là:800 000 - 600 000 = 200 000[đồng]. Đáp số : 200 000 đồngCách 2 : [ Dựa theo phép tính với phân số]Số ngời lúc sau có là [3 + 1 = 4 [ngời]]Tỉ số ngời lúc đầu so với lúc sau là:3: 4 =Bình quân thu nhập lúc sau của mỗi ngời:800 000 x = 600 000[ngời]Bình quân thu nhập của mỗi ngời lúc sau giảm là :800 000 600 000 = 200 000[đồng] Đáp số : 200 000 [ đồng]Ngời thực hiện : Trần Thị Hằng Trang4 43434343Với dạng toán trung bình cộng học sinh cần đọc kĩ đầu bài, phân tích, tóm tắt đề bài xem đã cho biết những gì, hỏi phải tìm những gì , cái cho biết và cái hỏi phải tìm có mối liên hệ nh thế nào? từ đó dựa vào mối liên hệ đó để tìm ra cách giải phù hợp khoa học và nhanh nhất. Dạng 2 :a- Ôn và giải toán tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số : Với dạng toán này học sinh thuộc các bớc thực hiện giải toán, ở dạng toán này các em gặp khó khăn xác định đúng tỉ số và tổng để tìm lời giải ,đặc biệt với các bài có phép tính trung gian mới tìm đợc tỉ số hoặc tổng. Những bài toán này học sinh lớp 5 thờng có thể giải theo bài toán với phân số, nhng bớc quan trọng các em cần xác định đợc tỉ số để thiết lập đợc phân số để thực hiện đợc phép tính giải toán. Bên cạnh đó các em còn sử dụng giải bằng phơng pháp chia tỉ lệ. Song dù giải bằng phơng pháp nào các em cũng cần tìm ra tỉ số và xác định đúng tỉ số và tổng của hai số. Ví dụ : Một vờn hoa hình chữ nhật có chu vi là 120 m . Chiều rộng bằng chiều dài .a- Tính chiều dài, chiều rộng vờn hoa đó? b- Ngời ta sử dụng diện tích vờn hoa để làm lối đi. Hỏi diện tích lối đi là bao nhiêu mét vuông? Với bài này các em cần cần tìm tổng chiều dài và chiều rộng [ tức nửa chu vi] rồi sẽ tính đợc chiều dài, chiều rộng.Tính đợc diện tích của vờn hoa, tính đợc diện tích lối đi có thể theo giải bài toán với phân số hay với toán tổng tỉ đều đợc. Nhng với bài này học sinh thờng nhầm lấy ngay chu vi để làm tính coi đó là tổng nên bài toán sai. Một số em khi đến bớc tìm diện tích lối đi , các em không biết cần tìm diện tích của vờn hoa. Khi hớng dẫn học sinh học sinh giải bài này yêu cầu học sinh cần đọc kĩ đề bài , xác định dữ kiện đã cho biết gì[ chu vi 120 m, chiều rộng bằng chiều dài, diện tích lối đi bằng diện tích thửa ruộng]? Hỏi gì [tính chiều dài chiều rộng và diện tích lối đi ]? Ta có thể gải theo dạng toán cơ bản nào[ tìm hai số biết tổng của hai số hay giải bài toán với phân số] ? có những cách giải nào? Chọn cách tóm tắt theo sơ đồ đoạn thẳng hay sơ đồ cây , nhìn vào sơ đồ các em nhận ra các bớc giải, tìm và chọn cách giải phù hợp với mình và khoa học , nhanh nhất:Chẳng hạn : a- Tính chiều dài và chiều rộng :Cần biết tổng [hiệu ] của chiều dài hay chiều rộng Tỉ số của chiều dài và chiều rộng Ngời thực hiện : Trần Thị Hằng Trang5 2517575251 Nửa chu vi :[120 : 2] = 60 b- Tính đợc lối đi cần: Tính diện tích của thửa ruộng Tìm của diện tíchGiảia- Nửa chu vi của thửa ruộng là:120 : 2 = 60 [m]Chiều rộng của thửa ruộng là:60 : [5 + 7 ] x 5 = 25 [m]Chiều dài của thửa ruộng là :60 - 25 = 35 [m]b- Diện tích của thửa ruộng là:35 x 25 = 875 [ m2 ]Diện tích lối đi là:875 x = 35 [m2 ] Đáp số : a- Chiều rộng : 25 m Chiều dài 35 m b- 35 m 2Ngoài ra còn cho học sinh giải bài tập dới dạng bài trắc nghiệm điền và chọn đúng sai, Bài toán vui, toán cổ... .Với hình thức đa dạng hình thức bài tập gây hứng thú học tập cho học sinh, đồng thời rèn kĩ năng thực hiện và giải toán cho học sinh.Chẳng hạn:Chọn câu trả lời đúng :Tổng của hai số là số nhỏ nhất có ba chữ số. Tỉ số của hai số là . Tìm hai số đó? A 3 và 97 B 3 và 7 C 30 và 70 D 33 và 77 .Hớng dẫn học sinh cách chọn nhanh :Tổng của hai số là số có 3 chữ số nên hai số đó phải có ít nhất 1 số là số có hai chữ số nên chỉ có thể là 30 và 70 hay 33 và 77, 3 và 97.Dựa theo tỉ số thì 1 trong 2 số phải là số chia hết cho 10 và cho 3 nên chọn đợc ngay đáp số đúng là C.b- Ôn tập giải bài toán tìm hai số biết hiệu và tỉ số của hai số:Cách hớng dẫn và giải tơng tự chỉ khác tìm hiệu số phần và cần xác định đợc hiệu của hai số. ở 2 dạng toán này, giáo viên cần cho học sinh phối hợp với phơng pháp chia tỉ lệ, với phơng pháp sơ đồ đoạn thẳng.Ngời thực hiện : Trần Thị Hằng Trang6 25125173 Kết luận:Với dạng toán thứ hai này các em cần xác định đúng tổng[hiệu] của hai số phải tìm, tỉ số của hai số phải tìm.Phân tích lựa chọn nên giải theo phơng pháp chia tỉ lệ hay phơng pháp giải toán về phân số để nhanh, khoa học và phù hợp, trình bày ngắn gọn và dễ hiểu, phù hợp với lớp 5 nhất. Sau đó giải và trình bày bài . Dạng 3 :Bài toán liên quan đến tỉ lệ Dạng toán này học sinh có hai phơng pháp giải : + Phơng pháp rút về đơn vị + Phơng pháp dùng tỉ số Cần cho học sinh đây hiểu đây là hai phơng pháp giải toán khác nhau nhng đều dùng để giải một dạng toán về tơng quan tỉ lệ [ thuận, nghịch]. Dạng toán này thờng có hai đại lợng biến thiên theo tơng quan tỉ lệ [thuận hoặc nghịch], ngời ta thờng cho biết hai giá trị của đại lợng này và một giá trị của đại lợng kia rồi bắt tìm giá trị thứ hai của đại lợng kia.Để tìm giá trị này thì dùng phơng pháp rút về đơn vị hay tỉ số nh sau:a- Phơng pháp rút về đơn vị :Bớc 1 : Rút về đơn vị : trong bớc này ta tính một đơn vị của đại lợng thứ nhất ứng với bao nhiêu đơn vị của đại lợng thứ hai hoặc ngợc lại .Bớc 2 : Tìm giá trị cha biết của đại lợng thứ hai.Trong bớc này lấy giá trị của đại lợng thứ hai tơng ứng với một đơn vị của đại thứ nhất [vừa tìm đợc ở bớc 1]nhân với [hoặc chia cho] giá trị còn lại của đại lợng thứ nhất.b- Phơng pháp tỉ số:Khi giải bài toán này ta tiến hành :Bớc 1 : Tìm tỉ số: Ta xác định trong hai giá trị đã cho của đại lợng thứ nhất thì giá trị này gấp hoặc kém giá trị kia mấy lần .Bớc 2; Tìm giá trị cha biết của đại lợng thứ hai.Ví dụ :Bài 1: Để hút hết nớc ở một cái hồ, phải dùng 3 máy bơm làm việc liên tục trong 4 giờ. Vì muốn công việc hoàn thành sớm hơn ngời ta dùng 6 máy bơm nớc nh thế. Hỏi sau mấy giờ sẽ hút hết nớc ở hồ?Phân tích :Trong bài này ta thấy có 3 đại lợng: Nớc ở hồ là đại lợng không đổi.Số máy bơm và thời gian là hai đại lợng biến thiên theo tỉ lệ nghịch ?Ta thấy : 3 máy bơm hút hết 4 giờ.1 máy bơm hút hết ? giờ.6 máy bơm hút hết ? giờ.Bài này ta có thể giải đợc bằng cả hai phơng pháp. Chẳng hạn:Phơng pháp dùng rút về đơn vị:Học sinh đọc đề và phân tích nh trên để tìm hiểu đề và tóm tắt sau đó giải nh sau:1 máy bơm hút cạn nớc hồ cần thời gian là :4 x 3 = 12[ giờ ]Ngời thực hiện : Trần Thị Hằng Trang7 6 máy bơn hút cạn hồ nớc hết thời gian là:12 : 6 = 2 [giờ] Đáp số : 2 giờPhơng pháp dùng tỉ số:Học sinh tìm xem số máy bơm tăng lên so với lúc đầu mấy lần , thì thời gian bơm sẽ giảm đi bấy nhiêu lần và giải nh sau :[Vì hai đại lợng số máy bơm và thời gian là hai đại lợng biến thiên theo tỉ lệ nghịch]6 máy bơm so với 3 máy bơm lớn gấp:6 : 3 = 2 [lần]Thời gian để 6 máy bơm hút cạn nớc hồ là :4 : 2 = 2 [giờ]. Đáp số : 2 giờ Qua ví dụ này đã hớng dẫn học sinh cả hai cách giải đông thời liên hệ cho học sinh thấy trong cuộc sống càng nhiều ngời đoàn kết tham gia công việc thì thời gian để công việc hoàn thành sẽ càng nhanh hơn. [ hay thời gian hoàn thành sẽ sớm hơn] để giáo dục học sinh biết đoàn kết tham gia công việc, đặc biệt với công việc chung. Dạng bài tập này học sinh khó khăn không biết cần tìm rút đơn vị của đại lợng nào hay tìm tỉ số của hai giá trị nào?Bởi vậy giáo viên cần định hớng cho học sinh cách tìm đại l-ợng rút ra đơn vị hay tìm tỉ số của hai giá trị.Bài 2 :Mua 5m vải hết 80 000 đồng.Hỏi mua 7m vải cùng loại hết bao nhiêu tiền?Phân tích và tóm tắt :Bài này có 2 đại lợng:Số m vải mua và số tiền mua vải là hai đại lợng biến thiên theo tơng quan tỉ lệ thuận.Ta thấy 5 m vải hết 80 000đồng. 1m vải hết ? đồng. 7 m vải hết ? tiền .Cho học sinh thấy 5 và 7 là hai số không chia hết cho nhau nên ta chỉ có thể giải bài toán bằng phơng pháp rút về đơn vị . Làm tính nh sau:Mua 1 m vải hết số tiền là :80 000 : 5 = 16 000 [đồng]Mua 7 mét vải hết số tiền là:16 000 x 7 = 112 000 [đồng ] Đáp số : 112 000 đồng.Bài 3 : Một ô- tô cứ đi 100 km thì tiêu thụ hết 12 l xăng. Nếu ô- tô đó đã đi quãng đờng 50 km thì tiêu thụ hết bao nhiêu lít xăng?Phân tích và tóm tắt tìm cách giải:Bài này có 2 đại lợng quãng đờng đi và số xăng tiêu thụ để đi hết quãng đờng đó là hai đại lợng có quan hệ tơng quan tỉ lệ thuận với nhau.Cứ 12lít xăng đi đợc 100 km 1 l xăng đi đợc ? km. ? l xăng đi hết 50 km.Ngời thực hiện : Trần Thị Hằng Trang8

Page 6

Đề bài: Tả em bé.Bài làm Các cụ ta có câu “ Ba tháng biết lấy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi” cháu Tễu của em cũng đang tuổi tập đi tập nói.Bé Tễu mới tròn một năm, trông Tễu thật là xinh và bụ bẫm. Mỗi khi Tễu cười thì nhô bốn cái răng trắng tinh. Những sợi tóc mềm mại như sợi tơ tằm được cắt tỉa gọn gàng. Đôi mắt Tễu tròn , đen lay láy ẩn dưới đôi lông mày hình trăng khuyết đen nhạt. Một hôm em sang chơi bé Tễu cười tít mắt đi đến chỗ em vẫy đôi tay lủn củn dễ thương. Tễu rất ngoan, ai bảo gì Tễu cũng nghe theo và làm đúng cái nấy, nếu có ai gọi thì Tễu lại d...ạ, ai bảo Tễu gọi bà thì Tễu gọi b...à...ơ...i ngọng líu ngọng lô. Tễu ngoan nhưng cũng có nhiều tật xấu, nào là cắn, làm nũng, ngửa cổ ăn vạ, lúc thì đòi đi chơi, lúc thì đòi bế nhưng không có ai bế Tễu cả, rồi Tễu khóc được một lúc lại ngừng và lấy đồ chơi ra “xếp xếp” “sắp sắp”. Bé Tễu rất thích đi, cứ thả xuống là cắm đầu cắm cổ chạy, ngã huỵch thì Tễu lại đứng dậy và đi tiếp. Tễu không bao giờ quậy phá linh tinh và không nghịch dại làm chết người.Em rất quý bé Tễu vì bé luôn đem lại những tiếng cười sảng khoái về hành động, lời nói và Tễu không nghịch dại.Đề bài: Tả bạn học sinh.Bài làm - Hương ơi! Nhanh lên- Ừ, tớ ra ngay đây, đợi tí nào!Các bạn biết giọng nói đó là của ai không? Đó chính là Hương cô bạn gái thân nhất của tôi đấy.Tôi và Hương chơi với nhau lâu lắm rồi, chúng tôi quen nhau khi hai đứa được xếp vào cùng một lớp hai. Từ hồi ấy đến bây giờ đã mấy năm rồi nhỉ? Chà! cũng lâu thật rồi đấy, tuy vậy nhưng tình bạn của chúng tôi vẫn thắm thiết như ngày nào. Tôi và Hương bằng tuổi nhau, nghĩa là năm nay hai đứa chúng tôi đều mười một tuổi. Tuy thế nhưng khi đi với Hương tôi thấy Hương trông có vẻ chững chạc và lớn hơn tôi nhiều. Hương đến lớp trong bộ áo đồng phục với chiếc áo trắng và chiếc váy kẻ ca rô cùng chiếc khăn quàng đỏ được thắt ngay ngắn trước ngực. ở nhà bạn thường mặc những bộ đồ rất mát mẻ, còn khi đi chơi bạn hay chọn các bộ đồ khoẻ khoắn với chiếc áo phông cùng với cùng với chiếc quần jeans. Hương có dáng đi thật uyển chuyển, nhẹ nhàng. Làn da trắng hồng, mịn màng làm tôn lên khuôn mặt bầu bĩnh, đáng yêu của bạn. Chao ôi! Đôi mắt của bạn thật là đẹp. Đôi mắt to, đen láy, sâu thẳm và trong đôi mắt đó luôn ánh lên cái nhìn nghịch ngợm của tuổi học trò nhưng cũng rất dịu hiền. Mái tóc đen óng, mượt mà, luôn được bạn cặp gọn ra đằng sau gáy bằng chiếc cặp nho nhỏ, xinh xinh. Em yêu nhất là khuôn mặt bạn mỗi khi vui hay mỗi khki bạn được điểm 10, khi đó khuôn mặt bỗng trở nên tươi tắn, rạng rỡ hẳn lên, đôi môi đỏ hồng hé nở một nụ cười để lộ hàm răng trắng, đều đặn. Chúng em quý Hương không chỉ vì nét đẹp đáng yêu của bạn mà là những nết tốt của bạn để chúng em noi theo. ở lớp Hương luyôn tỏ ra là một người học sinh xuất sắc, lực học về các môn của bạn rất đều. Trong lớp bạn còn rất chăm giơ tay phát biểu, những bài toán khó chưa thấy bạn nào giải được thì đã thấy cánh tay búp măng của Hương giơ lên rồi. tuy học giỏi nhưng Hương không hề kiêu căng mà rất khiêm tốn, những hôm có bài khó các bạn học kém thường nhờ bạn ấy giảng hộ và Hương vui vẻ nhận lời, hôm nay Hương giảng các bạn chưa hiểu thì hôm sau Hương lại giảng tiếp cho đến khi các bạn thật hiểu mới thôi. Không những thế Hương còn là một cây văn nghệ của lớp, giọng hát của bạn như trời phú: sao mà ấm áp, thiết tha đến thế khi hát về tình thầy trò, mà cũng thật à nhhí nhảnh, vui tươi khi hát về tình bạn thơ ngây trong sáng của tuổi học trò. Bạn còn rất lễ phép với người trên, khi gặp các thầy cô trong trường bạn đều đứng nghiêm chào hỏi lễ phép.Sau một thời gian được cùng học, cùng chơi với bạn em đã học được ở bạn rất nhiều tính tốt. và em sẽ cố gắng noi gương học tập ở bạn để trở thành một người học sinh xuất sắc.Đề bài: Em hãy viết thư thăm hỏi cô giáo cũ và nhắc lại một vài kỉ niệm về sự chăm sóc của cô giáo đối với em và các bạn.1Bài làm Hà Nội, ngày 10 tháng 3 năm 04Cô Thành kính mến của con!Tuy đã qua ngày mùng 8 tháng 3 nhưng vì giờ mới có thời gian rảnh nên con đặt bút viết thư này để thăm hỏi gia đình và chúc cô hạnh phúc nhân ngày lễ này.Cô có khoẻ không ạ? Cô còn nhớ lớp 2G cô làm chủ nhiệm năm xưa rất ngoan và giỏi. Cô đã dẫn dắt chúng con từ những học sinh tiên tiến trở thành giỏi. Thế bây giờ cô dạy lớp 2 gì ạ? Các em có ngoan và học giỏi không ạ? Còn nhớ lớp mình nói chuyện rất nhiều nhưng nhờ cô dạy dỗ mà lớp ít nói chuyện hơn. thế các em có nói chuyện nhiều như lớp con không? Chắc giờ các em lớp cô dạy vẫn đứng đầu khối 2. à, thế em Mai Anh nhà cô đã cao bằng nào rồi ạ? Hồi đó em mới chỉ đang được đánh vần chữ. Con được biết bây giờ em đã biết đánh đàn mà đánh đàn rất giỏi phải không cô. Thế chắc chị lớn nhà cô cũng sắp thi đại học rồi ạ?Cô có còn nhớ tập thể lớp 2G không? Từ khi cô chủ nhiệm đến giờ bạn Hồng anh luôn là lớp trưởng đi tiên phong trước cả lớp. Cả bạn Thạc anh nữa bạn cũng học rất giỏi cô ạ. Con thì đã được giải ba của trường rồi ạ. Con rất vui. Cô và bao kỉ niệm về cô luôn ở trong lòng con. Có lần cô đã cầm tay convà giúp con viết nắn nót từng nét. Cô còn bảo bạn Phương Anh viết mẫu cho con để giúp con rèn chữ. Những kỉ niệm đó in đậm trong lòng con cho đến bây giờ.Thư con viết đã dài, con xin dừng bút ở đây. Con hứa với cô con sẽ học thật giỏi để không phụ lòng cô dạy dỗ.Học sinh cũ của cô Kính thưĐề bài: Em hãy tả lại buổi sum họp của gia đình em hoặc gia đình em quen biết.Bài làm Tết năm ngoái, bố mẹ về thăm hai chị em tôi. Cả gia đình tôi lại được ngồi bên nhau trò chuyện thân mật sau một thời gian dài xa cách.Cả nhà dang ngồi uống trà, đón tết trong phòng khách. ánh đèn nê ông toả ánh sáng xanh dịu. chiếc tủ đứng bằng gỗ cẩm ly được đánh véc ni láng bóng như mặt gương, nổi bật các đường vân như những nét hoa văn kì ảo. ấm trà nóng bốc hương sen nghi ngút bên cạnh đĩa bánh mứt thơm ngon. Cây hoa đào với muôn ngàn cánh hoa nở rộ vẫy chào năm mới. đồ dùng trong nhà được mẹ tôi sắp xếp rất gọn gàng.Mẹ lấy trong va ly ra hai chiếc hộp quà xinh xắn. Ba nói: - Nào! hai chị em con mở ra xem bố mẹ mua tặng món quà gì?- à! Đó chính là một chú thỏ bông ngộ nghĩnh mà tôi mong có được nó từ bấy lâu nay. Bà tôi mang ra một gói kẹo đưa cho hai chị em tôi:- Hai cháu ăn xong nhớ đánh răng kẻo bị sún thì khổ.Bé Long chen vào quả quyết:- Long thương bà này, thương ba, mẹ, chị My và ...cô Hiền nữa. Vừa nói Long vừa giơ ngón tay ra đếm làm cho cả nhà phì cười. Ba hỏi với giọng nói sao mà ấm áp quá.- Thế năm nay con có được giấy khen không?Tôi thưa với bố và khoe tấm giấy khen:- Có ạ!Bố xoa đầu tôi cười:- Tốt lắm! Cố học giỏi cho mẹ và ba mừng nhé con.Mẹ nhìn tôi với ánh mắt trìu mến, chứa đựng cả một biển trời yêu thương dành cho tôi. Mẹ nở một nụ cười kín đáo, một niềm vui khôn tả. Trên ti vi chiếu chương trình đón tết. A! ở hồ Gươm đang bắn pháo hoa đẹp quá! Đêm giao thừa đó, cả gia đình tôi quây quần bên nhau suốt đêm.2Cứ năm nào cũng thế, gia đình tôi luôn có được những giờ phút sum họp thật vui vẻ, đầm ấm. Hai chị em tôi thật hạnh phúc trong mái ấm gia đình, trong vòng tay yêu thương của ba mẹ.Đề bài: Em hãy tả cảnh nhộn nhịp của sân trường em trong giờ ra chơi.Bài làm Nhanh thật đấy! loáng một cái cũng đã đến cuối tiết hai rồi, mà sao sân trường im ắng quá! Ngoài kia chỉ nghe thấy âm thanh vi vu của gió, líu lo của chim, với tiếng lá cây xào xạc mà thôi. Bỗng tùng! tùng! tùng! Ba hồi trống vang lên làm âm thanh im ắng ấy biến đâu mất và thay vào đó là tiếng nói, tiếng cười, tiếng hò reo khắp sân trường. Từ mọi cửa lớp, học sinh thi nhau ùa ra sân như những dòng thác đổ. Sân trường lúc trước rộng là thế mà bây giờ như hẹp lại bởi những tiếng cười đùa, tiếng bước chân chạy nhảy vui vẻ của các bạn học sinh. Màu đen của những mái đầu học trò, màu xanh rì của lá cây, màu trắng của áo đồng phục và cả màu khăn đỏ của các bạn đội viên nữa, tất cả những màu sắc ấy hoà quyện lại với nhau thành một vườn hoa đầy màu sắc, rực rỡ dưới ánh nắng ấm áp mùa thu. Có mấy nhóm chơi đã xác định được chỗ của mình rồi đấy! Dưới tán lá xanh mát của cây đa này là trò nhảy dây của các bạn gái, còn dưới gốc phượng có từng chùm hoa đỏ rực kia là chỗ bắn bi của các bạn trai, ồ! còn nhóm kéo co kia khôn thật xí ngay được một chỗ vừa rộng rãi lại mát mẻ ở dưới gốc hàng dưà. Xem ra mỗi trò chơi đều có cái hay, cái vui riêng của nó nhưng vui và sôi nổi nhất trong các nhóm chơi vẫn là trò kéo co. Trông xem trọng tài là ai mà oai thế nhỉ? à! Đó là Trang cô bạn hcọ với tôi đây mà, “nào cả hai đội đã sẵn sàng rồi trọng tài thổi còi đi chứ” “Huýt” tiếng còi của trọng tài vang lên báo hiệu cuộc chơi đã bắt đầu. “Dô ta! Dô ta!” cả hai đội đều cố sức kéo, chắc là mệt lắm nên bạn nào mặt cũng đỏ bừng mồ hôi thì chảy ròng ròng. Xung quanh đó các bạn cũng cổ vũ rất nhiệt tình: “Hiếu cố lên! Thắng cố lên”. Hiệp này xem ra có vẻ gay go, chưa đội nào phân thắng bại thì bỗng một tiếng hò reo lên: “Hú! Hú! hoan hô! Hiếu thắng rồi, cừ lắm!”. Tiếng reo hò đó làm ấn định tỉ số 1, 0 nghiêng về đội anh chàng Hiếu đang vui mừng cười toe toét. Ngay gần đó là trò chơi nhảy dây của các bạn gái cũng vui không kém. Vòng này là ba bạn: Thảo, Hiền, Lê thi với nhau, chà bàn này có vẻ gay go nhỉ vì cả ba bạn đều là những tay nhảy cừ trong lớp. Trông các bạn nhảy siêu thật, chân thoăn thoắt, tay đưa dây nhanh vèo vèo, chỉ nghe thấy tiếng dây vun vút chứ chẳng thấy dây và chân đâu cả. Vập! Vập! cả hai bạn Hiền Lê nhảy siêu thế mà bây giờ cũng bị loại và còn mình Thảo xứng với chức vô địch mà thôi. Bỗng tôi nghe thấy tiếng “Bắn đi Đạt, cho Nam thua đi” nhìn sang thì mới biết Đạt và nam đang bắn bi. Nhìn kìa, điệu bộ của Nam trông đến là buồn cười, xoa xoa bi này lại còn hà bi nữa chứ, lợi dụng lúc Nam sơ hở Đạt đặt bi xuống và cạch thế là Đạt thắng rồi. Lúc này Đạt mới bảo Nam đang ngắm các bạn gái “Này! tớ thắng rồi”, nghe Đạt nói Nam tức lắm định trả thù nhưng bỗng Tùng! Tùng! Tùng! ba hồi trống vang lên báo hiêụ giờ ra chơi đã hết. Chúng em xếp hàng rồi vào lớp trả lại sự yên tĩnh cho sân trường.Tuy chỉ có 15 phút thôi nhưng 15 phút đó cũng đủ giúp chúng em thoải mái, sảng khoái và tự tin hơn bước vào các tiết học sau.Đề bài: “Em hãy tả quang cảnh buổi lễ chào cờ đầu tuần của trường em”.Bài làm 3Chim hót líu lo, trăm hoa đua nổ, em thầm nghĩ: “Sao cảnh vật đẹp thế nhỉ?”. Sực nhớ ra hôm nay có buổi lễ chào cờ đầu tuần, em nhanh chân rảo bước tới trường trên con đường quen thuộc với niềm vui và sự phấn khởi tràn ngập.Sân trường trở nên nhộn nhịp như một ngày hội. Chị nắng nhảy nhót trên bầu trời trong xanh để ca múa. Những làn mây trắng như đang khẽ cười, thắp sáng sự vui mừng. Anh gió đu đưa vẫy chào mọi người. Các bạn học sinh đang xếp những hàng ghế thẳng tăm tắp như chơi trò xếp hình. Các thầy giáo, cô giáo đều có mặt đông đủ cùng với nụ cười tươi thắm nở trên môi. Ai nấy cũng đều bận rộn chuẩn bị cho lễ chào cờ. Bỗng: “Tùng!... Tùng!... Tùng!...”. Tiếng trống báo hiệu buổi lễ chào cờ vang lên. Ai nấy cũng đều trong tư thế chuẩn bị ở vị trí của mình. Cô Hằng tổng phụ trách nghiêm nghị ra hiệu lệnh: “Nghiêm! Chào cờ!... Chào!”. Các bạn đội viên giơ những bàn tay nhỏ nhắn của mình lên để chào cờ một cách dứt khoát. Trong từng nhịp trống do các bạn trong đội nghi lễ đánh, lá cờ được kéo lên từ từ theo ánh mắt đầy xúc động của mọi người. Những ánh mắt ngây thơ đó như muốn nói rằng sẽ luôn học tập thật giỏi để trở thành những người có ích cho xã hội, để không phụ công lao của các chiến sĩ đã hi sinh thân mình bảo vệ Tổ quốc. Tiếng trống dứt, cô Hằng hô: “Quốc ca!”. Những lời hát dõng dạc, đầy khí thế vang lên như đánh thức bầu không khí chung quanh. Bài hát như nhắc nhở chúng em về công lao của những người đã tham gia hoạt động cách mạng, giữ gìn độc lập, bảo vệ đất nước. Bài hát Quốc ca kết thúc, cô Hằng hô tiếp: “Đội ca!”. Những đôi môi nhỏ bé mấp máy theo lời hát: “Cùng nhau ta đi lên theo bước Đoàn thanh niên đi lên...” tràn đầy vẻ quyết tâm như muốn nói sẽ cố gắng học tập để không làm phụ lòng Bác Hồ kính yêu luôn che chở cho mình, để không phụ lòng những người đang dạy dỗ mình. Những giây phút này như ngừng trôi. Gió như ngừng thổi. Chim như ngừng hót. Tất cả dường như đều im lặng, nhường chỗ cho bài hát. Khi kết thúc bài hát, cô Hằng hô vang với giọng nói dứt khoát:- Vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì lí tưởng của Bác Hồ vĩ đại: Sẵn sàng!. Cả sân trường như nổi dậy sau lời nói mà mọi người cùng đáp lại: “Sẵn sàng!”. Sau đó, cô Hằng nhận xét các lớp trong tuần qua và phổ biến các hoạt động tuần này. Khi kết thúc lễ chào cờ, mọi người cùng nhau hát vang bài hát: “Vì một thế giới ngày mai” để hưởng ứng SEA Games 22. Sau đó, các bạn học sinh xếp hàng vào lớp. Sân trường trở nên vắng vẻ.Giờ buổi lễ chào cờ đã kết thúc nhưng những giây phút đó sẽ luôn conf đọng mãi trong em. Em tự hứa với mình sẽ luôn cố gắng học tập thật tốt để có thể xứng đáng với lá cờ Tổ quốc.Đề bài: Em hãy kể lại câu chuyện về một việc làm thể hiện nếp sống văn minh ở nơi công cộng [có thể đối chiếu với những việc làm sai trái cũng xảy ra ở nơi đó, lúc đó]Bài làm Hôm nay là ngày chủ nhật, từng chú chim non ríu rít trên cành, nắng vàng trải thảm xuống mặt đường. Bỗng mẹ gọi em: “ Minh ơi, đi chợ với mẹ nào!”. Chỉ và phút sau là em và mẹ đã có mặt ở chợ. ở đằng kia có gì mà đông thế? Em lon ton chạy ra xem.Trên mặt đường bây giờ là những mảnh vỡ lăn lóc, dòng người vẫn qua lại, chẳng ai hỏi hangì. Em hỏi chú An thì mới hay đây là những mảnh vỡ của cô bán sữa, chả là sáng nay, cô ấy đem sữa đi bán, mọi người mua đông lắm, chẳng ai nhường ai, bỗng có một anh thanh niên chạy qua va vào xe cô làm xe đổ hết, nhưng anh ấy không xin lỗi và chạy đi mất rồi. Cô ấybảo, cả nhà cô phụ thuộc vào mấy chai sữa, bây giờ đổ hết thì….Em đến gần mới thấy nét mặt cô đỏ gay, hai mắt rơm rớm, đã thế mấy cô hàng nước còn chế giễu cô: “Dào ơi, vài chai sữa chứ mấy, thôi đi đi, đừng ăn vạ, tôi không mang lửa đốt vía đâu”! Trông mặt cô lại càng thêm buồn, nước mắt cũng đã chảy dài trên làn má cô. Mọi người xung quanh bảo: “Cũng chục chai đấy chứ chả ít đâu đấy!” rồi lát sau cũng lủi đi mất. Bầu trời xám xịt lại, mọi người vẫn đi qua chẳng để ý gì. Thỉnh thoảng có người đi qua bảo” thật tội nghiệp, nhưng kệ, chả phải việc của mình” rồi đi luôn. Em thấy thương cô, bỗng ở trong nhà có một cụ già bước ra. Cụ già lăm rồi, hai má cụ đã hóp nhưng nét mặt cụ hiền từ nên ai cũng quý, cũng yêu, cụ bảo: “Ôi trời, thật là vô lương tâm, như thế mà cũng bỏ đi được sao? Rồi cụ khẽ đi vào trong nhà lấy cái gì đấy, thì ra cụ lấy ái chổi đót cùng một cái xẻng đã cũ. Bà quét thật sạch sẽ, nhân tiện bà quét luôn cho nhà bên cạnh nhà này bẩn quá, hình như chưa quét sân bao giờ. Khi quét xong, bà vun gọn vào 4xẻng và đem đổ. Sau đó bà đẻ gọn chổi xẻng vào một chỗ rồi khẽ ra an ủi cô” thôi cháu à, tiếc làm gì, giận àm gì cái loại bất lương ấy”. “à, đây có ít tiền, cụ cho để mà mua mớ rau, mớ hành mà ăn” . Lúc đầu cô cũng từ chối, nhưng bà cụ cứ để vào tay cô.Bây giờ, cô mới cất giọng run run và trầm: “bà ơi, cháu cảm ơn lòng thành của bà, cháu sẽ đền ơn, nhưng thôi , bà cứ cầm lấy mà ăn dưỡng tuổi già. Bà lại bảo: “Ơ cái chị này, bà cho, cầm lấy!” Bà nói mãi chị mới nhận lúc này, mấy cô hàng nước cũng hối hận lắm, nét mặt họ đỏ dừ vì xấu hổ, họ cũng xin lỗi cô và cũng góp chút ít. Em cảm động lắm và tự hỏi: “Sao mình không đỡ cô nhỉ? “Đang nghĩ thì mẹ gọi “Minh ơi, về thôi con”. Em liền theo mẹ đi về.Em rất cảm kích trước tấm lòng của bà cụ, cụ thật lương thiện. Em sẽ cố gắng là một người như cụ. Đề bài: Hãy kể lại một việc làm tốt đẹp thể hiện nếp sống văn minh nơi công cộng [có thể đối chiếu với những việc làm sai trái xảy ra ở nơi dó, lúc đó]Bài làm Hôm nay thời tiết chuyển mùa, cả nhà em ai cũng cảm thấy uể oải. Cũng vì thế mà thằng cu Cò nhà em bị sốt, ho nhiều. Rất may là nhà em lại gần nhà cô Hoa bác sĩ nên mẹ bảo em cùng mẹ đưa cu Cò sang khám.Cô Hoa mở phòng khám tại nhà đã lâu. Mọi ngày phòng khám luôn đông, nhưng hôm nay đông hơn hẳn. Mới đến gần em đã thấy lớp trong, lớp ngoài, người đứng người ngồi trong phòng khám. Em lấy số thứ tự rồi vào chỗ ngồi chờ. Nhìn quanh em thấy một bạn ngồi ở góc nhà đầu dựa vào tường trông vẻ mệt mỏi. Em ra bắt chuyện với bạn cho đỡ buồn nên biết tên bạn cho đỡ buồn nên biết tên bạn là Liên cũng học lớp 5 như em. Bạn bị cảm nhẹ, phải nghỉ học từ hôm qua. Chúng em đang nói chuyện với nhau thì ngoài cổng tiếng xe máydừng lại. Một cô bước vào trên tay bế một em bé đầu đội mũ len, mặc áo bông dày. Chú đi cùng vội vã lấy số thứ tự rồi loay hoay tìm chỗ. Thật may là còn một ghế trống cho hai mẹ con cô. Chắc đó là cặp vợ chồng cùng đứa con. Bỗng đứa bé khóc to, người vợ nựng mãi mà đứa bé không ngớt khóc. Mọi người ngồi trong phòng vừa cảm thấy ái ngại vừa thương đứa bé. Liên nhìn đứa bé: mặt đỏ bừng bừng và ho sụ sụ, tiếng thở khò khè Liên liền đứng dậy đi tới chỗ người phụ nữ bảo:- Cô ơi, cháu chỉ hơi mệt thôi. Cô cho em vào khám trước kẻo em mệt.Người phụ nữ nhìn Liên vẻ ái ngại. Liên vẫn chìa con số của mình ra:- Chờ bác kia khám xong rồi cô đưa em vào khám cô ạ! Cô cầm lấy đi cô.Người phụ nữ xúc động cầm lấy con số và cảm ơn Liên rối rít. Mọi người chứng kiến sự việc đó đều trầm trồ khen ngợi cô bé tốt bụng.Từ nãy dến giờ em đã quan sát hết và cảm thấy thán phục và hứa sẽ học hỏi người bạn nhỏ trong phòng khám.Đề bài: Em hãy kể lại một câu chuyện mà em [hoặc bạn em] đã trải qua có nội dung như câu tục ngữ: “Có công mài sắt có ngày nên kim” “Ôi trời ơi! Lại kiểm tra toán nữa rồi!”-tôi nhăn nhó. Tôi ngồi cầu trời khấn phật mãi mà vẫn cứ cho bài kiểm tra.Đầu năm, tôi rất ghét và sợ môn Toán. Đến giờ toán,tôi cảm thấy như bị cực hình. Nghe cô giảng mà mà tôi chẳng hiểu gì cả. Không phải là tôi nói chuyện trong lớp đâu! Tôi luôn trật tự nghe cô giảng và cũng luôn làm đủ bài tập. Nhưng những con số và các hình vẽ khó cứ làm tôi hoa hết cả mắt. Các bài tập nâng cao hầu như tôi đều nhờ mẹ giảng. Vì mẹ tôi không phải đi công tác nên tôi thường ỷ lại vào mẹ. Các bài kiểm tra của tôi thường bị điểm kém. Cô giáo phê bình tôi trước lớp, bố mẹ cũng rất buồn về sức học của tôi. Tôi cảm thấy xấu hổ và quyết tâm học tốt môn này.Tôi bắt đầu lập ra một kế hoạch học tập khoa học.Tôi dành thời gian học toán nhiều hơn nhưng cũng không quên các môn khác. Tôi cũng không xem ti vi và đọc chuyện 5nhiều.ở trên lớp, tôi luôn cố gắng nhập tâm bài giảng của cô, chỗ nào chưa hiểu tôi hỏi lại cô hoặc nhờ bạn giảng. Tối về tôi luôn tự làm các bài tập. Bài nào khó, tôi xem lại bài giảng và mẫu của cô, xoay cách này cách khác. Tôi nhờ mẹ mua những quyển sách hay về môn này. Dần dần tôi học khá hơn và cũng không sợ môn toán như trước nữa.Bố mẹ tôi luôn ủng hộ và tạo điều kiện cho tôi. Hôm thứ tư, cô trả bài kiểm tra toán và đó là lần đầu tiên tôi được điểm tốt. Tôi bị trừ mất đi một điểm vì chưa trình bày và giải thích rõ ràng. Tôi lại học, học và học. Học cách trình bày ,học cách iải thích sao cho mạch lạc và dễ hiểu. Trong tời gian cố gắng học toán, tôi phải cảm ơn cô nhiều nhất. Cô luôn ở bên, động viên, khuyến khích tôi. Cô vẫn thường nói với tôi: “có công mài sắt có ngày nên kim”. Hôm sinh hoạt lớp, tôi đã được tuyên dương. Tôi rất vui.Bây giờ, tôi đã học khá môn toán hơn trước. Tôi hiểu rằng phải có quyết tâm cao thì mới làm được những việc khó, như câu ca dao vẫn nói: “Có công mài sắt có ngày nên kim”.Đề bài: Em đã có dịp đến thăm một cảnh đẹp của địa phương em hoặc ở nơi khác. Hãy thuật lại cuộc đi thăm đó.Bài làm Một năm học vất vả đã qua, và đến kì nghỉ hè này, gia đinhg tôi tổ chức đi chơi biển Đồ Sơn. Tôi vô cùng thích thú vì đây là nơi mà tôi chưa từng đặt chân đến.Bốn rưỡi sáng, lơ mơ ngái ngủ, tôi đã bị bác đồng hồ chăm chỉ nhưng đôi khi hơi khó tính đựngậy cho bằng được. Tôi uể oải dụi mắt đi chầm chậm vào nhà tắm vệ sinh cá nhâ. Cả nhà tôi đã thức dậy từ bao giờ, đang lục cục sắp lại đồ. Đánh răng rửa mặt xong, tôi thay quần áo rồi theo bố mẹ ra cửa. ở đó có một chiếc ô tô chễm chệ chờ đợi. Bố tôi xách va li, mở cốp xe rồi để vào đấy. Mẹ tôi, chị tôi, bố tôi và tôi cùng leo lên xe. Chiếc xe bon bon chạy luôn. Nhà cửa, cây cối như những thước phim quay nhanh cứ vùn vụt. Thích nhất là lúc qua cầu, được xem phim từ trên cao. Sau đó tôi ngủ lúc nào chẳng biết. Đánh một giấc dài dậy mà vẫn chưa tới nơi, tôi đâm sốt ruột. Nhưng… khoan, tôi nghe thấy tiếng nước àooo…oo, mùi mằn mặn mang đặc chất biển. thôi, đúng rồi, đúng là tới biển thật rồi! Tôi sung sướng lâng lâng. Nắng vàng nhè nhẹ vươn từ mặt trời đi khắp nơi. Tôi nhảy phốc xuống xe ngay khi đến khách sạn. Gia đình tôi bước vào tiền sảnh. Bố tôi lấy chìa khoá phòng rồi dẫn cả nhà lên tầng. Căn phòng thật rộng. tôi ra ban công phóng tầm mắt ngắm biển. Long lanh một màu nắng trên mặt nước. Người đi tắm chiu chít trên bờ. Những quán nước trên cát dựng từ cột, lợp lá thật thơ mộng. Tôi vào phòng nghỉ ngơi đã. Chiều tôi thức dậy gọi bố mẹ đi bơi. Băng qua con đường nhựa là đến bãi cát. Người đi tắm tấp nập. Có mấy người tắm xong, khoác khăn lên bờ, người ướt dượt. Có mấy người lại nằm dài tắm nắng. Còn dưới biển, đủ người già trẻ.. tắm táp, bơi lội. Có mấy bạn nhỏ cũng mặc áo phao như tôi, bố mẹ đang dạy bơi. Tôi ngâm mình xuống nước, mát lắm! bơi lội thoả thuê, tôi lên bờ xây lâu đài cát và cùng bố mẹ ngồi quán uống nước. Sau đó tôi về tắm sạch, mặc quần áo mới rồi xuống nhà ăn. Trời đã xẩm tối. Tôi ngồi vào bàn ăn. Nào là cua, nào là mực, nào là tôm… Cho ôi, bao nhiêu món đồ biển bày ra đây. Tôi ăn rất nhiều nhưng vẫn lên phòng trước mọi người. Tôi ngồi xem vô tuyến một lúc thì mẹ tôi lên gọi tôi ra biển chơi. Cả nhà tôi ra biển, thuê ghế nghỉ, nghe tiếng sóng vỗ ào ạt. Mặt trăng ở biển sao mà khác với thành phố thế, nó to, tròn và hơi đỏ như mặt trời. Sóng tung bọt lấp loáng một dải dọc vàng vàng. Tôi đang mơ màng thì bị chị tôi kéo đi. Ra khỏi bãi cát là đến mặt đường nhựa. Hai bên vỉa hè, hàng đồ lưu niệm mọc như nấm. Gia đình tôi đi dạo và mua luôn quà cho ông bà và hàng xóm. Đèn đường vàng vàng như làm tăng bầu không khí náo nhiệt ở đây. Người đi đường cũng có thể là khách du lịch, mua hàng trao đổi thật là sôi nổi. Mua xong gia dình tôi trở lại khách sạn, để ngày mai còn lên đường về thủ đô Hà Nội.Chuyến đi đã kết thúc, nhưng những suy nghĩ của tôi về thành phố cảng này chưa dừng lại. cuộc vui chơi với biển này đã mở đầu cho một mùa hè xanh tươi trẻ. Tôi yêu thiên nhiên, nhất là biển cả bao la.Đề bài: Thuật lai những việc em đã làm trong ngày Chủ nhật vừa qua.Bài làm 6Sau một tuần học tập căng thẳng em lại có ngày chủ nhật làm được nhiều việc giúp mẹ.“Reng reng” bác đồng hồ gọi em thức dậy bước ra kkhỏi giấc mơ có nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn lúc sáu giờ. Em liền choàng dậy, ra làm vệ sinh. Tiếng nước réo ù ù cùng mùi thuốc đánh răng thơm mát làm em có cảm tưởng như đang ở trong một khu rừng tuyệt đẹp. Rồi em xuống ăn sáng cùng cả nhà. ăn sáng xong em tiễn bố mẹ đi làm. Bác đồng hồ lúc này chỉ bảy giờ. Bây giờ làm gì đay? à! Đúng rồi! Chị chổi ơi! Ra đây với em. Em cùng chị chổi đi quanh nhà. Chị đi đến đâu nhà sạch đến đấy. Lũ bụi vừa thấy chị đến đã chạy bán sống bán chết ra khỏi nhà. Em vừa quét nhà xong thì nghe tiếng sàn nhà nói: “Cô chủ ơi!Lau mặt cho tôi đi!” Em liền chào chị chổi và xách xô nước, giẻ lau nhà ra. Nước mát rười rượi. Em vò giẻ thật sạch rồi vắt kiệt nước và lau. Lau hết một lần em giặt lại giẻ và lau lại lần nữa. Lúc trước nước trong vắt thì bây giờ chuyển màu đục ngầu. Rồi em rửa tay, ra nấu cơm. Lúc này là mười giờ. ái chà chà! Hôm nay mẹ cho em ăn toàn món ngon. Em bắt đầu nhặt rau. Oái! Khiếp lão sâu béo thế. Em hét lên vì bắt được lão sâu vàng rộm, béo mập. Nhặt rau xong em đặt nước luộc và rán trứng. Tiếng đũa đánh trứng tách tách và tiếng dao băm thịt bặp bặp, tiếng dầu dán lép tép nghe rất vui tai. Mười một giờ em ăn cơm với bố mẹ. Bố khen em nấu cơm rất khá. ăn xong em đi ngủ đến chiều lúc hai rưỡi em học bài. Ôi sao bài này khó thế! Em nghĩ mãi mà vẫn chưa ra! Ngoài vườn lũ chim thi nhau hót líu lo như cổ vũ động viên em cố gắng làm bài. Bác đồng hồ mọi khi nói nhiều vào loại nhất nhà mà bây giờ cũng như im bặt cho em sự yên tĩnh làm bài. Cuối cùng em cũng làm ra. Xong em ra vườn chăm sóc cây. Những giọt nước long lanh như những đứa trẻ nghịch ngợm chạy nhảy tung tăng quanh gốc cây. Những cây non vươn mình đu đưa trong nhạc gió réo rắt. Rồi em vào bếp nấu cơm tối với mẹ. Tối đến cả nhà em quây quần sum họp bên nhau nói chuyện rôm rả rất vui vẻ. Sau bữa cơm em xem tivi đến hai hai giờ em chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập cho ngày mai rồi đi ngủ. Nằm trên giường em nghĩ mà thương các bạn nhỏ mồ côi không có một mái ấm gia đình như em. Em mong trên trái đất sẽ không còn những bạn nhỏ mồ côi. Ai cũng có một gia đình hạnh phúc.Ngày chủ nhật của em trôi qua như thế đấy. Em mong ngày chủ nhật lại đến thật nhanh để em làm nhiều việc như thế giúp mẹ.Đề bài: Thuật lai những việc em đã làm trong ngày Chủ nhật vừa qua.Bài làm Ngày chủ nhật vừa qua, thấy bố mẹ em bận nhiều việc nên em không sang nhà bạn chơi như các hôm khác mà ở lại phụ giúp gia đình.Theo thói quen, cứ đúng 6 giừ sáng khi chú gà trống choai gân cái cổ gáy những hồi "te, te" ngắn ngủn là em bật dậy khỏi chăn và bắt đầu một ngày mới tươi đẹp. Em làm vệ sinh cá nhân xong rồi bước ra sân. Chà!chà! Cái hương vị ngày tết lại uyển chuyển báo trước bằng những loài hoa đã tưng bừng nở khắp vườn rồi đây!. Sau khi tập thể dục và vào nhà ăn sáng thì đồng hồ đã dừng chân tại 7 giờ. Bây giờ em phải đi giặt quần áo mới được. Cái thau quần áo to thật, em cảm tưởng nó còn to hơn cả người em nữa, nhưng không sao, em vẫn có thể giặt ngon lành. Thế là công việc được bắt đầu. Vò xong nước thứ nhất, em hoà tan xà phòng vào và lấy cái bàn giặt ra nhàu từng cái quần, cái áo. Bong bóng xà phòng cứ phập phồng như thở trong chậu. Màu trắng xoá và hình dạng xôm xốp, nhè nhẹ trông như đám mây. Chỉ một loáng thôi mà quần áo đã sạch rồi, chẳng còn một vết bẩn nào nữa. Ôi! Bây giờ đôi tay của em đã mỏi nhừ và em sẽ phải nhờ sự giúp đỡ của mẹ thôi. Mẹ đang nấu ăn trong phòng bếp nghe tiếng gọi liền đon đả chạy ra xoa đầu và khen "con mẹ giỏi quá!". Sau đó em cùng mẹ vừa hát vừa phơi đồ lên dây. Những con chim hoạ mi cũng hót véo von như thể ca ngợi em.Buổi chiều, khi ngủ dậy em lấy chổi, quét nhà. Chị chổi xinh đẹp nhiều màu sắc đi đến đâu thì bọn bụi bẩn chạy bán sống, bán chết tới đó. Một lát sau em thấy nhà mình sáng sủa hẳn lên. Chết thật đã 3 giờ chiều rồi, em phải học ngay mới được. Xong đâu đấy em xuống nhà ăn cơm.Tối đến, cả nhà quây quần bên nhau nói chuyện. Mười giờ đêm em mới đi ngủ. Nằm trên giường, em nở nụ cười mãn nguyện vì hôm nay thật là tuyệt vời. Bài LàmNhà em có nuôi một con mèo. Nó là thành viên khá quan trọng trong gia đình em.7Con mèo vừa tròn một tuổi. Chú ta nặng khoảng một cân rưỡi. Nó là giống mèo đực được bác em cho năm ngoái. Con mèo này béo tốt, nằm vừa trong vòng tay em. Chú mèo khoác lên mình chiếc áo hai màu: trắng và vàng. Lông chú mượt như tơ, nhìn xa như một khối mây biết đi. Lông phía trên lưng màu nâu vàng, còn lông cổ, đầu và chân đều màu nâu trắng. Cái đuôi dài thướt tha, mượt mà lúc ngoe nguẩy bên này, lúc lắc lư bên kia. Bốn cái chân thon thon. Bên dưới bàn chân là tấm nệm êm của mèo, làm cho những bước chân của chú thêm nhẹ nhàng. Đồng thời chú cũng có hàng móng vuốt sắc nhọn - vũ khí lợi hại nhất của chú ta. Đầu mèo ta chỉ to bằng quả cam sành, lắc lư liên tục. Đôi tai nhỏ hình tam giác dựng đứng để nghe ngóng. Em sờ vào tai chúng nhưng chú ta không thích cứ lắc lắc cái đầu. Cái mũi hồng hít hít ngửi ngửi trông thật dễ thương. Hàng ria mép trắng muốt trông oai vệ gớm! Đôi mắt tinh ranh, đen nhánh như có thủy tinh luôn trông ngang ngó dọc. Mỗi khi chú ngáp để lộ mấy cái răng bé xíu như mấy cái gai nhỏ.Những ngày trời nắng, sáng dậy chú lại ra giữa sân rồi liếm cái lưỡi hồng vào chân trước, còn hai chân sau duỗi ra đằng sau. Thế là chú ta lại nằm sưởi nắng. Chú vờn cái đuôi rồi cắn cắn gặm gặm. Còn mùa đông chú nằm trên người em ngủ tít. Tai chú cực thính. Một tiếng động nhỏ mèo ta cũng nghe thấy. Ô kìa! Chú mèo nằm sau thùng gạo để rình chuột đấy. Bỗng một con chuột mon men đến bên chiếc lồng bàn đậy thức ăn. Chợt, chú mèo lấy đà. Đoạn, nó nhảy phóc đến chỗ con chuột. Chú chuột ranh mãnh đã nằm trong móng vuốt mèo ta. Chú mèo nhà em là thế đấy. Từ ngày đó, “vệ sĩ” mèo canh gác nhà em sạch bóng chuột. Chú còn chơi với em mỗi lúc rảnh rỗi. Nó là người bạn nhỏ của gia đình em.Bài LàmLoài hoa các bạn thích là hoa gì? Chắc chắn có nhiều câu trả lời. Chị Huệ trắng muốt duyên dáng hay là chị phong lan tim tím yểu điệu? Còn với em, loài hoa em yêu thích và đẹp nhất là hoa hồng.Trước hiên nhà em có trồng một chậu hồng nho nhỏ. Hoa hồng quả không hổ danh là nữ hoàng các hoa. Đó là cây hồng nhung. Hoa khoác lên mình bộ váy áo màu đỏ thắm, một màu đỏ thật sang. Nhưng bộ dạ hội đó còn lộng lẫy hơn vào buổi sáng, những hạt sương đọng trên cánh hoa như những viên kim cương lấp lánh trong nắng, điểm xuyến cho tà áo thắm đỏ rực rỡ. Cây hoa chỉ ra ba bông nhưng bông nào bông nấy đều đẹp mê hồn. Ba hông hoa như ba nàng công chúa xinh đẹp, kiều diễm. Những cánh hoa chắc là đẹp nhất. Lớp lớp cánh hoa như những bậc thang. Cánh hoa thật mịn màng, mượt mà như tơ lụa đỏ thắm, chúng kết vào nhau tạo nên bông hồng duyên dáng. Đường nét từng cánh hoa thật uyển chuyển, đó là tuyệt tác của bông hồng, là một sự kì ảo vô hình thu hút người ngắm. Nhị hoa màu vàng thật hợp với dáng vẻ sang trọng của hồng nhungĐầu nhị có đôi chút phấn trắng như hạt cát vàng nhấp nhánh. Thân cây chắc chỉ to và dài bằng cái đũa. Thân hoa có gai, những cái gai bé nhưng nhọn bảo vệ cho ba nàng công chúa Hồng trẻ đẹp. Mờy chiếc lá nhỏ nhỏ, xanh đậm, sờ cưng cứng, ram ráp. Chà, thế mà nhanh thật! Mới ngày nào, các bông hoa chỉ là nụ hồng e ấp, nhỏ xíu, thế mà bây giờ những cánh hoa đã xòe ra giỡn với gió. Mỗi khi đi học về, em thường ra chỗ cây hồng để thưởng thức hương thơm ngọt ngào đó. Em nhắm mắt lại và thả mình theo những cánh hoa. Nó dắt em đến một thế giới kỳ diệu. Ở đó, có ba nàng tiên đi cùng em vào khu vườn đầy hoa đó. Đó là vương quốc kỳ ảo với muôn vàn điều mới mẻ. Một thảm hoa rực rỡ hiện ra trước mắt em. Trên bầu trời là những đám mây bồng bềnh trôi, trong ánh mặt trời rực rỡ và muôn màu muôn vẻ của bảy sắc cầu vồng. Một làn gió nhẹ thoảng qua làm rung cánh hoa... Tất cả đều hấp dẫn vô cùng. Tiếng xe máy nổ ròn ngoài cổng, làm êm quay lại với hiện tại, xua tan đi nỗi mệt nhọc, lấy lại tinh thần. Đâu chỉ có em thích hồng nhung, còn mấy chú bướm nữa. Chúng suốt ngày đến thăm hoa. Và ba tiểu thư cũng vui 8

Page 7

Hãy viết một đoạn văn ngắn [từ 5 đến 7 câu] kể lại buổi đầu đi học của em[3] Trần Thùy Linh – 3CĐề bài: hãy viết một đoạn văn ngắn [từ 5 đến 7 câu] kể lại buổi đầu đi học của emBài làm Đã hơn hai năm rồi mà hình ảnh của buổi đi học đầu tiên không phai mờ trong kí ức của em. Sáng đó, em dậy sớm lắm, sau khi tập thể dục và vệ sinh cá nhân xong. Em liền ngồi vào bàn ăn sáng. Đúng 7h30 phút, mẹ đưa em đến trường bằng xe máy. Cơ giáo ra và mỉm cười với mẹ con em. Rồi cô và mẹ nói chuyện. Mẹ nói với em:”Con ở đây đến trưa, bố hoặc mẹ sẽ đón con về”. Em túm lấy áo mẹnhư không muốn rời xa. Cơ giáo vỗ về em rồi mới bỏ tay ra. Em đứng nhìn cho đến khi chiếc xe máy khuất đi. Rồi em vào chỗ ngồi của mình và tự nhiên những giọt nước mắt ứa ra, lăn dài trên má. Một cảm giác buồn vui lẫn lộn đang dâng lên trong nước mắt em. Buổi học đầu tiên là thế đóKể về một ngày hội mà em biết Đặng Thảo My-3CBài làm Ở quê em có một hội lớn lắm. Đó là lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn - Hải phòng, nổi tiếng trên khắp các vùng miền cả nước. Nhân dân ta có câu:”Dù ai buốn đâu bán đâu, mồng chín tháng tám thì về chọi trâu”. Vào ngày hội du khách khắp nơi đổ về xem hội rất đông. Trước khi bắt đầu chọi trâu có một màn múa cờ truyền thống rất đặc sắc. Sau đó các cụ già làng dắt trâu ra thế là bắt đầu một ngày hội chọi trâu. Con trâu thứ nhất là số 87. con trâu thứ hai là số 89. Con trâu số 89 là con trâu của làng em. Hai con trâu hùng hổ đánh nhau. Sau bao nhiêu trận đấu quyết liệt là những tiếng reo hò của khán giả. Ông trâu số 89 của làng em đã chiến thắng. Ông trâu ấy sẽ mang vinh quang, tự hào và cả sự sung túc cho làng em. Em rất thích hội chọi trâu bởi hội chọi trâu chứng minh sự thịnh vượng của quê hương em. Kể về người hàng xóm Nguyễn Minh Phương – 3CĐề bài: Kể về người hàng xómBài làm Mùa hè năm nay gia đình em chuyển đến nơi ở mới. Người hàng xóm đầutiên mà em quen là chị Diệp. Chị có dáng người cao cao. Mái tóc của chị dài vàluôn được tết gọn gàng. Chị rất vui tính. Mỗi khi chị cười để lộ chiếc răng khểnhtrông thật duyên. Buổi chiều nào chị cũng sang nhà em chơi. Lúc đầu em còn rấtbỡ ngỡ nhưng nhờ có chị nên em đã làm quen được với rất nhiều bạn mới. Rồi chịịdẫn em ra nhà văn hóa, sân chơi, vườn hoa. Em rất vui được làm bạn với chị Diệp. Em mong chị Diệp mãi mãi ở gần nhà em.Đề bài: Kể về một buổi biểu diễn nghệ thuật mà em được xemBài làm Ngày 20-11 vừa qua, trường em lại tổ chức buổi biểu diễn văn nghệ mừng ngày nhà giáo Việt Nam. Hôm ấy đúng 7h30 phút học sinh toàn trường đã có mặt đông đủ. Các cô giáo thì mặc áo dài truyền thống Việt Nam. Còn các bạn học sinh mặc bộ đồng phục trông thật dễ thương. Đầu tiên thầy Hiệu trưởng lên phát biểu khai mạc. Tiếp theo là những tiết mục văn nghệ đặc sắc: múa, hát, kể chuyện, đọc thơ và đàn vi-ô- lông. Tiết mục đàn vi-ô-lông của bạn Lân lớp em là hay nhất. Bạn chơi bài Mừng Giáng Sinh. Tiếng đàn nổi lên, lúc trầm lúc bổng cả trường em im lặng lắng nghe như bị thôi miên. Tiếng đàn vừa dứt những tràng vỗ tay vang lên. Có những anh lớp năm còn đứng dậy hô to:”Chơi nữa đi!Chơi nữa đi!” Em vui lắm, em mong nhà trường tổ chức nhiều buổi biểu diễn như thế này nữa để chúng em có cơ hội thể hiện tài năng nghệ thuật của mình.Đề bài: Kể về một ngày hội mà em biếtBài làm Hằng năm, cứ đến mùa xuân, quê em lại tưng bứng mở hội đua thuyền trên sông Hồng. Sáng hôm ấy, hai bên bờ sông suốt đường đua dài 1000 m, kẻ khua trống, người thổi kèn tàu, đông vui và náo nhiệt. đường đua bắt đầu ở một khúc đầu làng em. Dưới sông năm con thuyền đua đã xếp thành hàng ngang ở vạch xuất phát. Trên thuyền, các tay đua là những thanh niên khoẻ mạnh ngồi thành hàng, taylăm lăm mái chèo. Mỗi đội có một màu áo khác nhau. Đến giờ xuất phát, kèn trốngnổi lên thì các chiếc thuyền lao nhanh vun vút về đích. Hai bên bờ sông tiếng hò reo, cổ vũ của người xem làm náo động cả một khúc sông. Đội làng em đã về đích trước tiên. Cuối hội là phần trao giải thưởng, ai cũng có mặt đông đủ để chúc mừng các tay đua. Hội đua thuyền là nét văn hoá truyền thống của quê hương em. Em sẽ học giỏi, tập thể thao cho cơ thể mạnh để được tham gia hội đua thuyền.

Page 8

những bài văn mẫudành cho học sinh lớp 6 Phần mộtvăn tự sự- Kể chuyện [tờng thuật lại truyện]- kể chuyện đời thờng- kể chuyện tởng tợngI. Đặc điểm1. Tự sự là phơng thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuốicùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.2. Những yếu tố cơ bản của bài tự sự:- Sự việc: Các sự kiện xảy ra.- Nhân vật: Ngời làm ra sự việc [gồm nhân vật chính và nhân vật phụ]- Cốt truyện: Trình tự sắp xếp các sự việc.- Ngời kể: Có thể là một nhân vật trong câu chuyện hoặc ngời kể vắng mặt.II. Yêu cầu của bài văn tự sự ở lớp 61. Với bài tự sự kể chuyện đời thờng- Biết sắp xếp sự việc theo một trình tự có ý nghĩa.- Trình bày bài văn theo một bố cục mạch lạc 3 phần.- Tuỳ theo yêu cầu đối tợng kể để lựa chọn tình huống và sắp xếp sự việc có ý nghĩa.2. Với bài tự sự kể chuyện tởng tợng- Biết xây dựng cốt truyện tạo tình huống tởng tợng hợp lý.- Câu chuyện tởng tợng phải có ý nghĩa và bố cục rõ ràng. [theo kết cấu 3 phần của bài tự sự]III. Cách làm bài văn tự sự ở lớp 6Tuỳ theo từng dạng bài tự sự ở lớp 6 để có cách trình bày dàn ý và viết bài cho phù hợp. Dớicđây là một vài gợi dẫn.1. Với dạng bài: Kể lại một câu chuyện đã đợc học bằng lời văn của em- Yêu cầu cốt truyện không thay đổi.- Chú ý phần sáng tạo trong mở bài và kết luận.- Diễn đạt sự việc bằng lời văn của cá nhân cho linh hoạt trong sáng.2. Với dạng bài: Kể về ngời - Chú ý tránh nhầm sang văn tả ngờibằng cách kể về công việc, những hành động, sự việc màngời đó đã làm nh thế nào. Giới thiệu về hình dáng tính cách thể hiện đan xen trong lời kể việc,tránh sa đà vào miêu tả nhân vật đó.3. Với bài: Kể về sự việc đời thờng- Biết hình dung trình tự sự việc cho xác thực, phù hợp với thực tế. 1- Sắp xếp sự việc theo thứ tự nhằm nổi bật ý nghĩa câu chuyện- Lựa chọn ngôi kể cho đúng yêu cầu của bài văn.4. Cách kể một câu chuyện tởng tợng *Các dạng tự sự tởng tợng ở lớp 6:- Thay đổi hay thêm phần kết của một câu chuyện dân gian.- Hình dung gặp gỡ các nhân vật trong truyện cổ dân gian.- Tởng tợng gặp gỡ những ngời thân trong giấc mơ.... *Cách làm: - Xác định đợc đối tợng cần kể là gì? [sự việc hay con ngời]- Xây dựng tình huống xuất hiện sự việc hay nhân vật đó.- Tởng tợng các sự việc, hoạt động của nhân vật có thể xảy ra trong không gian cụ thể nh thếnào?IV. một số đề và dàn bài Đề 1. Trong vai Âu Cơ [hoặc Lạc Long Quân], hãy kể lại câu chuyện Con Rồng cháu Tiên.*Yêu cầu- Dạng bài: Kể chuyện tởng tợng [dựa theo truyện]: đóng vai một nhân vật kể lại.* Nội dungKể lại truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên theo lời nhân vật Âu Cơ [hoặc Lạc Long Quân]. Kểđủ, chính xác các sự việc, chi tiết chính của câu chuyện. Có thể tởng tợng thêm chi tiết để làm nổirõ ý nghĩa đề cao nguồn gốc cao quý của dân tộc Việt và ý nguyện đoàn kết...* Hình thức+ Ngôi kể thứ nhất, bộc lộ thái độ, cảm xúc của ngời kể.+ Xen miêu tả, đối thoại cho lời kể sinh động.Đề 2. Tởng tợng và kể lại cuộc gặp gỡ với một nhân vật trong truyền thuyết mà em đã học.*Yêu cầu Kiểu bài: Kể chuyện tởng tợng. Nội dung: + Tởng tợng và kể lại hoàn cảnh gặp gỡ với nhân vật [trong một giấc mơ sau khi đợc học, đợcđọc hoặc nghe kể về câu chuyện có nhân vật ấy khi đi tham quan đến một nơi có khung cảnhthiên nhiên gợi nhớ đến câu chuyện và nhân vật...].+ Kể lại diễn biến: Căn cứ sự việc liên quan đến nhân vật [do nhân vật tạo ra hoặc liên quanđến nhân vật]. Hình thức: + Xây dựng một số lời thoại với nhân vật để từ đó hiểu thêm về nhân vật, hiểu thêm ý nghĩatruyện... + Kể đan xen với tả, bộc lộ cảm xúc.Đề 3. Trong vai Lang Liêu, kể lại chuyện Bánh chng, bánh dày. 2*Yêu cầu Kiểu bài: đóng vai nhân vật kể lại truyện. Nội dung: Kể lại đầy đủ các sự việc chính của câu chuyện. Thể hiện niềm vui sớng, tự hàokhi thấy đợc giá trị của hạt gạo và thành quả từ bàn tay lao động của mình. Hình thức: Dùng ngôi thứ nhất để kể lại. Lời kể cần thể hiện cảm xúc, có hình ảnh.Đề 4. Trong vai ngời mẹ, hãy kể lại câu chuyện Thánh Gióng.*Yêu cầu- Kiểu bài: kể chuyện tởng tợng, đóng vai một nhân vật để kể. - Nội dung: kể đầy đủ các sự việc chính của truyện [Gióng ra đời kỳ lạ, Gióng trở thành trángsĩ, Gióng giết giặc cứu nớc rồi bay về trời]. - Thể hiện đợc cảm xúc của nhân vật về một số chi tiết trong truyện [vui mừng khi Gióng chàođời; tâm trạng buồn khi giặc Ân chuẩn bị xâm lợc trong khi Gióng đã ba tuổi vẫn cha nói, cha cời,đặt đâu nằm đấy; ngạc nhiên, xúc động khi Gióng cất tiếng nói đầu tiên là đòi đi giết giặc...].- Hình thức: kể ở ngôi thứ nhất, thêm đối thoại. Đề 5. Kể lại một kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của mình.*Yêu cầu Kiểu bài: kể chuyện đời thờng. - Nội dung: + Đó phải là một kỷ niệm để lại trong tâm hồn em những ấn tợng sâu sắc, khó phai mờ [có thểlà kỷ niệm với một ngời thân; kỷ niệm với bạn bè, thầy cô; kỷ niệm về một chuyến đi...].+ Kể lại diễn biến kỷ niệm ấy một cách hợp lý, các sự việc liên kết chặt chẽ. Câu chuyện để lạitrong tâm hồn em một bài học, một cảm xúc sâu lắng... - Hình thức: Dùng lời kể ngôi thứ nhất.Đề 6. Kể lại chuyện mình [hoặc một bạn] từng mắc lỗi.*Yêu cầu Kiểu bài: kể chuyện đời thờng Nội dung: kể về một lần em mắc lỗi [không nghe lời ông bà, cha mẹ, thầy cô...; một việc làmthiếu trung thực...] làm cha mẹ [hoặc thầy, cô...] phiền lòng, bản thân em rất ân hận. Các chi tiếttrong truyện cần hợp lý, chân thực. - Hình thức: Kể ở ngôi thứ nhất, lời kể phải thể hiện đợc thái độ, cảm xúc của bản thân. Đề 7. Hãy kể chuyện về gia đình em vào một chiều thứ bảy. *Yêu cầu- Kiểu bài: kể chuyện đời thờng- Nội dung: Kể, tái hiện đợc không khí, quang cảnh ấm cúng, hạnh phúc... trong gia đình emvào chiều thứ bảy [ví dụ: lời hỏi han trìu mến của ông bà, cử chỉ yêu thơng của cha mẹ, sự quantâm lẫn nhau của những thành viên trong gia đình...]. - Hình thức: Kể kết hợp với miêu tả [ánh mắt, nụ cời, cử chỉ âu yếm...], bộc lộ cảm xúc của em 3về quang cảnh ấy. Đề 8. Hãy tởng tợng và kể lại cuộc trò chuyện, tâm sự giữa các đồ dùng học tập. *Yêu cầu Kiểu bài: kể chuyện tởng tợng, nhân vật là đồ vật. Nội dung: Tởng tợng tình huống nghe đợc cuộc trò chuyện một cách hợp lý [Ví dụ: do cẩuthả làm mất một đồ dùng học tập phải đi tìm hoặc đêm khuya nghe thấy tiếng những đồ dùngthan thở, tâm sự vì bất bình trớc tính nghịch ngợm, cẩu thả của cô, cậu chủ...]. Kể diễn biến cuộctrò chuyện để toát lên khéo léo ý nghĩa giáo dục đối với học sinh. Khi kể diễn biến cần rõ hai sựviệc: lúc đầu các đồ dùng mới đợc mua về và sau đó các đồ dùng bị đối xử không tốt nh thế nào... Hình thức: Sử dụng nghệ thuật nhân hóa, viết các đoạn, câu đối thoại một cách sinh động.Đề 9. Trong buổi lễ đăng quang, Lang Liêu đã kể cho mọi ngời nghe về sự ra đời của hai loại bánhchng, bánh giầy. Hãy ghi lại lời kể ấy. *Yêu cầu- Kiểu bài: đóng vai một nhân vật kể lại chuyện.- Nội dung: kể lại đầy đủ các sự việc, chi tiết chính của truyện: Vua cha chọn ngời nối ngôi, đ-ợc thần báo mộng, làm bánh, đợc nối ngôi, tục làm bánh ngày Tết. Các sự việc, chi tiết cần làm rõý nghĩa đề cao lao động sáng tạo, nghề nông trồng lúa.- Hình thức: Dùng ngôi kể thứ nhất. Thứ tự kể ngợc bắt đầu từ sự việc cuối. Lời kể có cảm xúc,gợi không khí thời xa, dùng từ phù hợp.Đề 10. Tởng tợng cuộc thi của các loài hoa và trong vai một loài hoa, em hẫy kể lại cuộc thi đó. *Yêu cầu- Kiểu bài: Kể chuyện tởng tợng.- Nội dung: Giới thiệu cuộc thi [tình huống mở cuộc thi hợp lý]. Diễn biến cuộc thi kể lần lợtcác sự việc, mỗi sự việc kể về phần thi của một nhân vật. Qua cuộc thi cần thể hiện rõ ý nghĩa:quan niệm về vẻ đẹp toàn diện.- Hình thức: Sử dụng ngôi kể thứ nhất - nghệ thuật nhân hóa, đan xen tả vẻ đẹp riêng các loàihoa. Lời kể giàu hình ảnh và cảm xúc.Đề 11. Kể lại tâm sự của cây bàng [hoặc cây phợng] non bị lũ trẻ bẻ cành lá. *Yêu cầu- Kiểu bài: Kể chuyện tởng tợng.- Nội dung: Ghi lại những lời tâm sự của một cây bàng non [hoặc cây phợng] trong một tìnhhuống cụ thể: bị lũ trẻ bẻ gãy cành rụng lá. Nội dung lời kể cần chú ý tởng tợng những chi tiết cóý nghĩa, biểu hiện tâm trạng đau đớn, xót xa... Qua câu chuyện, ngời đọc rút ra đợc bài học nàođó về ý thức bảo vệ môi trờng.- Hình thức: Có thể dùng ngôi kể thứ nhất - nhân vật trung tâm là cây bàng non để kể. Nghệthuật nhân hóa đợc sử dụng sáng tạo, hợp lý.Đề 12. Tởng tợng và kể lại câu chuyện mời năm sau khi về thăm trờng cũ. 4*Yêu cầu- Dạng kể chuyện tởng tợng về tơng lai.- Nội dung: Tởng tợng chuyến về thăm ngôi trờng em đang học hiện tại vào 10 năm sau, thểhiện đợc tình cảm gắn bó với mái trờng, thầy cô, bạn bè. Nội dung kể cần có những sự việc, chitiết hợp lý, cảm động, bất ngờ: gặp lại thầy, cô giáo cũ, gặp lại bạn bè cùng lớp, quang cảnh trờngvới những đổi thay...- Hình thức: Dùng ngôi kể thứ nhất.Đề 13. Tởng tợng và kể lại chuyện cổ tích Sọ Dừa theo một kết thúc mới. *Yêu cầu- Kiểu bài: Kể chuyện tởng tợng. - Nội dung:+ Nên kể theo mạch phát triển của truyện cổ dân gian. Tuy khi kể có sự sáng tạo nhng nộidung vẫn phải bảo đảm trung thành với những ý chính của nguyên bản. + Thêm bớt một số chi tiết cho phù hợp với nội dung chuyện kể. + Bài làm phải đảm bảo màu sắc và không khí của truyện dân gian. + Phần kết truyện không theo nguyên bản, ở đây đa ra một kết cục mới, kết cục này có liênkết và bám theo mạch truyện. - Hình thức: Vừa kể vừa có thể nêu cảm nghĩ của bản thân về câu chuyện. Đề 14. Em đã đợc học rất nhiều cô giáo và có những kỷ niệm sâu sắc, hãy kể lại một trong những kỷniệm đó. *Yêu cầu- Kiểu bài: kể chuyện về một nhân vật - Nội dung:+ Giới thiệu cô giáo từng dạy, có ấn tợng và nhiều kỷ niệm. Chú ý là cô giáo Tiểu học [vì ngờikể đang học lớp 6]. + Trong số rất nhiều kỷ niệm, nên chọn kỷ niệm đáng nhớ nhất [Đó là kỷ niệm gì? Xảy ra khinào? Xảy ra nh thế nào? Vì sao lại xảy ra việc đó? Kết thúc ấy nh thế nào?+ Em suy nghĩ gì về kỷ niệm đó [việc làm đối với cô và thấy đợc những gì cô đã làm cho mình].- Hình thức: Kể theo ngôi thứ nhất, kể xen bộc lộ tình cảm.Đề 15. Em hãy kể về một chuyến về thăm quê nội hoặc quê ngoại. *Yêu cầu- Kiểu bài: văn kể chuyện [kết hợp miêu tả]. - Nội dung: + Trình bày thời gian, không gian: quê ở đâu, đờng về thế nào, về thăm khi nào?+ Miêu tả những nét cơ bản nhất về phong cảnh làng quê [cây đa, bến nớc...]. + Những kỉ niệm thân thuộc từ thuở nhỏ, những ấn tợng sâu sắc. + Xúc cảm khi về quê cũng nh khi chia tay. 5+ Tình cảm sâu nặng đối với quê hơng. - Hình thức: Kể theo ngôi thứ nhất, kể xen bộc lộ cảm xúc.Đề 16. Nhân dịp cùng bố mẹ đi thăm quan em đã đợc làm quen với một ngời bạn mới. Dù cuộc gặpgỡ thật ngắn ngủi nhng tình bạn ấy vẫn là một kỷ niệm khó phai. Em hãy kể lại.*Yêu cầuKể lại cuộc gặp gỡ ngắn ngủi [trong chuyến du lịch] với một ngời bạn nhng đã để lại trong emkỷ niệm khó phai. *Nội dung:- Câu chuyện đợc kể phải sắp xếp theo một trình tự hợp lý tự nhiên. Việc làm quen diễn rathật ấn tợng, vừa bất ngờ vừa lô gích, phù hợp với hoàn cảnh, mạch truyện, tránh gợng ép. - Câu chuyện kể đòi hỏi sự sáng tạo, có kịch tính, hấp dẫn lôi cuốn có độ lắng, có d âm củatình bạn đẹp, hồn nhiên, trong sáng, nhân ái. - Miêu tả sơ qua về hình dáng, chú trọng về hoàn cảnh, tính tình... của bạn. Điều quan trọngvừa là phải thể hiện đợc tình cảm của mình đối với bạn và tình cảm của hai ngời với nhau. - Nêu bật đợc ý nghĩa nhân văn trong câu chuyện kể. *Hình thức: Kể theo ngôi thứ nhất.Đề 17. Kể về một thầy [cô] giáo kính yêu nhất của em.*Yêu cầuNêu đợc tình cảm với thầy [cô] giáo mà ngời viết yêu kính nhất.*Nội dung- Giới thiệu ngời thầy [cô] giáo dạy mình. - Miêu tả dáng qua dáng vóc, ăn mặc... đặc biệt là những chi tiết liên quan đến tính cách,phẩm chất... của thầy [cô] giáo. - Dẫn dắt chuyện hợp lý, lô gích, phù hợp với tính cách nhân vật, cần có chi tiết bất ngờ, thú vịcó sức lôi cuốn ngời đọc. - Thầy [cô] giáo có ý nghĩa với tuổi thơ của ngời viết nh thế nào?*Hình thức:Kể theo ngôi thứ nhất. Giọng kể thể hiện cảm xúc trân trọng, gần gũi, thân thơng đối với thầy[cô] giáo. Đề 18. Trong vai ông Lão, cá vàng hoặc mụ vợ hãy kể lại chuyện Ông lão đánh cá và con cá vàng.*Yêu cầu- Kiểu bài: đóng vai nhân vật kể lại truyện.*Nội dungKể lại đầy đủ các sự việc chính của câu chuyện. Giả sử trong vai mụ vợ, cần thể hiện tâm trạng ăn năn, hối lỗi của nhân vật mụ vợ - bài họcrút ra từ thói tham lam, bội bạc.*Hình thức 6Dïng ng«i thø nhÊt kÓ l¹i. Lêi kÓ cÇn cã c¶m xóc, giµu h×nh ¶nh. 7Phần hai văn miêu tả- tả cảnh- tả ngờiI. đặc điểm của văn miêu tả1. Văn miêu tả là loại văn giúp ngời đọc, ngời nghe hình dung những đặc điểm, tính chất nổibật của một sự vật, sự việc, con ngời, phong cảnh.... làm cho đối tợng miêu tả nh hiện lên trớc mắtngời đọc, ngời nghe.2. Những năng lực cần có khi làm văn miêu tả:- Quan sát: nhìn nhận, xem xét sự vật.- Nhận xét liên tởng hình dung về sự vật đặt tronmg tơng quan các sự vật xung quanh. - Ví von so sánh: Thể hiện sự liên tởng độc đáo riêng của ngời viết hình dung, cảm nhận về sựvật, hiện tợng miêu tả.II. Các dạng văn miêu tả ở lớp 6ở tiểu học, các em đã làm quen với văn bản miêu tả, lớp 6 học nâng cao hơn nên đòi hỏi các emcó kĩ năng miêu tả tinh tế trong từng dạng bài. Cụ thể nh sau:1. Tả cảnh* Tả cảnh là gợi tả những bức tranh về thiên nhiên hay cảnh sinh hoạt gợi ra trớc mắt ngờiđọc về đặc điểm từng nét riêng của cảnh. * Yêu cầu tả cảnh: - Xác định đối tợng miêu tả: cảnh nào? ở đâu? Vào thời điểm nào? - Quan sát lựa chọn đợc những hình ảnh tiêu biểu. - Trình bày những điều quan sát đợc theo một thứ tự. * Bố cục bài văn tả cảnh: - Mở bài: Giới thiệu cảnh đợc tả. - Thân bài: Tập trung tả cảnh vật chi tiết theo một thứ tự nhất định, có thể ở một số trờnghợp sau:+ Từ khái quát đến cụ thể [hoặc ngợc lại]+ Không gian từ trong tới ngoài. [hoặc ngợc lại]+ Không gian từ trên xuống dới. [hoặc ngợc lại] - Kết bài: phát biểu cảm tởng về cảnh vật đó.2. Tả ngời* Tả ngời là gợi tả về các nét ngoại hình, t thế, tính cách, hành động, lời nói.... của nhân vật đ-ợc miêu tả.* Phân biệt đối tợng miêu tả theo yêu cầu: - Tả chân dung nhân vật [cần tả nhiều về ngoại hình, tính nết...] - Tả ngời trong t thế làm việc [tả ngời trong hành động: chú ý các chi tiết thể hiện cử chỉ,trạng thái cảm xúc] 8 * Cách miêu tả:- Mở bài: Giới thiệu ngời đợc tả [chú ý đến mối quan hệ của ngời viết với nhân vật đợc tả, tên,giới tính và ấn tợng chung về ngời đó]- Thân bài: + Miêu tả khái quát hình dáng, tuổi tác, nghề nghiệp..+ tả chi tiết: ngoại hình, cử chỉ, hành động, lời nói... [chú ý tả ngời trong công việc cần quansát tinh tế vào các động tác của từng bộ: khuôn mặt thay đổi, trạng thái cảm xúc, ánh mắt...].Ví dụ: Dợng Hơng Th nh một pho tợng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cắn chặt, quaihàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào giống nh một hiệp sĩ của Trờng Sơn oai linh hùngvĩ. [Võ Quảng]+ Thông qua tả để khơi gợi tính cách nhân vật: qua tả các chi tiết ngời đọc có thể cảm nhận đ-ợc tính cách của đối tợng và thái độ của ngời miêu tả đối với đối tợng đó.- Kết bài: Nhận xét hoặck nêu cảm nghĩ của ngời viết về ngời đợc miêu tả.3. Miêu tả sáng tạo* Đối tợng miêu tả thờng xuất hiện trong hình dung tởng tợng có bắt nguồn từ một cơ sở thựctế nào đó.* Đối tợng: Ngời hay cảnh vật.* Yêu cầu khi miêu tả:- Tả cảnh phải bám vào một số nét thực của đời sống. Ví dụ khi tả một phiên chợ trong tởng t-ợng của em cần dựa trên những đặc điểm thờng xảy ra của cảnh đó làm cơ sở tởng tợng nh: khôngkhí của cảnh, số lợng ngời với những lứa tuổi tầng lớp nào? chợ diễn ra ở địa điểm nào? Thời tiếtkhí hậu ra sao?....Những cơ sở đó là thực tế để tởng tợng theo ý định của mình.- Tả ngời trong tởng tởng: nhân vật thờng là những ngời có đặc điểm khác biệt với ngời thờngnh các nhân vật ông Tiên, ông Bụt trong cổ tích hay một ngời anh hùng trong truyềnthuyết....Cần dựa vào đặc điểm có tính bản chất để tởng tợng những nét ngoại hình cho phù hợp,tạo sự hấp dẫnLu ý: Dù miêu tả theo cách nào và đối tợng nào cũng cần chú ý vận dụng ví von so sánh để bàivăn miêu tả cói nét độc đáo mang tính cá nhân rõ.III. cách làm một bài văn miêu tả1. Trong văn miêu tả, năng lực quan sát của ngời viết, ngời nói thờng bộc lộ rõ nhất. Muốnlàm văn tả cảnh, ngời viết cần phải:- Xác định đợc đối tợng miêu tả;- Quan sát, lựa chọn đợc những hình ảnh tiêu biểu;- Trình bày những điểm quan sát đợc theo một thứ tự.2. Bố cục của một bài văn tả cảnh thờng có ba phần:- Mở bài: Giới thiệu cảnh đợc tả;- Thân bài: Tập trung tả cảnh vật chi tiết theo một thứ tự;- Kết bài: Thờng phát biểu cảm tởng về cảnh vật miêu tả.3. Cần chú ý chi tiết khi miêu tả. Ví dụ: 9a] Về cảnh mùa đông, có thể nên những đặc điểm- Bầu trời âm u, nhiều mây.- Gió lạnh, có thể có ma phùn.- Cây cối rụng lá chờ cành.- Chim tróc bay đi tránh rét.- Trong nhà, ngời ta đốt lửa sởi.b] Về khuôn mặt mẹ có thể chú ý tới các đặc điểm- Hình dáng khuôn mặt [tròn, trái xoan...].- Vầng trán.- Tóc ôm khuôn mặt hai đợc búi lên?- Đôi mắt, miệng.- Nớc da, vẻ hiền hậu, tơi tắn... c] Tả một em bé chừng 4 - 5 tuổi: - Mắt đen tròn ngây thơ;- Môi đỏ nh son;- Chân tay mũm mĩm;- Miệng cời toe toét;- Nớc da trắng mịn;- Nói cha sõi...d] Tả một cụ già:-Tóc trắng da mồi;- Cặp mắt tinh anh;- Dáng vẻ chậm chạp hoặ nhanh nhẹn;- Giọng nói trầm ấm...- Cô giáo đang say sa giảng bài trên lớp: giọng nói trong trẻo, cử chỉ âu yếm ân cần, đôi mắtlấp lánh khích lệ...4. Cần chú ý thứ tự khi miêu tả. Ví dụ:a] Tả quang cảnh lớp học trong giờ viết bài tập làm văn:- Có thể theo thời gian: Trống vào lớp. Cô giáo [thầy giáo] cho chép đề. Các bạn bắt tay vàolàm bài. Kết thúc buổi làm bài, thu, nộp bài cho thầy, cô.- Có thể theo không gian: Bên ngoài lớp. Trên bảng, cô [thầy] ngồi trên bàn giáo viên. Các bạntrong lớp bắt tay vào làm bài. Không khí cả lớp và tinh thần thái độ làm bài của bạn ngồi cạnhngời viết [hay chính bản thân ngời viết].b] Tả sân trờng giờ ra chơi:- Miêu tả theo không gian: + Từ xa tới gần. + Miêu tả theo thời gian trớc, trong và sau khi ra chơi. Cũng có thể có một cách thứ ba là kết hợp cả không gian và thời gian [Cách này khó và phứctạp hơn]. Trớc hết, em hay chọn trật tự miêu tả. Sau đó chọn cảnh sân trờng giờ ra chơi để viếtthành đoạn văn. 10- Miêu tả theo thứ tự thời gian:+ Sân trờng vắng lặng trong giờ học.+ Hiệu lệnh trống ra chơi, mọi ngời ùa ra.+ Có tốp chơi đá cầu, nhảy dây, đá bóng, có tốp chỉ đứng xem, hoặc tranh cãi nhau về điều gìđó.+ Có thể tả màu sắc quần áo, những tiếng cờng nói, hò reo và một vài bạn chơi tích cực nhất. IV. một số đề và dàn bài Đề 1. Miêu tả cô giáo đang say sa giảng bài trên lớp.- Mở bài: Giới thiệu khung cảnh lớp học, tên cô giáo hoặc tên môn học.- Thân bài: Miêu tả những nét tiêu biểu về cử chỉ, hình dáng, điệu bộ, biểu hiện s phạm của côgiáo... gắn với diễn biến của bài học hoặc giờ học.- Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em về cô giáo qua giờ học đó.Đề 2. Em hãy tả dòng sông mùa lũ. *Yêu cầu Kiểu bài: văn miêu tả. Nội dung: Có thể tả từ xa đến gần, từ khái quát đến cụ thể. Dòng sông trong mùa lũ nh thếnào? Nớc dâng cao ra sao, có màu gì? Tả cảnh hai bên bờ sông, cảnh những con thuyền vất vả vợtlên trên dòng nớc lũ... Hình thức: Lời văn trong sáng, giàu cảm xúc.Đề 3. Hãy miêu tả lại cô giáo lúc đang say sa giảng bài. *Yêu cầu Kiểu bài: Văn tả ngời. Nội dung: Miêu tả qua dáng vóc, cách ăn mặc... đặc biệt là những chi tiết liên quan đến tínhcách, phẩm chất... của cô. - Khi tả cô giáo đang giảng bài, cần chú ý các chi tiết: giọng điệu, cử chỉ, nội dung bài đợc côthể hiện nh thế nào? Bài giảng của cô tác động nh thế nào đối với ngời nghe? Cô có ý nghĩa với tuổi thơ của ngời viết nh thế nào? Hình thức: Lời văn giàu cảm xúc, thể hiện tình cảm trân trọng gần gũi, thân thơng đối vớicô giáo. Đề 4. Hãy miêu tả ngôi nhà em ở. *Yêu cầu Kiểu bài: tả sự vật. Nội dung: tả ngôi nhà. Nhng đó không phải là ngôi nhà bình thờng mà là "ngôi nhà emđang ở", tức là giữa chủ thể và đối tợng đã xác lập đợc quan hệ đặc biệt gần gũi, do đó dễ khơi gợicảm xúc. - Hình thức: Khi tả phải kết hợp giữa tả sự vật và tả tâm trạng để làm nổi bật hình ảnh ngôi 11nhà với nghĩa "tổ ấm". Đề 5. Em hãy miêu tả quang cảnh tng bừng nơi em ở vào một ngày đầu xuân mới. *Yêu cầu Kiểu bài: Tả cảnh.- Nội dung:+ Kết hợp miêu tả cảnh thiên nhiên với cảnh sinh hoạt nhộn nhịp vào một ngày xuân. + Tái hiện đợc những hình ảnh đặc trng của mùa xuân: hàng cây, hoa lá, cờ, khẩu hiệu, hơngvị Tết với bánh chng, mùi hơng trầm, đào, quất...; tâm trạng, nét mặt hồ hởi, vui tơi, nhộn nhịpcủa mọi ngời. + Cảm nghĩ của em về quang cảnh ấy. - Hình thức: Tả xen bộc lộ cảm xúc.Đề 6. Miêu tả một cảnh đẹp mà em đã gặp trong mấy tháng nghỉ hè [có thể phong cảnh nơi em nghỉmát hoặc cánh động hay rừng núi quê em]. *Yêu cầu- Kiểu bài: văn tả cảnh.- Nội dung: tả một cảnh đẹp trong mùa hè, có thể là cảnh đẹp của quê hơng em hoặc nơi emđến tham quan, nghỉ mát nh: đêm trăng, cánh đồng, dòng sông, bãi biển, rừng núi.v.v.. lá xuống sâ Ngời viết phải chọn lọc đợc các chi tiết tiêu biểu để làm nổi bật vẻ đẹp của cảnh.Cần kết hợp quan sát với tởng tợng, so sánh, thể hiện đợc cảm xúc với cảnh, tình yêu với thiênnhiên đất nớc.- Hình thức: Lời văn phải có hình ảnh, cảm xúc, sử dụng các biện pháp tu từ một cách sinhđộng.Đề 7. Từ bài văn Lao xao của Duy Khán, em hãy tả lại khu vờn trong một buổi sáng đẹp trời.*Yêu cầu- Kiểu bài: văn tả cảnh.- Nội dung cụ thể: tả khu vờn trong một buổi sáng đẹp trời.Trong bài, ngời viết phải thể hiện đợc các chi tiết tiêu biểu để làm nổi bật đợc:- Cảnh vật bao quát của khu vờn [hình khối, màu sắc].- Tả một số cây tiêu biểu, tạo nên ấn tợng riêng về khu vờn.- Tả khung cảnh thiên nhiên để thấy khu vờn đẹp hoặc thân thiết nh thế nào [nắng, gió, màusắc của cây, của lá, của hoa,].Cần kết hợp quan sát với tởng tợng, so sánh, thể hiện đợc cảm xúc của ngời viết đối với cảnhvật của khu vờn.- Hình thức: Lời văn phải có hình ảnh, cảm xúc, sử dụng các biện pháp tu từ một cách sinhđộng. 12Phần bamột số bài viết tham khảo*Đề bài: Trong vai Lạc Long Quân, hãy kể lại câu chuyện Con Rồng cháu Tiên.*Bài viếtThuở ấy, đã lâu lắm rồi, có lẽ đến hơn 4000 năm về trớc, lúc đất nớc ta vẫn còn hoang sơ lắm.Trên đất chủ yếu là núi đồi, cỏ cây hoa lá chứ cha có con ngời đông đúc nh bây giờ. Trên trời, dớinớc, mỗi vùng đất đều do các vị thần tiên cai quản, trông nom.Là con trai của thần Long Nữ, vị thần đợc thần trời giao cho cai quản vùng sông nớc Lạc Việt,cha mẹ đặt tên cho ta là Lạc Long Quân. Đợc cha mẹ chỉ dạy đủ điều từ thủa ấu thơ, lại thêm sứclực vốn có của giống rồng, ta đã luyện đợc rất nhiều phép lạ. Thủa ấy, khi ta còn trẻ, ta thờng hayxin phép Đức Long Vơng lên trần gian thăm thú, giúp dân tiễu trừ bọn yêu tinh, dạy dân cáchtrồng trọt, chăn nuôi, cách ăn ở. Trần gian nhiều cảnh đẹp khiến ta gắn bó nh đang sống dới thủycung. Một hôm, đang thoả chí ngao du sơn thuỷ, ta say hứng quá chân lên tận vùng núi cao phơngBắc. Bỗngh ta gặp một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần. Hỏi ra mới biết nàng là Âu Cơ, con gái ThầnNông. Nghe nói vùng Lạc Việt có nhiều hoa thơm, cỏ lạ, nàng xin phép cha dạo bớc đến thăm. Tacùng Âu Cơ mến cảnh hợp ngời, đem lòng yêu thơng rồi thề ớc nguyện cùng chung sống trọn đời.ít lâu sau, Âu Cơ có mang. Kỳ lạ thay! Đến ngày sinh nở, nàng sinh ra một cái bọc trăm trứng.Rồi trăm trứng nở ra trăm con đều đẹp đẽ, hồng hào chẳng cần bú mớm mà tự lớn lên nh thổi. Vợchồng ta hết sức vui mừng, hết lòng chăm chút cho đàn con nhỏ.Sống ở trần thế đã lâu, ta cũng thấy nóng lòng. ở thuỷ cung, cha mẹ đã già, công việc khôngbiết ai gánh vác. Trăn trở nhiều lần, ta nghĩ: "Âu Cơ vốn thuộc dòng tiên hợp với non cao, ta lạilà giống rồng quen sông nơi biển cả; tính tình, tập quán hẳn có nhiều cái khác nhau nên một cuộcbiệt ly trong nauy mai khó là tránh khỏi. Ta bèn gọi trăm con cùng Âu Cơ và nói:- Ta và vàng tuy sống cha lâu nhng nghĩa tình đến sông cạn đá mòn cũng không thay đổi. Tanghĩ, ta là giống rồng, nàng là giống tiên, vậy khó mà tính kế dài lâu đợc. Nay vì đại nghiệp và vìsự mu sinh của trăm con, ta sẽ đa 50 con xuống biển, nàng đa 50 con lên núi, chia nhau ra mà caiquản các phơng hễ có việc gì thì báo cho nhau để mà tơng trợ.Âu Cơ nghe thấy hợp tình cũng đành nghe theo, cuộc chia ly ngậm ngùi, da diết.Ta đa 50 con xuống vùng đồng thấp dạy các con nghề biển mà an c lập nghiệp. Âu Cơ đa cáccon lên núi cao, lập con trởng làm vua, lấy hiệu là Hùng Vơng, đóng đô ở đất Phong Châu, đặt n-ớc hiệu là Văn Lang, truyền đời nối ngôi đều lấy hiệu Hùng Vơng, không hề thay đổi.Sau đó rất lâu, ta và Âu Cơ không gặp lại nhau nhng tình nghĩa vẫn không phai. Hơn thế,nghĩa "đồng bào" trong trăm con ta cũng không thay đổi. Bởi thế cho nên đến tận ngày nay, trênđất nớc ta dẫu có tới trên 50 dân tộc, nhng đều là anh em ruột thịt một nhà.*Đề bài: Trong vai Thánh Gióng, hãy kể lại câu chuyện Thánh Gióng.*Bài viếtCác cháu có biết ta là ai không? Ta chính là Thánh Gióng, ngời năm xa đã một mình đánhthắng lũ giặc Ân hung ác. Bây giờ ta sẽ kể cho các cháu nghe về cuộc đời của ta lúc bấy giờ nhé! Các cháu ạ! Ta vốn là sứ thần của Ngọc Hoàng sai xuống giúp đỡ dân làng đánh đuổi quânxâm lợc đang nhăm nhe xâm chiếm nớc ta. Muốn đợc sống cùng với nhân dân, Ngọc Hoàng ralệnh cho ta đầu thai xuống một gia đình lão nông hiếm muộn đờng con cái. Một ngày đẹp trời ta 13thấy bà lão phúc hậu vào rừng, ta liền hoá thành một vết chân to và bà lão đã tò mò ớm thử vậy làta đầu thai vào bà cụ. Khỏi phải nói hai ông bà đã vô cùng mừng rỡ khi chờ mãi, sau mời haitháng ta mới ra đời. Ông bà càng vui hơn khi thấy ta rất khôi ngô tuấn tú. Hai ông bà chăm sócyêu thơng ta hết lòng, ông bà ngày ngày mong ta khôn lớn nh những đứa trẻ khác ấy vậy mà mãiđến tận năm ba tuổi ta vẫn chẳng biết cời, nói cũng chẳng biết đi. Các cụ rất buồn, thấy vậy ta rấtthơng nhng vì sứ mệnh mà Ngọc Hoàng đã trao cho nên ta vẫn phải im lặng. Thế rồi giặc Ân đến xâm lợc nớc ta, chúng kéo đến đông và mạnh khiến ai ai cũng lo sợ. Nhìnkhuôn mặt lo âu của dân làng và cha mẹ, ta biết rằng đã đến lúc ta phải ra tay giúp đỡ họ. Mộthôm, đang nằm trên giờng nghe thấy sứ giả đi qua rao tìm ngời giỏi cứu nớc, thấy mẹ đang ngồibuồn rầu lo lắng, ta liền cất tiếng bảo mẹ: - Mẹ ơi! Mẹ đừng buồn nữa, mẹ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con nói chuyện.Nghe ta cất tiếng nói mẹ vô cùng ngạc nhiên, mừng rỡ và mẹ ta càng ngạc nhiên hơn khi ta đòigặp sứ giả vì đó không phải là chuyện đùa, đọc thấy nỗi lo của mẹ ta vội trấn an mẹ:- Mẹ đừng lo lắng gì cả cứ ra mời sứ giả vào đây!Nửa tin nửa ngờ nhng mẹ ta vẫn vội vã ra mới sứ giả vào. Sứ giả bớc vào căn nhà nhỏ tuềnhtoàng của cha mẹ ta, ông ta vô cùng ngạc nhiên nhìn thấy ta lúc này vẫn chỉ là thằng bé nằm ởtrên giờng, sứ giả có vẻ không tin tởng lắm nhng khi nghe ta nói: "Ông về tâu với vua sắm cho tamột con ngựa sắt, một roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Nghe những lờinói đầy quả quyết của ta sứ giả hiểu rằng ta không phải là một đứa trẻ bình thờng, sứ giả vội vãtrở về tâu với vua và vua cũng vui mừng truyền thợ giỏi ở khắp nơi đến làm gấp những thứ tacần. Ai ai cũng phấn khởi khi thấy vua đã tìm đợc ngời tài.Còn ta khi sứ giả đi rồi ta liền vùng dậy và vơn vai mấy cái đã thành ngời lớn. Ta bảo mẹ nấucho ta nồi cơm ăn cho no để chuẩn bị đi đánh giặc. Mâm cơm vừa bng lên ta ăn một loáng đã hếtnhẵn mà chẳng thấy no gì cả, mẹ lại đi nấu nồi khác cho đến khi nhà không còn gì để ăn. Ta ănvào bao nhiêu thì lớn nh thổi bấy nhiêu, đến nỗi quần áo phải thay liên tục. Mẹ ta thấy ta ăn banhiêu cũng cha no trong khi gạo thì đã hết, bà cụ liền chạy nhờ bà con hàng xóm. Bà con đều vuilòng giúp mẹ ta vì biết ta là ngời sẽ đi đánh giặc cứu dân làng. Mọi ngời đến nhà ta nờm nợp, ngờicó gạo góp gạo, ngời có rau, cà góp rau cà, tóm lại ai có gì góp nấy. Mọi ngời còn đến giúp mẹ tathổi cơm cho ta ăn, ta ăn bao nhiêu lại to lớn lừng lững bấy nhiêu. Những ngày đó làng ta ai cũngkhấp khởi vui mừng vì mong đợi ta nhanh chóng đi giết giặc, cứu nớc. Một ngày, dân làng nhận đợc tin giặc đã kéo đến chân núi Trâu. Làng ta lại đợc một phenkhiếp sợ, trẻ con kêu khóc, ngời lớn thì lo âu, các cụ già thì trầm ngâm, ai ai cũng khiếp sợ. Mọingời nhìn ta nh cầu cứu. Ta rất hiểu tâm trạng của họ và đúng lúc đó sứ giả đem những thứ ta cầnđến. Lúc này, ta vùng đứng dậy, vơn vai một cái đã biến thành một tráng sĩ cao lớn phi thờng, thếnên tất cả những thứ sứ giả vừa mang đến chẳng còn vừa với ta nữa. Thấy vậy, mọi ngời lại tứctốc đi tìm thợ về rèn ngựa sắt, áo giáp sắt cho ta, họ làm ra chiếc nào lại cho ta thử chiếc ấy và tachỉ khẽ bẻ đã gẫy, mãi sau mới có những thứ vừa với sức ta. Mọi thứ đã đợc chuẩn bị sẵn sàng, taliền mặc áo giáp sắt, tay cầm roi sắt, nhảy lên mình ngựa, oai phong lẫm liệt. Ta nhớ hôm đó bàcon ra tiễn ta rất đông mọi ngời nhìn ta đầy tin tởng, khắp nơi vang lên lời chúc chiến thắng và tacòn nhìn thấy cả những giọt nớc mắt tự hào, yêu thơng của cha mẹ ta. Từ biệt bà con xóm giềng,cha mẹ những ngời đã yêu thơng, nuôi nấng, ta thầm hứa sẽ chiến đấu hết lòng để không phụcông của bà con dân làng, cha mẹ.Sau phút chia tay, một mình một ngựa ta lao thẳng vào trận đánh. Ngựa đi đến đâu phun lửarừng rực đến đó, lũ giặc vô cùng khiếp sợ. Chúng đổ rạp và tan xác dới roi sắt của ta và ngọn lửacủa con chiến mã. Cả bãi chiến trờng đầy thây quân giặc. Đúng lúc thế trận đang lên nh vũ bãothì cây roi sắt trong tay ta gẫy gập, ta liền nhổ lấy những khóm tre quanh mình quật liên tiếp vàolũ giặc. Lũ giặc lại đợc một phen khiếp sợ, rơi vào thế hỗn loạn và chẳng mấy chốc bỏ chạy tan táckhắp nơi. Những tên may mắn sống sót vội vã thoát thân bỏ chạy vào hẻm núi sâu, tìm cách trở về 14nớc. Làng quê sạch bóng quân thù. Tiếng reo vui của dân làng vang lên rộn rã.Nhìn trăm họ hạnh phúc ta vô cùng sung sớng, vậy là sứ mệnh Ngọc Hoàng giao cho ta đãhoàn thành, chợt nhớ đến cha mẹ già ta cũng muốn về thăm nhng lời Ngọc Hoàng dặn dò khihoàn thành sứ mệnh phải trở về trời khiến ta chẳng dám trái lệnh. Nhìn đất nớc, dân làng một lầncuối ta thúc ngựa phi lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt, rồi cả ngời và ngựa lẳng lặng bay về trời. Tara đi nhng trong lòng đầy tiếc nuối vì không đợc sống cùng những ngời dân hiền lành tốt bụng.Dẫu vậy, ta cũng hài lòng vì từ đây ai ai cũng đợc sống trong cảnh thanh bình, hạnh phúc.Sau đó, vua đã phong cho ta là Phù Đổng Thiên Vơng. Ta cảm thấy rất vui khi đợc nhận danhhiệu đó, bởi ta đã đem đến sự bình yên và hạnh phúc cho mọi ngời. Đó chính là điều quý giá nhấtđối với ta, nó còn quý hơn cả ngọc ngà châu báu mà nhà vua hứa ban tặng cho ta sau khi đánhthắng quân giặc.Đề bài: Trong vai Âu Cơ, hãy kể lại câu chuyện Con Rồng cháu Tiên.*Bài viếtNhanh quá các cháu ạ! Chỉ một thoáng thôi mà đã 4000 năm rồi. Ngày ấy, nhà ta ở vùng núicao quanh năm có hoa thơm, suối chảy róc rách, cha mẹ sinh ra ta và đặt tên là Âu Cơ. Khi tavừa mời sáu tuổi đẹp nh trăng rằm, ta rất thích cùng các bạn rong ruổi trên những vùng núi caotìm hoa thơm, cỏ lạ.Ngày ngày, ta dạo chơi trong những cánh rừng xinh đẹp, cho đến một hôm mải mê đi tìmnhững bông hoa đẹp ta đã lạc mất lối về. Giữa lúc đang băn khoăn, lo lắng thì ta bắt gặp mộtchàng trai cao to, tuấn tú. Chàng tới hỏi han về tình cảnh và vui vẻ đa ta ra khỏi cánh rừng đó. Sau nhiều lần gặp gỡ, ta biết đợc chàng là Lạc Long Quân, mình rồng, thờng ở dới nớc, thỉnhthoảng mới lên sống ở cạn, chàng rất khoẻ mạnh và thờng giúp đỡ dân làng diệt trừ yêu tinh, dạydân cách trồng trọt.Cảm phục trớc con ngời tài đức ấy, chẳng bao lâu sau, ta và Lạc Long Quân đã nên vợ nênchồng. Cuộc sống của ta và chàng vô cùng hạnh phúc, ngày ngày ta cùng chàng dạo chơi khắpnơi, lúc trên rừng lúc xuống biển.Một thời gian sau, ta có mang cả hai gia đình vô cùng mừng rỡ mong đợi đứa cháu đầu tiên rađời. Còn Lạc long Quân chàng cũng vô cùng hạnh phúc chờ đợi đến ngày ta sinh nở. Vào mộtbuổi sáng đẹp trời ta trở dạ. Tất cả mọi ngời hồi hộp, khấp khởi mong đợi. Thế nhng thật lạ thay,ta lại sinh ra một cái bọc trăm trứng. Một thời gian sau, bọc nở ra một trăm ngời con trai. Chúnglớn nhanh nh thổi, đứa nào cũng đẹp đẽ, khôi ngô khác thờng. Hàng ngày, vợ chồng con cái ta dắt nhau lên rừng ngắm hoa, tìm cỏ và có lẽ cuộc sống sẽ mãinh vậy nếu nh ta không nhìn thấy nét mặt phảng phất buồn của Lạc Long Quân. Thỉnh thoảng talại thấy chàng đứng trên ngọn núi cao mắt dõi ra phía biển khơi, nơi có gia đình chàng đangmong đợi. Thế rồi một hôm Lạc Long Quân quyết định trở về gia đình của mình, để lại ta vò võmột mình với bầy con nhỏ. Chàng đi rồi ta ngày đêm mong đợi. Và lũ trẻ cũng không ngớt lời hỏita: - Cha đâu hả mẹ? Bao giờ cha trở về chúng con?Ta chẳng biết trả lời chúng ra sao vì chàng đi mà không hẹn ngày trở về. Hàng ngày mẹ con tadắt nhau ra bờ biển ngóng về phía biển khơi mong mỏi bóng chàng trở về nhng càng trông chờcàng chẳng thấy. Cho đến một ngày ta quyết định gọi chàng trở về và than thở:- Chàng định bỏ thiếp và các con mà đi thật sao? Chàng có biết mẹ con thiếp ngày đêm mongđợi chàng?Nghe ta hỏi nh vậy Lạc Long Quân cũng rất buồn rầu và nói: 15- Ta vốn nòi rồng ở miền nớc thẳm, nàng là dòng tiên ở chốn non cao. Kẻ ở cạn, ngời ở nớc,tính tình tập quán khác nhau, khó mà ăn ở cùng nhau một nơi lâu dài đợc. Nay ta đa năm mơicon xuống biển, nàng đa năm mơi con lên núi, chia nhau cai quản các phơng. Nghe chồng nói vậy ta giật mình phản đối:- Không! Thiếp không muốn gia đình ta mỗi ngời một ngả. Thiếp không muốn xa các con, xachàng.Lạc Long Quân lại nói:- Chúng ta đã từng sống hạnh phúc yêu thơng, gắn bó với nhau, bởi thế ta tin rằng khoảngcách chẳng thể nào chia lìa đợc chúng ta, và sau này có khó khăn hoạn nạn cùng nhau chia sẻgiúp đỡ là đợc rồi.Nghe lời khuyên giải của Lạc Long Quân ta thấy cũng có lí nên đành nghe theo. Ngày chiatay, nhìn chàng và năm mơi đứa con xa dần lòng ta buồn vô hạn, vậy là từ nay ta phải xa chúngthật rồi, biết bao giờ mới gặp lại nhau đây. Ngời con trai cả của ta đợc tôn lên làm vua lấy hiệu là Hùng Vơng đóng đô ở Phong Châu, đặttên nớc là Văn Lang. Còn lại, ta chia cho mỗi con một vùng đất để tự lập ra châu huyện, lập nêncác dân tộc: Tày, Nùng, H'Mông, Thái, Mèo, Dao,... với những phong tục tập quán riêng, vô cùngphong phú.Thế là từ bấy giờ, vợ chồng con cái chúng ta xa nhau nhng ta và Lạc Long Quân vẫn khôngquên tình cũ, nhất là các con của ta, dù không ở gần nhau nhng vẫn gắn bó keo sơn. Mỗi khi gặpkhó khăn hoạn nạn chúng lại đoàn kết giúp đỡ nhau vợt qua.Các cháu biết không, chúng ta đều là anh em một nhà, có chung nguồn gốc con lạc cháu hồng,bởi vậy các cháu cần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, các cháu nhé!*Đề bài: Trong vai Lang Liêu, kể lại chuyện Bánh chng, bánh giầy.*Bài viếtBuổi tối hôm ấy, trăng sáng vằng vặc in rõ từng cành n gạch. Tôi ngồi lặng yên nghe mẹ đọctruyện Bánh chng, bánh dày. Giọng của mẹ thật ngọt ngào, ấm áp. Hình ảnh chàng Lang Liêuhiền lành chân chất cứ hiện lên rõ nét trong trí tởng tởng của tôi. Trăng sáng quá! Gió lại hiu hiuthổi, tôi cảm thấy lòng mình thật nhẹ nhàng trong trẻo, bớc chân tôi nhẹ tênh theo câu chuyện vềchiếc bánh mẹ vừa kể.Bớc chân tôi lang thang trên những cánh đồng ngạt ngào hơng lúa, xa xa những triền khoailang xanh rờn, bỗng tôi thấy một anh nông dân đang cặm cụi nhặt từng ngọn cỏ trên ruộng lúa.Nhìn gơng mặt anh có nét gì đó quen quen, tôi bớc lại gần hơn:- A! Chào anh Lang Liêu! Sao anh lại ở đây? Tôi reo lên thích thú khi nhận ra đó chính làLang Liêu, chàng trai hiền lành trong câu chuyện Bánh chng, bánh dày.Nghe thấy giọng nói lảnh lót của tôi anh nông dân ngừng tay làm, nhìn tôi mỉm cời, nói:- Chào em gái! Lẽ ra anh phải hỏi em điều đó chứ!Tôi chợt hiểu và giới thiệu:- Em quên mất, em là Lan, năm nay em học lớp 6, ngày mai lớp em có tiết văn học về Bánh ch-ng, bánh dày thế mà hôm nay em lại đợc gặp anh, thật là vui quá! Nghe nhắc đến chuyện bánh chng, bánh dầy anh nông dân có vẻ trầm ngâm, tôi thì vô cùngsung sớng vì đây là một cơ hội hiếm có để đợc nghe chính chàng Lang Liêu kể cho nghe về cuộcđời của mình. Đoán đợc suy nghĩ của tôi anh mỉm cời và nói:- Em có muốn anh kể cho em nghe về cuộc thi tài kén vua của phụ vơng anh không? 16Tôi thích thú: - Có ạ! Anh hãy kể cho em nghe đi. Lang Liêu đa đôi mắt nhìn ra xa, anh bắt đầu kể, giọng nh trầm xuống.- Ta sinh ra trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, mẹ ta chẳng đợc vua yêu chiều nh những vơngphi khác nên khi sinh ra chỉ có mẹ con quấn quýt bên nhau, chẳng bao lâu bà mất sớm, để lại tamột mình côi cút. Thế là cũng từ đó ta chăm chỉ với ruộng đồng, khoai lúa. Cuộc sống cứ ngàytháng thoi đa, chẳng mấy chốc ta đã thành chàng trai trởng thành, mạnh khoẻ. Ngày ngày, ta vuivới công việc đồng áng của mình, chẳng dám màng đến công danh, bổng lộc của triều đình. Mộthôm, đang lúi húi vun mấy khóm khoai trớc nhà bỗng ta nhận đợc lệnh vua vời vào trầu.- Thế anh có lo lắng không? Tôi sốt sắng hỏi.Lang Liêu chậm giãi trả lời:- Ta cũng cảm thấy hơi lo lắng vì lâu rồi không vào triều, biết đâu phụ vơng giận hoặc đauyếu. Bởi vậy, sau khi nhận đợc lệnh, ta vội vã thay quần áo vào chầu phụ vơng. Trên đờng đếnđấy, ta đã nghe nói vua cha nay cảm thấy già yếu nên muốn tìm một ngời nối ngôi, chỉ cần ngời đócó tài chứ không nhất thiết là con trởng hay con thứ. Khi ta đến nơi, tất cả mọi ngời đã đến đôngđủ và tất nhiên có cả các anh của ta. Trên ngai vàng, vua cha đã có vẻ già yếu hơn trớc nhiều. Sau khi tuyên bố lí do của buổi triệutập, Ngài nói: - Tới ngày lễ tiên Vơng, ai làm vừa lòng ta thì ta sẽ truyền cho ngời ấy ngôi báu để tiếp tục trịvì đất nớc.Nghe đến đây tôi lại buột miệng hỏi:- Chắc anh lo lắng lắm khi nhận đợc tin này bởi anh rất nghèo, đâu có những thứ quý giádâng lên vua cha.Lang Liêu nhìn tôi gật đầu, chàng tiếp:- Sau khi nghe lời vua cha phán truyền, các anh của ta có vẻ rất vui mừng vì trong tay họ cóbiết bao ngọc ngà châu báu, họ muốn gì mà chẳng có, còn ta nhìn khắp nhà chỉ thấy toàn lúa, sắn,khoai, không có thứ gì là giá trị cả, biết lấy gì để dâng lên Tiên Vơng. Thực ra ta cũng không có ýtranh giành ngôi báu nhng ta cũng muốn làm đẹp lòng phụ vơng.Suốt mấy ngày sau đó, ta mất ăn mất ngủ vì nghĩ đến món quà sẽ dâng lên phụ vơng. Lòng tangổn ngang trăm mối, nếu đi mua đồ quý nh các anh của ta thì ta không có tiền còn nếu dâng lênchỉ khoai và sắn thì chắc chắn phụ vơng sẽ buồn lòng vì những thứ tầm thờng đó. Một đêm, saumột hồi trằn trọc suy nghĩ ta liền ngủ thiếp, trong giấc ngủ, ta thấy một vị thần hiện lên máchrằng: hãy lấy chính những sản phẩm mà mình làm ra để dâng lên Tiên Vơng. Ta sung sớng vàchợt tỉnh giấc. Ngay sáng hôm đó, ta bắt tay vào làm bánh nh lời thần báo mộng. Ta tìm một thứ gạo nếpngon nhất đem vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong xanh gói thành hìnhvuông, nấu một ngày một đêm cho thật nhừ. Và loại bánh thứ hai ta nghĩ cần phải thay đổi nên tađem gạo đồ lên, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn. Bánh hình vuông biểu tợng cho trời, bánh hìnhvuông biểu tợng cho đất.Đến ngày lễ Tiên Vơng, ta đem hai loại bánh đó vào cung. Nhìn chồng bánh bằng lúa gạo củata, không ít ngời xem thờng bởi nó vô cùng bình thờng so với những món sơn hào hải vị, nem côngchả phợng của các lang. Ta cũng chẳng hi vọng điều gì cả mà chỉ mong đẹp lòng tổ tiên bằngchính tấm lòng thành của mình.Tất cả các lễ vật đợc bày ra trớc mặt đức vua, ai ai cũng hồi hộp hi vọng vua cha chọn lễ vậtcủa mình. Đức vua đi đi lại lại trớc món lễ vật của các lang. Gơng mặt đăm chiêu có lẽ ngời đang 17băn khoăn giữa các món mà các lang dâng lên. Vua cha nhìn mọi thứ với thái độ điềm tĩnh, ngờixem xét từng món ăn, nhấp nháp sơ qua, gơng mặt vẫn không biểu thị một thái độ gì, có lẽ ngờivẫn cha ng ý một món ăn nào cả. Các anh của ta, nhiều ngời đã tỏ ra thất vọng khi thấy vua cha l-ớt qua món ăn của mình rất nhanh. Hai loại bánh của ta đợc đặt ở sau cùng, khi đứng bên mâmbánh của ta, ngời dừng hẳn bớc chân, đôi mắt chăm chú nhìn, có lẽ ngời thấy ngạc nhiên vì thựcra mâm bánh của ta trông khác hẳn các món sơn hào hải vị khác. Sau khi nhìn ngắm, ngời liềncầm từng chiếc bánh lên tỏ vẻ thích thú, bỗng ngời cất tiếng hỏi:- Chiếc bánh này làm bằng gì hả Lang Liêu?Ta bẩm: - Tha phụ vơng! Hai loại bánh này đợc làm bằng gạo, đây là những sản phẩm do chính bàntay con làm nên.ánh mắt cha nhìn ta trìu mến, điều mà lâu nay ta ít thấy. Và sau khi nghe ta giới thiệu cáchlàm cũng nh ý nghĩa của từng loại bánh, vua cha vô cùng kinh ngạc. Đức vua liền cắt ra cho tất cảmọi ngời cùng ăn, ai cũng tấm tắc khen ngon. Vua cha nói:- Trong tất cả các món lễ vật dâng lên Tiên Vơng hôm nay, ta ng ý nhất là món bánh của LangLiêu, nó vừa mang ý nghĩa là biểu tợng của đất trời, của sự no đủ, đoàn kết vừa thể hiện đợc tấmlòng hiếu thảo của một ngời con có hiếu. Do vậy, ta quyết định chọn Lang Liêu là ngời thừa kếngôi vị.Tôi thích thú nghe câu chuyện Lang Liêu vừa kể và cảm thấy vô cùng khâm phục, kính trọnganh. Nhng tôi ngạc nhiên vì thấy vua Lang Liêu chẳng khác gì anh nông dân cả. Đọc đợc suy nghĩcủa tôi Lang Liêu cời lớn và nói:- Hôm nay ta vi hành về nơi thôn quê để dạy dân cách cấy cày, chăm sóc lúa, khoai.Nói xong Lang Liêu liền tạm biệt tôi để đi ra phía ngoài xa kia, ở đó bà con nông dân đang đợianh. Vừa nói anh vừa bớc đi rất nhanh, tôi liền gọi với theo:- Anh Lang Liêu! Anh Lang Liêu! Cho em đi cùng với!Vừa lúc đó tôi tỉnh giấc thấy mẹ đang ngồi bên cạnh, mẹ hỏi: th- Con vừa ngủ mơ đúng không? Mẹ thấy con ú ớ gọi ai đó.Tôi dụi mắt tỉnh giấc, hoá ra tất cả chỉ là một giấc mơ. Một giấc mơ thật đẹp. Thấy tôi vẫnngồi mủm mỉm cời, mẹ liền bảo:- Con dậy vào nhà ngủ đi để mai còn kịp đi học.Vậy là giờ đây tôi hiểu vì sao cứ đến tết mẹ tôi lại gói bánh chng. Chiếc bánh chng thật có ýnghĩa.*Đề bài: Tởng tợng và kể lại cuộc gặp gỡ với một nhân vật cổ tích mà em đã học.Bài viếtNăm nay tôi, đợc lên lớp 6 bố mẹ giao hẹn nếu năm nay tôi đợc học sinh giỏi bố mẹ sẽ cho rabiển chơi một tuần. Tôi nhủ thầm sẽ cố gắng học thật tốt để có đợc chuyến đi chơi đầy hấp dẫnđó. Qua một năm phấn đấu, cuối năm học tôi đợc công nhận là học sinh giỏi, không những vậymà còn đứng đầu lớp về thành tích học tập. Bố mẹ tôi vô cùng phấn khởi khi thấy tôi học hànhgiỏi giang và đúng nh lời hẹn, đầu tháng 7 bố đa cả nhà đi biển.Chiếc xe bon bon đa gia đình tôi ra thành phố biển, trớc mắt tôi biển hiện ra xanh thẳm, bìnhyên, từng con sóng bạc đầu nối đuôi nhau đùa rỡn với bờ cát dài phẳng lặng. 18Sau một hồi dập dềnh cùng sóng biển, cả nhà tôi cắm trại trên một hòn đảo nhỏ. Giữa bốnbiển mênh mông, đa mắt nhìn ra xa tôi thấy cảnh vật thật nên thơ, hiền hoà, chợt tôi liên tởng đếnhình ảnh cô út trong truyện cổ tích Sọ Dừa khi bị dạt vào đảo hoang, vừa nghĩ đến cô út tôi đãthấy trớc mắt có một túp lều nhỏ, xem ra rất sơ sài nh mới vừa dựng tạm, và phía ngoài cửa cómột cô gái xinh đẹp, dịu dàng đang ngóng về phía xa xa.- Chào cháu bé! Cháu đi đâu vậy?- Cháu đi dạo và ngắm biển cô ạ.- Chắc cô cũng đi du lịch nh gia đình cháu?- Không cô bị lạc vào nơi này đã mấy tuần rồi!- Cháu thấy cô rất quen, dờng nh cháu đã gặp cô ở đâu rồi.- Thế cháu học lớp mấy rồi?- Dạ. Cháu học lớp 6 rồi cô ạ. Mà cô biết không cháu đợc đọc rất nhiều chuyện cổ tích. - Thế cháu có thích truyện Sọ Dừa không?- Cháu thích lắm cô ạ. Và trong các nhân vật đó cháu ích nhất cô út vừa hiền lành vừa tốtbụng. Mà cháu thấy cô giống cô út lắm hay chính cô là- Đúng rồi cháu ạ. Cô đang ở đây chờ thuyền trạng đi sứ về cứu cô.Ôi thích thật, tôi không thể ngờ lại đợc gặp cô út ở đây, lại đúng lúc cô đang phải sống cô đơnngoài đảo vắng. Cô út quả thật đáng thơng. - Cô ơi! những ngày ở đây cô có buồn không?Cô út nhìn tôi và nói:- Buồn và nhớ nhà lắm cháu à! Suốt ngày cô cứ thui thủi một mình hết trong lều lại ra bờ biểnngóng thuyền trạng đi qua. May có hai chú gà làm bạn cũng đỡ đi phần nào.- Thế cô ăn bằng gì ạ?- Dạo đầu cô xẻ thịt con cá kình nớng ăn, bây giờ cô bắt cá tơi ở biển làm thức ăn cho quangày.- Cô ơi! Cô có giận hai ngời chị của mình không?- Cô cũng giận họ nhng dẫu sao họ cũng là những ngời ruột thịt của cô. Cô tin rằng sau này họsẽ hối hận về việc làm sai trái này. Và chị em cô sẽ hoà thuận, yêu thơng nhau nh xa.- Cô cho cháu hỏi điều này nhé. Sao cô lại đồng ý lấy chàng Sọ Dừa vừa xấu vừa nghèo? - Bởi cô biết Sọ Dừa là một ngời tốt và hơn nữa cô tin rằng những ngời tốt sẽ luôn gặp đợcnhiều may mắn và hạnh phúc trong cuộc sống.- Vậy cháu chúc vợ chồng cô mau chóng đoàn tụ và hạnh phúc.Tôi vừa dứt lời bỗng thấy ai đó khẽ lay lay vào ngời, hoá ra là mẹ tôi:- Mẹ ơi con vừa mơ một giấc mơ tuyệt đẹp! Mẹ mắng yêu tôi: vừa ngồi nghỉ một lát đã ngủ tít rồi. Tôi mỉm cời sung sớng và kể lại cho mẹnghe giấc mơ vừa rồi. Nghe xong mẹ nói:- ở hiền rồi sẽ gặp lành con ạ. Bây giờ mẹ con ta đi kẻo bố đợi.Trên đờng về trong đầu tôi còn vơng vấn mãi hình ảnh cô út hiền lành, dễ thơng. Ngoài kiabiển nh đẹp và nên thơ hơn. 19*Đề bài: Trong vai ngời mẹ, hãy kể lại câu chuyện Thánh Gióng.*Bài viếtTa là mẹ của Thánh Gióng, năm nay đã già rồi, ấy vậy mà trong lòng vẫn không nguôi nhớ vềđứa con trai yêu quý của ta. Chuyện về đứa con trai này mãi là kỉ niệm trong lòng ta. Thuở ấy, cách đây cũng ngót mấy chục năm trời, vợ chồng ta sống ở một vùng quê yên bình,cánh đồng xanh rì thẳng cánh cò bay, lợn gà đầy chuồng, nói chung cuộc sống thì đầy đủ và noấm, hơn thế những ngời bà con xóm giềng cũng vô cùng tốt bụng. Hai vợ chồng ta ngày đêm mongmỏi có mụn con vui vầy tuổi già. Ngày ngày, ta ra đồng chăm sóc ruộng lúa, vờn khoai cho đỡ buồn. Một hôm ra đồng, ta nhìnthấy một vết chân rất to, to gấp mấy lần ngời thờng, lúc đầu ta còn lo lo nhng chợt nhớ xóm làngta từ xa đến nay vốn rất thanh bình thì có điều gì khiến ta phải lo lắng đâu chứ. Trí tò mò nổi lên,ta liền đặt ngay bàn chân của mình lên để ớm thử. Sau đó mải miết với công việc của mình. Vềnhà ta cũng quên khuấy đi sự việc đó. Cho đến một thời gian sau, chợt một hôm ta thấy ngờikhang khác và ta biết mình đã có mang. Ta sung sớng báo tin cho ông lão, ông lão cũng vô cùngmừng rỡ. Hai vợ chồng ta nâng niu chăm sóc đứa trẻ trong bụng cầu mong cháu khoẻ mạnh, lànhlặn nh bao đứa trẻ khác. Tháng thứ 9 trôi qua vẫn cha thấy cháu chào đời vợ chồng ta vô cùng lolắng, nhng rồi cứ chờ đợi và cho đến tháng mời hai thì Gióng ra đời. Vợ chồng ta vui mừng khônxiết. Gióng ra đời khoẻ mạnh, tuấn tú lạ thờng, hai vợ chồng đặt biết bao hi vọng vào nó. ấy vậymà đến năm lên ba tuổi Gióng vẫn chẳng biết nói, biết cời, biết đi, cứ đặt đâu là ngồi đó, trong khibằng tuổi đó lũ trẻ hàng xóm đã biết chạy nhảy khắp nơi. Hai vợ chồng ta rất buồn, ngày đêm cầukhấn trời phật cho đứa con độc nhất của ta mau chóng đợc nh những đứa trẻ khác. Thế rồi bỗng đâu quân giặc kéo sang xâm lợc nớc ta, chúng kéo đến đông nghìn nghịt, cuộcsống đang yên bình bỗng bị khuấy động, nhà nhà lo sợ, ngời ngời lo sợ, mọi ngời chuẩn bị đồ khôđể chạy giặc. Trong tình cảnh đó nhà vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm ngời tài đi đánh giặc cứu nớc. Sứ giả về tận đến làng ta rao gọi ngời tài. Ta nhớ hôm đó, hai vợ chồng đang ngồi bàn tínhxem nếu đi chạy giặc sẽ phải mang theo thứ gì thì Gióng đang nằm trên giờng bỗng cất tiếng nóirất mạch lạc:- Mẹ ơi! Ra mời sứ giả vào đây, con có chuyện muốn nói.Hai vợ chồng giật mình ngơ ngác, rồi chợt sung sớng reo lên:- Con đã nói đợc rồi Gióng, cha mẹ mừng lắm, nhng con còn bé thế này thì làm đợc gì mà mờisứ giả, không khéo mang tội khi quân.Nói vậy nhng thấy ánh mắt cơng quyết của Gióng, ta vẫn chạy ra mời sứ giả vào trong bụngvừa mừng lại vừa lo.Sứ giả bớc vào căn nhà đơn sơ của ta đa mắt nhìn xung quanh có ý muốn biết mặt ngời tài nh-ng nhìn mãi mà chỉ thấy cậu bé ba tuổi đang nằm trên giờng, sứ giả có vẻ nghi ngờ nhng vừa lúcđó Gióng lên tiếng, giọng đầy quả quyết:- Ông hãy về bẩm báo với đức vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áogiáp sắt, ta sẽ ra tay tiêu diệt lũ giặc này. Mang đến đây càng nhanh càng tốt.Sứ giả vẫn tỏ ý nghi ngờ, thằng bé nhà ta bỗng vùng đứng dậy, khuôn mặt đầy nghiêm nghị:- Ông hãy tin ở ta, ta không phải là một đứa trẻ bình thờng.Nghe Gióng nói vậy, sứ giả lập tức đi ngay. Lúc này, Gióng quay sang bảo ta:- Mẹ xuống nấu cho con một nồi cơm to để con ăn còn chuẩn bị đi đánh giặc.Đến lúc này, ta chợt hiểu dờng nh Gióng không phải là một ngời bình thờng, có lẽ nó là conNgọc Hoàng xuống cứu giúp dân làng. Nghĩ vậy, ta vội vàng xuống bếp nấu một nồi cơm to, bnglên cho Gióng ăn, kì lạ thay Gióng ăn chỉ một loáng đã hết bay nồi cơm và mỗi lúc ta thấy Gióng 20lớn lên một ít. Chỉ trong vài ngày Gióng lớn gấp 10 lần hôm trớc, quần áo may chẳng kịp bởi chỉmột loáng đã chật không mặc nổi.Chỉ trong một thời gian ngắn bao nhiêu lơng thực ta dự trữ đã hết veo, bà con láng giềng biếttin Gióng nhận lời đi đánh giặc nên vui vẻ mang gạo, cà sang nhà và giúp ta thổi cơm cho Gióngăn. Gióng ăn không biết no, ngời to lớn nh một tráng sĩ. Một hôm cả nớc nhận đợc tin quân giặc đã đến núi Trâu, tình hình đất nớc rất nguy kịch. Tấtcả mọi ngời từ già đến trẻ ai ai cũng hoảng hốt, lo sợ. Đúng lúc đó, sứ giả mang những thứ Gióngyêu cầu đến nhng khổ một nỗi lúc này Gióng đã to lớn gấp mời lần hôm sứ giả gặp nên chẳng thứgì còn vừa với nó cả. Những thứ đó chỉ nh thứ đồ chơi đối với nó. Sau mấy lần làm đi làm lạiGióng mới chọn cho mình thứ phù hợp còn những cái khác Gióng khẽ bẻ đã vỡ vụn, và áo giáp sắtmặc vào khẽ cựa đã bung.Sau khi đã mặc áo giáp sắt, cầm roi, nhảy lên mình ngựa, lúc này Gióng thật oai phong lẫmliệt, nó chẳng còn giống đứa trẻ lên ba nh trớc. Nó chắp tay từ biệt hai vợ chồng ta:- Vì đất nớc con ra đi đánh giặc và không biết đến khi nào trở lại. Cha mẹ ở quê nhà cố gắnggiữ gìn sức khoẻ.Quay sang bà con láng giềng, lúc này cũng đến rất đông để chia tay, nó cũng chắp từ biệt mọingời và nó còn nói:- Nếu cháu không trở về nhờ bà con láng giềng chăm sóc cha mẹ cháu lúc tuổi già sức yếu.Chúc cha mẹ và bà con mạnh khoẻ bình yên!Nghe nó nói vậy, ta không cầm đợc nớc mắt nhng cũng vô cùng tự hào vì con ta đang làm mộtviệc vô cùng lớn lao.Chào mọi ngời xong nó thúc ngựa phi thẳng ra ngoài trận đánh. Ngựa đi đâu phun lửa đỏ rựcra đến đó. Nó đón đầu lũ giặc đánh cho chúng tơi bời, và chỉ trong chốc lát quân giặc đã bị tiêudiệt gần hết. Đúng lúc đó chiếc roi sắt trong tay nó gẫy làm đôi, lũ giặc hí hửng định xông lên nh-ng Gióng đã nhanh tay nhổ khóm tre bên cạnh. Quật túi bụi vào lũ giặc, lũ giặc không kịp chốngtrả. Một thời gian sau quân giặc đã bị Gióng tiêu diệt chẳng còn một bóng nào nữa.Ta nghe tin Gióng đã tiêu diệt đợc quân giặc trong lòng xiết bao vui mừng, và mong nó trởvề nhng chờ mãi không thấy con đâu, đến sau này ta mới biết nó chính là con trai Ngọc Hoàngxuống giúp dân làng nay hoàn thành nhiệm vụ đã bay về trời. Thấm thoát đã bao năm trôi qua nhng trong lòng ta vẫn không nguôi nhớ về đứa con ấy, dẫuvậy ta rất vui vì con trai ta đã trở thành vị anh hùng dân tộc đợc mọi ngời ghi nhớ.*Đề bài: Trong vai con cá vàng, hãy kể lại câu chuyện Ông lão đánh cá và con cá vàng.*Bài viếtTôi là chú cá vàng kẻ đã giúp lão đánh cá tội nghiệp mấy lần thoát khỏi bàn tay cay nghiệtcủa bà vợ. Chắc các bạn muốn tôi kể cho nghe về câu chuyện đó một cách cụ thể hơn.Chuyện là thế này, hôm đó là một ngày đẹp trời tôi tung tăng cùng các bạn bơi lội ở một vùngbiển nớc xanh biếc. Do mải chơi nên tôi bị lạc mất đàn, giữa lúc đó tôi chợt nhận ra mình đã bịmắc vào lới của ng dân. Tôi kêu gào thảm thiết vì biết rằng thế là đời tôi đã hết, từ nay tôi chẳngcòn đợc cùng các bạn tung tăng giữa đại dơng mênh mông.Đúng lúc tuyệt vọng nhất tôi chợt nhận ra mình còn có một vài phép lạ mà có thể dùng nó đểtrao đổi mạng sống. Nghĩ vậy nên vừa thấy lão tôi đã van xin:- Xin lão hãy mủi lòng mà tha cho tôi! Lão cần gì tôi sẽ cho. Nhng rất may hôm đó tôi gặp đợc lão đánh cá tốt bụng, thấy bộ mặt thảm thơng của tôi lãođã mủi lòng tha cho tôi, lão nói: 21- Thôi ngơi hãy trở về ngôi nhà cùng các bạn mà tung tăng vui đùa, ta không cần bất cứ thứ gìcả.Nói xong lão nhấc tôi ra khỏi lới đem tôi thả xuống dòng nớc xanh mát. Tôi sung sớng chào lãovà bơi đi tìm các bạn. Chắc các bạn của tôi sẽ rất ngạc nhiên khi thấy tôi trở về biển xanh mộtcách an toàn nh vậy.Thế nhng đợc một lúc, khi ta đang mải mê vui chơi cùng chúng bạn, bỗng ta nghe thấy tiếngai nh tiếng ông lão đánh cá gọi:- Cá vàng ơi! lên giúp ta với!Nghe tiếng ông lão gọi, ta vội vàng nổi lên mặt biển, ta thấy ông lão đã đang đợi ta, khuôn mặtđau khổ, lão nói:- Chú hãy giúp ta với, mụ vợ ta càu nhàu mãi bên tai làm tôi không chịu đợc, mụ muốn tôi xinmột cái máng lợn mới vì chiếc máng cũ đã bị sứt rồi.Tôi trả lời:- Lão đừng lo. Lão cứ về nhà đi. Tôi sẽ biếu lão một cái máng mới.Xong việc tôi lại quay về biển khơi, trong lòng chắc mẩm lão đánh cá đã đợc yên vì mụ vợ đãcó chiếc máng mới.Xong cũng chỉ đợc vài hôm tôi lại nghe thấy tiếng lão gọi. Tôi lại bơi lên gặp lão. Vừa nhìnthấy tôi lão đã khẩn khoản:- Cá vàng ơi giúp ta với. Mụ vợ ta lại đòi một toà nhà đẹp.- Lão ơi tôi sẽ giúp lão, lão cứ trở về nhà đi.Tôi cảm thấy thơng lão vì lão là một ngời thật hiền từ mà lại có một bà vợ tham lam.Tôi nghĩ rằng có lẽ từ bây giờ mụ vợ sẽ không còn đòi hỏi gì nữa khi đã có một toà nhà đẹp.Nhng chỉ đợc một thời gian ngắn lão đánh cá lại gọi tôi lên, lần này lão nói:- Mụ vợ của ta thật tham lam nó chẳng để tôi yên. Nó muốn đợc làm nhất phẩm phu nhân, nókhông muốn làm mụ già nông dân nữa.Nghĩ đến công lão tha mạng và sự tốt bụng của lão tôi lại bằng lòng giúp lão. Thế nhà mụ vợlão đã có nhà cao cửa rộng, lại còn là nhất phẩm phu nhân. Tôi yên tâm từ nay lão đánh cá sẽ đợcsống yên thân.ấy vậy mà chẳng bao lâu sau, hôm đó biển sóng gầm gào, mịt mù, tôi lại nghe thấy tiếng lãogọi tha thiết:- Cá vàng ơi! Giúp lão với. Con mụ vợ vẫn chẳng để cho lão yên. Tôi vội vàng trở lên chào lão.- Ông lão ơi! Ông lão cần gì thế!- Mụ vợ tôi lại chẳng để cho tôi đợc yên, mụ muốn đợc làm nữ hoàng.Nhìn bộ dạng đáng thơng của lão tôi lại bằng lòng giúp lão:- Lão cứ yên tâm về đi rồi mụ vợ của lão sẽ đợc làm nữ hoàng.Tôi lại yên tâm trở về biển xanh. Rồi một hôm sóng biển nổi lên mịt mù, gầm réo ầm ào. Tôinghe thấy tiếng lão đánh cá gọi. Tôi vội trở lên gặp lão:- Có việc gì thế lão? Lão cần gì à?- Khổ lắm cá vàng ơi, mụ vợ của ta lại không muốn làm nữ hoàng nữa, mụ muốn đợc làmLong Vơng ngự trên biển để cá vàng hầu hạ.Nghe xong yêu cầu của mụ vợ tôi giật mình tức giận, mụ ta thật quá đáng, mụ muốn tôi trở 22thành kẻ hầu ngời hạ cho mụ ? Tôi không thể đáp ứng đợc yêu cầu này của mụ đợc. Bực mình tôilao ngay vào biển khơi không kịp cả chào lão. Tôi định bụng sẽ trừng trị cho mụ một trận nhngnghĩ đến lão già tốt bụng, tội nghiệp, tôi lại hoá phép cho họ căn nhà và chiếc máng sứt nh xa đểlão có chỗ chui ra chui vào. Đó chính là bài học đích đáng tôi muốn dành cho mụ vợ, đó là nhữngngời tham lam sẽ chẳng bao giờ có đợc những gì tốt đẹp. Từ đó trở đi tôi không còn thấy lão đánh cá ra tìm nữa, có lẽ sau bài học này bà vợ sẽ trở nênhiền lành, tốt bụng hơn xa.*Đề bài: Tởng tợng và kể lại cuộc gặp gỡ với một nhân vật ngụ ngôn mà em đã học.*Bài viếtTôi là Cún con, hàng ngày tôi rong ruổi dạo chơi loanh quanh trong nhà và ít khi đợc đi đâuxa, do đó tôi ít biết đợc những việc ngoài xã hội ngoại trừ những chuyện xảy ra quanh mình.Một hôm tôi tha thẩn chơi ngoài bờ ao xem mấy chú cá rô phi tung tăng bơi lội dới nớc, bỗngtôi thấy tiếng ộp, ộp rất to và thoắt một cái, một anh ếch xanh đã ngồi chồm hỗm trớc mặt tôi. Đôimắt mắt anh mở to nhìn tôi một hồi, rồi đằng hắng giọng, anh hỏi tôi:- Này nhà anh kia. Anh là ai mà dám ngồi trên đất của nhà ta.Tôi nhận ra đó chính là anh ếch đã trú ngụ khá lâu ở trong ao nhà chủ tôi. Thấy anh ta lớntiếng, tôi nói:- Sao anh lớn tiếng nh vậy? Đây là nhà anh hả?- Phải rồi, trên thế gian này có chỗ nào không phải là đất của nhà ta. Bởi ta là chúa tể củamuôn loài mà. Ngơi có thấy mỗi khi ta lên tiếng là át hết tất cả muôn loài. Bởi vậy ai nghe thấytiếng của ta cũng phải khiếp sợ. Đồ nhãi nhép nh ngơi kia ta chỉ cần hô lên một tiếng là sợ ngay.- Anh nghĩ rằng kể cả chúa tể rừng xanh cũng phải khiếp sợ anh ?- Đúng vậy, ta là nhất nhất, chẳng loài nào vợt qua đợc ta cả.Nghe anh ta hênh hoang tôi phì cời: - Anh dám khinh thờng cả chúa sơn lâm kia à.- Với ta hắn chẳng là cái gì hết.- Vậy anh có dám đấu với hắn không?- Ta chẳng sợ, nếu ta mà gặp hắn, ta sẽ cho hắn một trận.Vừa lúc đó bác Trâu đang nhai rơm ở góc vờn bỗng lên tiếng:- Thế ngơi có dám đấu với ta không?Nhìn mặt bác Trâu đỏ nhừ, đôi mắt trợn lên, có lẽ bác bực mình vì sự huênh hoang của anhếch quá nên mới lên tiếng, chứ thờng ngày bác rất hiền lành. ếch ta nghe thấy tiếng bác ồm ồm, vàtrông dáng điệu lại có ì ạch, nên có vẻ chẳng sợ sệt gì cả. Anh ta nhìn bác một hồi từ đầu đếnchân, giọng đầy khinh miệt:- Hừ, cái thứ nh ngơi mà cũng dám trêu ngơi với ta hả. Bác Trâu lúc này đã bực mình thực sự, bác đi nhanh về phía chú ếch, lấy mõm hất tung chúếch xanh lên, làm chú ta lộn mấy vòng trên không trung. Tôi hoảng qua vội nhắm tịt mắt lại. Vàtôi nghe rất rõ tiếng chú ếch xanh kêu cứu thất thanh.Nhng may quá khi rơi xuống thì anh ếch rơi đúng đám lá sen nên vẫn giữ đợc mạng sống. Anhta vùng dậy rối rít xin bác Trâu tha mạng. Bác Trâu không thèm nói câu nào, lừ lừ bớc đi.Chờ cho bác Trâu đi xa rồi tôi mới thấy anh ếch lồm cồm nhảy về ổ. Tôi hỏi với theo:- Anh có bị làm sao không? 23- Tôi không sao. Nghe giọng anh ta không còn thấy tự cao nh khi trớc nữa.Nói xong anh ếch lặn một mạch, có lẽ anh ta vẫn cha hết run. Âu đó là một bài học nhớ đờicho anh ta. Có lẽ từ sau anh ta sẽ không còn thói huênh hoang, phét lác nữa.*Đề bài: Trong vai Mã Lơng trong truyện Cây bút thần, hãy kể lại một việc làm có ích của mình.*Bài viếtTôi bắt đầu một cuộc sống phiêu du nay đây mai đó kể từ khi rời bỏ xóm làng, rời bỏ nhữngkẻ tham lam, tàn ác. Ngày ngày tôi cùng chú ngựa thân yêu rong ruổi đến những vùng núi xa, bởitôi biết rằng ở đó cuộc sống của họ còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn.Một hôm, trời đã bắt đầu về chiều, tôi quyết định dừng chân nghỉ ở một ngôi làng nhỏ nằm sátven rừng. Khung cảnh làng mạc xung quanh có vẻ tiêu điều, xơ xác. Cây cối chẳng mấy xanh tốt,đồng ruộng khô cằn, có những mảnh ruộng đã chết cháy chỉ còn lơ thơ vài ngọn cỏ. Trên đờng đitôi gặp một cụ già nét mặt đăm chiêu lo lắng, đến gần cụ, tôi chào:- Cháu chào cụ ạ. Cụ ơi ở đây có ngôi nhà nào có thể ở trọ qua đêm đợc không ạ?Cụ già nhìn tôi, đáp:- Trớc đây thì cũng có đấy nhng mấy năm nay hạn hán kéo dài, cuộc sống đói khổ nhiều ngờichẳng còn làm ăn đợc nữa, và nhiều ngời đã bỏ làng đi tìm nơi khác.Nói xong cụ già giơ tay chỉ ra mấy cánh đồng trớc mặt, nói tiếp:- Đấy cả nhà tôi trông vào ruộng lúa này mà nay chỉ còn trơ vài ngọn cỏ, chẳng biết từ naynhà tôi lấy gì mà ăn nữa. Nói đoạn ông hỏi tôi:- Thế cậu từ đâu đến mà lại lạc vào xứ này, có lẽ đã lâu lắm rồi chẳng còn ai dám đến làng tachơi nữa. Thôi cậu hãy vào nhà ta nghỉ tạm một đêm, mai hãy đi tiếp.Tôi theo lão nông về nhà, ngôi nhà nhỏ của lão nằm nép bên chân núi, nhìn từ xa chẳng khácgì mộ túp lều. Nhìn gia cảnh nghèo nàn của lão tôi vô cùng ái ngại, tôi nói với lão:- Cháu có thể giúp làng ông có nớc để tới cho cây khỏi chết khô.Nghe tôi nói vậy, ông lão nhìn tôi tỏ vẻ nghi ngờ, nhng sau khi thấy tôi quả quyết lão vô cùngsung sớng. Lão lật đật chạy vào làng thông báo cho tất cả mọi ngời. Chỉ một loáng sau tất cả giàtrẻ gái trai đã đến tụ tập đầy trớc nhà ông lão. Nhìn họ ai cũng đói rách, khốn khổ.Tôi liền đa bút vẽ mấy nét một con sông đã hiện ra trớc mắt nớc trong veo và muốn cho dânlàng có cái ăn tôi lại chấm mấy cái thế là hàng đàn cá tung tăng bơi lội.Bà con vô cùng mừng rỡ, họ gọi nhau đi bắt cá và ai nấy còn thức gì có thể ăn đợc đều đemđến nấu chung để cả làng liên hoan một bữa no say.Đêm đó tôi tâm sự với ông lão về cuộc sống trớc đây của tôi, ông lão tỏ ra vô cùng thơng xót vàcảm thông, lão nói:- Nhà ta cũng chẳng giàu có gì nhng cháu hãy ở đây làm con nuôi của ta, hai cha con ta chịukhó làm lụng cũng có thể đủ sống. Dù rất quý ông lão nhng tôi vẫn không thể ở lại, vì tôi hiểu rằng còn có rất nhiều hoàn cảnhkhó khăn, họ sẽ cần đến cây bút thần của tôi.Sáng hôm sau, từ biệt ông lão tôi lại rong ruổi trên đờng, mong cứu giúp đợc nhiều hơn nhữngcon ngời nghèo khổ. 24*Đề bài: Tởng tợng và kể lại cuộc gặp gỡ với một nhân vật trong truyền thuyết mà em đã học.*Bài viếtNăm nay tôi học lớp 6 và môn học tôi thích nhất là môn văn vì ở đó tôi đợc đọc nhiều câuchuyện cổ tích, truyền thuyết, truyện cời vô cùng thú vị. Nhắc đến truyện truyền thuyết tôi lại nhớra một lần nh thế nàyLần ấy, tôi mải mê đọc những truyện truyền thuyết và đến lúc mệt quá rồi tôi vẫn không chịuđi ngủ. Và đến khi vừa đọc đến những dòng chữ cuối cùng của truyện Thánh Gióng thì tôi bỗngthấy mình lạc đến một nơi rất xa lạ, xung quanh mây phủ trắng, một mùi thơm nh của các loàihoa toả ra ngào ngạt. Khung cảnh rất giống thiên đình nơi có các vị thần tiên mà tôi thờng thấytrong các câu chuyện cổ. Tôi đang ngơ ngác, bỗng trớc mắt một tráng sĩ vóc dáng to cao lừng lữngtiến về phía tôi. Tôi vô cùng ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy một ngời to lớn đếnnh vậy. Tôi vẫn cha hết ngỡ ngàng thì ngời đó đã đứng ngay trớc mặt tôi và nở một nụ cời thânthiện:- Chào cháu bé. Cháu từ đâu đến vậy?Tôi càng ngạc nhiên hơn khi ngời đứng trớc mặt tôi lúc này chính là ông Gióng, vị anh hùngđã đánh tan lũ giặc Ân tàn bạo. Tôi sung sớng hỏi:- Ông có phải là ông Gióng không ạ.Tráng sĩ nhìn tôi, mỉm cời đáp:- Ta đúng là Thánh Gióng đây! Sao cháu biết ta?- Chúng cháu đang học về truyền thuyết Thánh Gióng đấy ông ạ. May quá hôm nay cháu đợcgặp ông ở đây, cháu có thể hỏi ông vài điều mà cháu đang thắc mắc đợc không ạ?Ông Gióng nhìn tôi mỉm cời:- Đợc cháu bé cứ hỏi đi.- Ông ơi vì sao khi đánh thắng giặc Ân xong ông không trở về quê nhà mà lại bay lên trời?Hay ông chê quê cháu nghèo không bằng xứ thần tiên này?- Không! Ta muốn đợc ở cùng họ, nhng vì ta là con trởng của Ngọc Hoàng nên phải trở vềthiên đình sau khi đã hoàn thành sứ mệnh.- Thế ông nhớ cha mẹ ông ở dới kia không?- Có chứ, họ đã từng mang nặng đẻ đau ra ta, ta rất biết ơn họ, nhất là những ngày tháng takhông biết đi, biết nói, họ vẫn yêu thơng mà không hề ghét bỏ ta. Ta rất muốn có ngày nào đó trởvề đền ơn đáp nghĩa mẹ cha ta. Cũng chính vì lẽ đó mà ta đã cố gắng đánh tan quân xâm lợc đểcha mẹ ta đợc sống trong tự do thanh bình.- ồ, giờ thì cháu hiểu rồi, ông đã báo đáp công nuôi dỡng của cha mẹ mình bằng chính sự cốgắng chiến thắng quân xâm lợc.- ừ, đó là một trong những cách thể hiện lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ đấy cháu ạ.- Cháu hiểu rồi, có nghĩa là khi cháu còn nhỏ thì phải học tập thật tốt để cho cha mẹ vui lòng,đó cũng chính là tỏ lòng biết ơn cha mẹ phải không ông?- Đúng rồi, cháu ngoan và thông minh lắm. Ông chúc cháu học thật giỏi nhé! Thôi hẹn cháulần khác nhé, ta phải vào cung gặp Ngọc Hoàng đây.Vừa nói, bóng ông Gióng đã khuất dần sau đám mây trắng. Vừa lúc đó tôi nghe có tiếng mẹgọi:- Lan! Dậy vào giờng ngủ đi con.Tôi bừng tỉnh, hoá ra là một giấc mơ nhng quả thật giấc mơ này đã cho tôi biết đợc nhiều điềubổ ích. Và đó có thể là một giấc mơ mà tôi nhớ nhất. 25

Page 9

Tập Làm Văn Bài 1: Kể về tổ emBài làm Lớp em là lớp 3B . Tổ em là tổ 3, gồm 10 bạn , Đó là : bạn Kiên; bạn Quỳnh ; bạn Bình ; bạn Loan ;bạn Cờng ; bạn Mai hơng ; bạn Thành ; bạn Dung ; bạn Thùy Linh bạn Hải Linh . Các bạn chủ yếu là ngời Kinh . Mỗi bạn có đặc điểm riêng . Bạn Kiên thích học môn Toán . Ban Quỳnh , Bạn Dung thích chơi nhảy dây, múa dẻo . Bạn C-ờng thích chơi đá bóng . Bạn Loan , bạn Hơng múa dẻo , hát hay. Các bạn rất đoàn kết với nhau . Tháng vừa qua ,tổ chúng em đã hoàn thành tốt những nhiệm vụ đợc giao nh là:Quét dọn vệ sinh trờng lớp , tới cây , hoa . Đi học đúng giờ , làm bài và học bài đầy đủ . Vì vậy tổ em đã dẫn đầu lớp về thành tích học tập và lao động . Bài 2 :Kể cho bạn biết về thành thị và nông thôn Bài làm Thanh Hóa , ngày 19 tháng 12 năm 2010 . Linh thân mến Lâu rồi,tớ cha đợc gặp cậu . Hôm nay , đợc nghỉ học tớ liền viết th về thăm cậu . Lời đầu th tớ chúc cậu mạnh khỏe . Qua đây tớ sẽ kể cho cậu biết nhiều điều về nông thôn.ở nông thôn nhà ở tha thoáng.Nhà nào cũng có sân,có vờn cây xanh tốt,có ao nuôi cá,có chuồng gà ,vịt.Đờng quê ít xe đi lại nên không khí trong làng xóm luôn êm đềm.Chiều đến trẻ em ra đồng thả diều. trong ngọn gió chiều mát rợi mọi ngời ngắm đồng lúa xanh,ngắm cánh cò bay . Mình thích nhất ở nông thôn mọi ngời đều rất chân thật và quý mến khách.Thôi th đã dài mình xin dừng bút tại đây.một lần nữa tớ chúc cậu và gia đình mạnh khỏe. Bạn của Hà Kiên Đỗ Trung Kiên

Video liên quan

Chủ Đề