Bài cắt tê trong tiếng anh là gì năm 2024
Phỏm (tên khác: ù, tá lả) là cách chơi bài của Việt Nam, dùng bộ bài tú lơ khơ, với số lượng người chơi từ 2-4 người. Show
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]Phỏm xuất hiện vào cuối thế kỷ XX được cho là bắt nguồn tại vùng đất Luơng Tài, Bắc Ninh do các cụ tổ họ Vũ nghiên cứu và phát triển. Tục truyền rằng các cụ ở làng trong lúc chờ đánh tổ tôm đã sáng tạo ra bộ môn phỏm. Trong lúc các cụ bàn về luật chơi thì có người hầu quê Đa Tốn học lỏm được, đem về truyền bá rộng rãi cho xứ Kinh Bắc. Giờ đây truyền nhân chính thống đời thứ 22 đang duy trì và phát triển bộ môn này là ông Vũ Xuân Toàn, tuy nhiên ông không muốn các con của mình nối nghiệp bộ môn này nên cho con theo họ Ngô. Tên gọi[sửa | sửa mã nguồn]Miền Bắc phổ biến tên gọi phỏm. Cách gọi "tá lả" dùng để chỉ 2 trò chơi khác nhau ở miền Bắc Việt Nam và miền Nam Việt Nam. Quy định (dành cho kiểu chơi miền Bắc)[sửa | sửa mã nguồn]Các lá bài[sửa | sửa mã nguồn]Sử dụng bộ bài gồm 52 lá. Giá trị từ cao đến thấp như sau: K> Q> J> 10> 9> 8> 7> 6> 5> 4> 3> 2 > A. Lá K là lớn nhất tương đương số điểm cao nhất (13 điểm) và A là bé nhất tương đương với số điểm thấp nhất (1 điểm). Các lá bài có cùng giá trị hoặc có các giá trị đứng liên tiếp nhau tạo thành một nhóm (ít nhất 3 lá) trong trò chơi này, được gọi là phỏm. Chia bài[sửa | sửa mã nguồn]Có một người nhận 10 quân, những người còn lại nhận 9 quân bài. Còn các lá còn lại để thành một chồng. Bình thường, bài được chia ngược chiều kim đồng hồ. Người chia nhận quân bài cuối (quân bài thứ 10) trong mỗi lượt chia bài. Xếp bài[sửa | sửa mã nguồn]Các kết hợp đơn giản[sửa | sửa mã nguồn]
Nếu hai lá bài rác đã có tiêu chuẩn của một phỏm thì được xếp thành "cạ".
Ai không có bộ ba lá hoặc sảnh nào trong trò này khi hạ bài (nếu vẫn có cạ) thì người đó bị "móm". Luật chung[sửa | sửa mã nguồn]Trước khi chơi phải tráo thật kỹ. Người tráo có 10 quân và những người còn lại nhận 9 quân bài. Phần còn lại của bộ bài đặt vào giữa bàn (còn gọi là "nọc"). Người đi đầu (người có 10 quân) đánh 1 lá bài rác trên tay của mình. Người kế tiếp có thể ăn lá bài đó nếu nó có thể hợp với bài trên tay thành một phỏm. Hoặc nếu người kế tiếp không thể ăn hoặc không có nhu cầu ăn lá bài rác người tay trên đánh xuống, người đó phải bốc 1 lá bài từ "nọc". Sau đó, người đó lại đánh 1 lá bài rác trên tay của mình. Người thứ ba lại có thể ăn hoặc bốc 1 lá bài ở giữa bàn nếu không ăn rồi đánh lá bài rác cho người thứ tư, và cứ như vậy cho đến khi ván bài kết thúc. Ván bài kết thúc khi có một người ù (Số lá bài trên tay người chơi có thể sắp xếp thành 3 phỏm chỉ dư 1 lá hoặc tương đương với sau khi hạ hết phỏm người đó còn 0 điểm). Nếu không có ai ù, ván bài sẽ kết thúc sau 4 vòng đánh. Trước khi đánh lá bài rác trong vòng 4, người chơi cần trình tất cả những phỏm mình có cho mọi người biết (còn gọi là "hạ"). Tính điểm[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi ván bài kết thúc, mỗi người sẽ tính điểm của mình bằng cách cộng điểm của tất cả các quân bài với quân J=11, Q=12, K=13 và A=1. Các quân bài còn lại có số điểm tương ứng với số của quân bài. Đối với ván bài 4 người, người ít điểm nhất sẽ về nhất, tiếp đó là người có điểm thấp nhì, thấp ba và cao nhất. Trường hợp có nhiều người có điểm bằng nhau, người hạ bài trước sẽ được ưu tiên về bài trước người hạ sau. Người bị móm (hay cháy) thì xem như về vị trí cuối (vị trí thứ tư hay "bét"). Nếu trong ván bài có một người ù, thì người đó ngay lập tức về nhất và 3 người còn lại bị thua như nhau (không phân hạng). Đối với ván 3 hoặc 2 người, cách xếp thứ hạng được thực hiện tương tự. Một số thuật ngữ[sửa | sửa mã nguồn]
Luật bên lề[sửa | sửa mã nguồn]
Một vài cách tính bài[sửa | sửa mã nguồn]Dưới đây là một vài cách tính nước bài từ đơn giản nhất:
Đây chỉ là những cách chơi tính bài phổ biến và đơn giản nhất. Các cách tính trừu tượng hơn cũng đều theo một logic. |