Bài học nào Việt Nam hiện nay có thể học tập từ sự phát triển của quốc gia Phù Nam

Những bài học lịch sử sau 20 năm đổi mới đất nước

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, trong phần nhìn lại 20 năm đổi mới đã nêu lên một số bài học lớn. Chúng tôi xin giới thiệu đoạn trích.

Cùng với việc kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, chúng ta nhìn lại 20 năm đổi mới.

Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.

Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.

Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.

Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong khi khẳng định những thành tựu nói trên, cần thấy rõ, cho đến nay nước ta vẫn trong tình trạng kém phát triển. Kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị, còn nhiều yếu kém. Lý luận chưa giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế...

Từ thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý. Có thể rút ra một số bài học lớn sau đây:

Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.

Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.

Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khóa của thành công.

Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội; Nhà nước phải thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân, quyền con người. Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.

Qua tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [năm 1991], đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.

Theo Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, tập 65, tr. 178-180.

Bài viết được Trích từ Tham luận "Con đường tự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bài học sâu sắc cho thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay" của em Đặng Vũ Ngọc Mai - Lớp 10 Sử - Trường THPT Chuyên Hà Nội - Amsterdam với sự định hướng, đóng góp ý kiến của TS. Bùi Quang Tuyến, Giám đốc Học viện Viettel, được trình bày tạiHội thảo khoa học: “Con đường tự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh – bài học và liên hệ bản thân” do Hội khuyến học Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 30-6-2021.

TS. Bùi Quang Tuyến, Giám đốc Học viện Viettel và Em Đặng Vũ Ngọc Mai - Lớp 10 Sử - Trường THPT Chuyên Hà Nội – Amsterdam tại Hội thảo khoa học: “Con đường tự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh – bài học và liên hệ bản thân”.

Em Đặng Vũ Ngọc Mai - Lớp 10 Sử - Trường THPT Chuyên Hà Nội – Amsterdam tạiHội thảo khoa học: “Con đường tự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh – bài học và liên hệ bản thân”.

Một là,phải luôn có tư tưởng, ý thức “hướng học” và “hiếu học”, “Ăn vóc học hay”, “đi một ngày đàng học một sàng khôn”, phải luôn thường trực sự học hỏi, học tập ở mọi nơi mọi lúc, phải kết hợp cả “learn” [học thường xuyên và linh hoạt] và “study” [học tập, nghiên cứu bài bản]. Cổ nhân đã dạy, “nét chữ là nét người”, trí tuệ, trình độ và kiến thức của mỗi người sẽ quyết định vị thế, vai trò của cá nhân trong tổ chức, ngoài cộng đồng mà không thể một sớm một chiều tích lũy được nếu không thông qua tư tưởng hướng học tập hằng ngày. Tấm gương tự học của Người không chỉ ở tinh thần, thái độ cầu tiến trong học tập mà còn thể hiện ở tư duy học tập nghiêm túc, có nền tảng, có tính khoa học; có mục tiêu, kế hoạch cụ thể,có phương thức hành động rõ ràng, có sự kiên trì, bền bỉ, có nỗ lực sáng tạo đổi mới, được nâng tầm thành một triết lý nhân sinh và nghệ thuật rèn luyện. Với những phân tích khoa học về con đường tự học và tinh thần học tập của Bác, điều cần thiết là bài học rút ra cho mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay:

Hai là,phải luôn giữ tinh thần, ý chí và nghị lực học tập, học hỏi không ngừng chứ không phải học theo kiểu “được chăng hay chớ”. Tinh thần học tập cũng là một loại phẩm chất cá nhân được rèn luyện, thậm chí được coi là một trong những năng lực cá nhân quan trọng trong một số khung năng lực được xây dựng cho cán bộ nhân viên của nhiều tổ chức, công ty hiện nay. Nghị lực học tập phải được thể hiện qua sự quyết tâm, bền bỉ từng ngày chứ không thể học dồn một lúc, học cho xong, “học tới đâu hay tới đó” hoặc chỉ cần tặc lưỡi lười biếng một thời gian là tinh thần và ý chí học tập sẽ đi xuống, khó kéo lại được rồi dần trở nên an phận, tụt hậu. Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật làm cho cái mới cũng trở nên cũ rất nhanh, chỉ cần buông xuôi không cập nhật là trở nên lạc hậu ngay lập tức với thời cuộc, xu thế, công nghệ.

Bên cạnh đó, luồng thông tin và kho tri thức nhân loại đã trở nên khổng lồ nhưng lại rất dễ tiếp cận, là tài nguyên mà ai cũng có thể khai thác nhưng muốn làm chủ, “master” được chúng thì không thể thông qua mua bán, vay mượn mà chỉ có con đường duy nhất là học tập, tự học hỏi để “nạp”, để tích lũy cho bản thân và ứng dụng vào công việc, cuộc sống một cách có ý nghĩa nhất.

TS. Bùi Quang Tuyến, Giám đốc Học viện Viettel phát biểu tạiHộithảo khoa học: “Con đường tự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh – bài học và liên hệ bản thân”.

Ba là, cần tự học một cách chủ động, sáng tạo chứ không mang tính đối phó hay chạy theo thành tích. Việc trau dồi kiến thức không chỉ loanh quanh ở điểm số, giấy khen, bằng cấp mà nằm ở giá trị con người và sự đóng góp những điều có ích cho xã hội. Nhất là với trí tuệ của người trẻ, cần phải có sự thông minh trong quá trình tự học ở mọi lúc mọi nơi. Học để biết, rồi kế thừa cái biết sau khi học để tiếp tục đổi mới, sáng tạo, phát triển thêm thành tri thức mới. Như thế thì mới thể hiện đúng vai trò của thế hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đúng như phương châm của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh “Đâu Đảng cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”.

Bốn là, việc tự học cũng cần có tư duy, có lựa chọn. Bởi tri thức là vô tận nhưng thời gian, khả năng tiếp nhận của mỗi người là hữu hạn. Giới trẻ là những người rất ham hiểu biết, có khả năng cập nhật liên tục và hấp thu nhanh nên càng cần tư duy chín chắn và sự lựa chọn sáng suốt trong việc học cái gì, ở đâu, với ai. Kiến thức cần học là của chung, tựa như nguồn tài nguyên mở còn tự khám phá, tiếp thu chúng ra sao là sự lựa chọn của riêng mỗi người. Nếu lựa chọn không cẩn thận, cái gì cũng thấy hay, điều gì cũng thấy thích và lao vào tìm hiểu thì có thể sẽ dẫn đến việc tốn thời gian, công sức, thậm chí là tiền bạc và chi phí cơ hội cho những điều không thực sự có ích.

Đành rằng kiến thức ở lĩnh vực nào cũng có giá trị nhưng cần có sự sắp đặt thứ tự ưu tiên với những thứ phù hợp, quan trọng, cần thiết với mỗi người. Chưa kể đến việc nếu không tư duy sáng suốt, lựa chọn cẩn trọng thì giới trẻ còn rất dễ bị hấp dẫn, dẫn dụ mà tiếp thu cái không tốt, cái có hại, cái vô nghĩa, thậm chí là những thứ đi ngược lại với thuần phong mỹ tục và chuẩn mực đạo đức xã hội.

Năm là,ngoài tự học các kiến thức chuyên môn thì cần trang bị cho bản thân các kiến thức nền tảng về chính trị, văn hóa, xã hội. Đặc biệt, lớp trẻ cần có những hiểu biết vững chắc về lịch sử, truyền thống, phong tục, tập quán và văn hóa Việt Nam, cần thông thạo ngôn ngữ mẹ đẻ trước khi giỏi ngoại ngữ khác. Bác đã dạy: “Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Ngoài ra, cần phải năng nghe - học - đọc - đi để nâng cao hiểu biết của cuộc sống muôn màu. Cần trang bị vững chắc các kỹ năng sống, kỹ năng sinh tồn, ví dụ như: kỹ năng bơi lội, leo núi; kiến thức phòng cháy chữa cháy; kỹ thuật sơ cứu, cứu thương cơ bản; cách sửa chữa điện, nước sinh hoạt; hiểu biết về an toàn vệ sinh thực phẩm; kiến thức về hàng hóa, giá cả thị trường; khả năng tự chăm sóc bản thân và gia đình... Giới trẻ cũng cần tiên phong trong các phong trào ngoại khóa, các công việc xã hội - thiện nguyện để mang những hiểu biết cá nhân có được nhờ quá trình học tập, tự học vào các hoạt động ích nước lợi nhà và đóng góp cho cộng đồng, đất nước.

Sáu là, học cần đi đôi với hành. Thực tiễn luôn là thước đo đúng đắn nhất cho mọi bài học. Cần đưa nhiều hơn các giờ thực hành vào trong bài giảng ở trường lớp. Cần kết hợp giữa nhà trường và tổ chức, công ty để đưa ra các mô hình học tập và trải nghiệm cho học sinh, sinh viên. Với mỗi người, tùy ở điều kiện và khả năng, cần siêng năng luyện tập, thực tập trong quá trình tự học. Kỹ năng làm việc và sự cọ sát thực tế chính là tạo nên năng lực và ưu thế cá nhân, bởi khi ra đời, “hay chữ” phải đi đôi với “hay làm” chứ không chỉ là mang lý thuyết, sách vở vào áp dụng một cách cơ học, máy móc.

Bảy là,việc học tập và tự học là một quá trình, là “học tập suốt đời” theo tấm gương của Bác. Do đó, các bạn trẻ không nên “giục tốc bất đạt”, không nên quá áp lực, tự làm khó cho bản thân. Cần hiểu rằng, giá trị con người nằm nhiều ở nhân cách, cách đối nhân xử thế, việc hành thiện giúp đời... chứ không chỉ nằm ở kết quả học tập, thứ bậc, vị trí ở cơ quan đoàn thể, danh vọng ngoài xã hội… Mỗi người có sự phấn đấu, học tập, tự hoàn thiện theo cách riêng của mình và không nên quá chạy đua về học vấn, vị thế. Thậm chí, cần rèn luyện và học cả tính kiên trì, bền bỉ, nhẫn nại; cần trang bị tốt cho mình sức khỏe thể chất và tinh thần để tăng khả năng vượt khó, vượt qua căng thẳng, áp lực của cuộc sống hiện đại.

Tám là, không để mặt trái của mạng internet, công nghệ lôi kéo, phân tán, ảnh hưởng đến thời gian, năng suất, kết quả học tập, lao động. Thống kê cho thấy tỷ lệ người Việt Nam sử dụng internet, mạng xã hội hiện nay là rất cao, kéo theo việc lạm dụng thời gian học tập, thời gian làm việc vào tán gẫu, chơi game, lướt web, gây xao lãng nhiệm vụ chính và lãng phí tài nguyên chung.

Đây thực sự là một vấn đề rất đáng lưu tâm của toàn xã hội, trong đó có giới trẻ. Do đó, một thế hệ trẻ thông minh, bản lĩnh cần biết khai thác mặt ưu của công nghệ, của hệ thống thông tin đại chúng, mạng xã hội để phục vụ cho học tập, đặc biệt là việc tự học, cũng như phục vụ cho công việc và cuộc sống của mình; đồng thời biết kiểm soát, giới hạn bản thân để không bị lôi kéo, sa đà và bị ảnh hưởng tiêu cực của những kênh thông tin, trò chơi, trào lưu không tốt trên mạng. Ngoài ra, giới trẻ cũng cần học hỏi, hoàn thiện bản thân về ngôn ngữ, phong cách giao tiếp, kỹ năng ứng xử với xung quanh, tránh việc quá lạm dụng giao tiếp trên mạng, giao tiếp trong môi trường ảo, sử dụng từ tắt, tiếng lóng trong “chat chit” mà bỏ qua hệ thống từ ngữ chuẩn mực, bỏ qua việc giao lưu xã hội thực tế, tương tác với người thật việc thật.

Chín là, học tập, tự học hỏi, tự rèn luyện với mục đích cuối cùng là để thành công, để phục vụ cho bản thân, gia đình và cao hơn cả là quê hương đất nước. Khi được hỏi về phẩm chất nào được coi là cần thiết hàng đầu đối với thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay, nhiều người thành đạt đi trước đã nhắc đến bốn từ, đó là “tình yêu Tổ quốc”. Tình yêu đó phải được cụ thể hóa thành hành động. Kết quả của quá trình tự học, học hỏi phải được biến thành sự đóng góp thiết thực, ích nước lợi dân chứ không chỉ nằm trong thành tích học tập. Đặc biệt là đối với những bạn trẻ sớm đi du học và tiếp thu nhiều tinh hoa văn hóa phương Tây, càng cần có ý thức hướng về quê hương để mangnhững kiến thức, hiểu biết của mình đóng góp vào kho tri thức của Việt Nam và ứng dụng vào thực tế lao động sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Mười là, cần có phương pháp, công cụ học tập đúng đắn. Phương pháp tự học cũng là cần thiết để học đúng người, đúng cách, đúng nội dung, đúng thời điểm… Đã qua thời học tập là một thầy giảng và nhiều người nghe trong một lớp học tập trung, mà kiến thức đang được tiếp thu liên tục thông qua quá trình tự học hỏi, tự tìm tòi, tự tiếp nhận. Học tập ngày nay đang tiếp cận theo mô hình gắn nhiều hơn “lý thuyết” với “thực hành”, “thực hành” với “trải nghiệm”, trong đó trải nghiệm là một xu hướng mới và hiệu quả. Các năng lực cốt lõi cần thiết để đào tạo, bồi dưỡng nhân sự nên dành nhiều hàm lượng cho các kỹ năng mềm, các kỹ năng xã hội và trí tuệ cảm xúc.

Quá trình chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay đã giúp người học có thêm nhiều công cụ học tập như học điện tử[e-learning], học trên di động[mobile learning], học cộng tác/xã hội[social learning], học siêu ngắn[microlearning]…mà người học có thể tiếp cận nội dung học rất nhanh chóng, mọi lúc mọi nơi và trên nhiều phương tiện, công cụ khác nhau [máy tính, máy tính bảng, điện thoại...]. Thay vì trước đây khuyến khích học dài trong một thời gian ngắn, thì cách học mới đang khuyến khích học ngắn trong một thời gian dài và có tính duy trì liên tục[learning continuity].

Ngày nay, các cá nhân, tổ chức có điều kiện và cơ hội tự học lớn hơn nhiều so với sinh thời của Bác, với sự trợ giúp của công nghệ và khả năng tiếp cận kho tri thức trên mạng internet, thư viện ảo. Giới trẻ đang có điều kiện đầy đủ hơn về vật chất, tinh thần, nếu không nâng cao tinh thần học tập, tự học, tự rèn luyện thì không thể tài giỏi và trở thành những người có ích cho cộng đồng, cho đất nước.

ĐẶNG VŨ NGỌC MAI, Lớp 10 Sử - Trường THPT Chuyên Hà Nội - Amsterdam

Video liên quan

Chủ Đề