Vì sao sản xuất vật chất là nền tảng phát triển xã hội

Tại sao sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội

Trong cuộc sống, hầu hết chúng ta đều ít nhiều tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt độngsản xuất vật chấtcủa xã hội. Có thể nói, hoạt độngsản xuất vật chấtchính là cơ sở quan trọng nhất của sự tồn tại vàphát triểncủaxã hộiloài người.

1. Định nghĩa

– Theo nghĩa chung nhất thì:

“Sản xuất vật chấtlà quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và pháttriển – nhu cầu phong phú và vô tận của con người”. VD: Máy may có thể may trang phục.

– Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và của xã hội loài người. Đó là quá trình hoạt động có mục đích và không ngừng sáng tạo của con người.

- Sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người, nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.

VD: Muốn thực hiện các hoạt động kinh tế, chính trị, pháp luật,... đều phải ăn, ở, mặc và tư liệu tiêu dùng. Muốn có được những điều đó, con người phải sản xuất vật chất như nông - lâm - ngư - công nghiệp, xây dựng,...

Ở thế giới loài vật không có hoạt động sản xuất. Có thể nói, điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với thế giới động vật là ở chỗ: Con người lao động sản xuất, còn loài vật thì không.

2. Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội

– Hoạt động sản xuất xã hội bao gồm:

+ Sản xuất vật chất: Ví dụ như sản xuất xe máy, tủ lạnh, lúa gạo, thịt, cá, xà phòng…

+ Sản xuất tinh thần: Ví dụ như sáng tác bài hát, tiểu thuyết, phim…

+ Sản xuất ra bản thân con người: Đó là hoạt động duy trì nòi giống của con người.

Trong các loại hoạt động sản xuất nêu trên,sản xuất vật chấtgiữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và pháttriển của xã hội, và xét đến cùng quyết định toàn bộ sự vận động của đời sống xã hội.

– Khi sản xuất vật chất tức là con người đã lao động.

Chính lao động đã đem lại những thay đổi to lớn và mang tính quyết định cho con người như:

+ Cơ thể con người không ngừng hoàn thiện và pháttriển, có dáng đi thẳng, không còn gù lưng như loài vượn. Có sự phân hóa chức năng giữa chân, tay và bộ óc. Các giác quan của con người cũng pháttriển.

+ Trong quá trình lao động sản xuất, con người xuất hiện nhu cầu“nói chuyện”với nhau. Nếu không giao tiếp được với nhau, con người không thể lao động sản xuất.

Do đó, tiếng nói, chữ viết [tức là ngôn ngữ] xuất hiện, trở thành phương tiện để giao tiếp, trao đổi, truyền bátrithức, kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác.

+ Nhờ lao động sản xuất, buôn bán, tiêu thụ hàng hóa, giữa con người xuất hiện những mối quan hệ xã hội trong mọi lĩnh vực như chính trị, tôn giáo, đoàn thể, nghệ thuật…

– Sản xuất là yêu cầu khách quan của sự sinh tồn xã hội.

Trong bất kỳ xã hội nào, con người đều có những nhu cầu tiêu dùng từ cấp độ tối thiểu đến cấp độ thưởng thức như ăn, mặc, nghe nhạc, xem phim, đi lại, đi du lịch…

Muốn thỏa mãn những nhu cầu trên thì con người phản sản xuất. Bởi vì sản xuất là điều kiện của tiêu dùng. Sản xuất càng pháttriển thì hàng hóa càng nhiều, tiêu dùng càng phong phú và ngược lại. Bất cứ xã hội nào cũng không thể tồn tại, pháttriển nếu không tiến hànhsản xuất vật chất.

– Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội.

Suốt chiều dài lịch sử của xã hội loài người, nền sản xuất của cải xã hội không ngừng pháttriển từ thấp đến cao.

Từ chỗ chỉ dùng công cụ lao động bằng đá [thời kỳ đồ đá ở xã hội nguyên thủy], con người dần dần chế tạo được công cụ bằng đồng [vào thời kỳ đồ đồng ở xã hội cổ đại], sắt [vào thời kỳ đồ sắt từ thời cổ đại đếntrungđại].

Sau đó, nhờ cuộc cách mạng công nghiệp để phục vụ sản xuất, con người đã biết dùng máy móc động cơ hơi nước, các hệ thống cơ khí hóa, hiện đại hóa [vào thời cận đại và hiện đại].

Ngày nay, công cụ sản xuất của con người đã rất hiện đại, vượt quá sự tưởng tượng của loài người cách đây không lâu.

Mỗi khi nền sản xuất pháttriển đến một giai đoạn mới thìcách thức sản xuấtcủa con người thay đổi, năng suất lao động tăng cao, quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất thay đổi…, kéo theo sự thay đổi trong mọi mặt của đời sống xã hội.

Như vậy, chính là nhờ sự sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và pháttriển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xã hội với tất cả sự phong phú và phức tạp của nó.

Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao. Như vậy, sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội,suy đến cùng có nguyên nhân từ tình trạng phát triển của nên sản xuất của xã hội. Do đó, để giải thích và giải quyết đủng đắn các vấn đề của đời sống xã hội thì cần phải tìm nguyên nhân cuối cùng của nó từ tình trạng phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội đó, mà căn bản là từ trình độ phát triển phương thức sản xuất của nó. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ở trình độ cao hơn nền sản xuất phong kiến chính là vì nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là nền sản suất dựa vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất,công nghiệp và hình thức tổ chức kinh tế thị trường ngày càng hiện đại, cũng nhớ đó mà nó có thế tạo ra năng suất lao động cao hơn rất nhiều phương thức sản xuất phong kiến với trình độ lao động căn bản là thủ công, với hình thức tổ chức kinh tế tự cấp tự túc, khép kín. Chính vì vậy, có thể nói: các thời đại kinh tế khác nhau căn bản không phải ở chỗ nó sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ nó được tiến hành bằng cách nào, với công cụ gì.

Bởi thế, đối với các hiện tượng của đời sống xã hội, ta chỉ có thể đạt tới một sự giải thích có căn cứ nếu sự giải thích ấy được bắt nguồn từ nềnsản xuất vật chấtcủa xã hội.

Sản xuất vật chất là gì?

Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Theo cách hiểu giáo trình những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lenin đưa ra thì sản xuất vật chất được hiểu như sau: “ Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người”.

Con người là động vật tiến hóa bậc cao nhất trong xã hội. Con người không ngừng lao động, sản xuất và tạo ra các tư liệu sinh hoạt thỏa mãn nhu cầu ngày càng phong phú, đa dạng của con người. Việc sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt là yêu cầu khách quan của đời sống xã hội.

Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao.

Sản xuất vật chất là nền tảng cơ bản của đời sống xã hội và đời sống tinh thần của xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [213.42 KB, 26 trang ]

Website: //www.docs.vn Email : Tel : 0918.775.368
Lời mở đầu

Trải qua các giai đoạn lịch sử, con ngời tồn tại và phát triển nh ngày nay là
nhờ vào hoạt động lao động sản xuất. Vì vậy, ta có thể nói là từ khi con ngời xuất
hiện thì từ đó có lao động sản xuất, chính vì vậy mà sản xuất vật chất là trớc tiên
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Ăng Ghen chỉ ra rằng: CácMác là ngời đầu tiên phát hiện ra qui luật phát
triển của lịch sử loài ngời, nghĩa là tìm ra các sự thật giản đơn là trớc hết con ng-
ời cần phải ăn, uống, ở và mặc, trớc khi có thể lo đến chuyện làm ăn chính trị,
khoa học, nghệ thuật, tôn giáo Những thứ đảm bảo cho mọi nhu cầu này của con
ngời hoàn toàn không có sẵn trong tự nhiên, để có nó con ngời phẩi sản xuất.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa lực lợng sản xuất
và quan hệ sản xuất có một ý nghĩa hết sức to lớn.
Trong khuôn khổ đề tài này, tôi sẽ chỉ đề cập đến mối quan hệ đó, giúp các
bạn có một cái nhìn đúng đắn hơn về quan hệ giữa lực lợng sản xuất và quan hệ
sản xuất dới cách nhìn của triết học.
Đây sẽ là yếu tố giúp chúng ta tránh đợc những sai lầm trong quản lý và phát
triển xã hội
Phan Thị Hằng Lớp: D2-6
Tiều luận triết học
I.Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài: Sản xuất vật chất là nền tảng cơ bản của đời sống xã hội
và đời sống tinh thần của xã hội.
Quá trình sản xuất vật chất của con ngời là tổng hòa của nhiều mối quan hệ.
Trong đó có hai mối quan hệ lớn: quan hệ giữa con ngời với con giới tự nhiên và
mối quan hệ giữa con ngời với nhau. Mối quan hệ hai mặt đó đợc biểu hiện thành
hai mặt của một phơng thức sản xuất đó là lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Đề tài này nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa lực lợng sản xuất và
quan hệ sản xuất, phơng thức sản xuất XHCN


3. Kết cấu của đề tài:
Bao gồm 3 phần và 2 chơng
Phan Thị Hằng Lớp: D2-6
2
Tiều luận triết học
II. Phần nội dung
CHƯƠNG I :Quan hệ biện chứng giữa lực lợng sản
xuất với đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
1.1. Hai mặt của phơng thức sản xuất:
1.1.1. Lực lợng sản xuất.
Lực lợng sản xuất là mối quan hệ giữa con ngời với giới tự nhiên đợc hình
thành trong quá trình sản xuất. Lực lợng sản xuất gồm có t liệu sản xuất và ngời
lao động.
a. T liệu sản xuất.
T liệu sản xuất đợc hình thành từ hai bộ phận:
+ Đối tợng lao động.
+ T liệu lao động.
* Đối tợng lao động.
Đối tợng lao động đợc hiểu là những gì mà ngời lao động sử dụng công cụ
lao động tác động vào , biến đổi nó theo mục đích của mình. Do đó có thể chia
làm ba loại:
- Thứ nhất là toàn bộ vùng của giới tự nhiên đợc con ngời trực tiếp sử dụng
và đa nó vào sản xuất . Tuy nhiên các tài nguyên này là hữu hạn , ngay cả tài
nguyên không khí và nớc xa kia vốn đợc coi là vô tận thì nay cũng không còn là
vô tận nữa vì tình trạng ô nhiễm. Chính vì vậy một vến đề đặt ra là phải sử dụng
các nguồn tài nguyên này sao cho tiết kiệm nhất có thể.
- Thứ hai , đó là những sản phẩm không có sẵn trong tự nhiên mà do con ng-
ời bằng lao động của mình tạo ra hay còn gọi là sản phẩm nhân tạo nh các loạI hoá
chất , sợi tổng hợp , hợp kim , các loại giống ... Ngày nay cùng với sự phát triển
của khoa học kĩ thuật các sản phẩm này ngày càng đa dạng , phong phú , không

những thay thế đợc các loại có sẵn trong tự nhiên mà còn đáp đợc sự phát triển
không ngừng của nền sản xuất vật chất.
Phan Thị Hằng Lớp: D2-6
3
Tiều luận triết học
- Thứ ba , là với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật , không nên bó
hẹp đối tợng lao động trong hai loại trên mà cần hiểu thêm đối tợng lao động còn
là những vùng hoàn toàn cha mang dấu ấn của con ngời , hiện cha đợc con ngời
khai thác sử dụng , song tất yếu sẽ đợc khai thác trong tơng lai.
* T liệu lao động.
T liệu lao động là những vật hay phức hợp các vật nối con ngời với đối tợng
lao động và dẫn chuyền tích cực tác động của con ngời vào đối tợng lao động.
+ Công cụ sản xuất:
Là những bộ phận trực tiếp dẫn truyền tích cực sự tác động của con ngời vào
giới tự nhiên và sản phẩm của giới tự nhiên gọi là công cụ sản xuất.
+ Phơng tiện sản xuất.
Bao gồm toàn bộ cơ sở vật chất kĩ thuật liên quan đến quá trình sản xuất nh
nhà xởng, đờng xá , cầu cống , kho bãi , nhà ga , phơng tiện liên lạc ... Quá trình
sản xuất và phơng tiện lao động đợc gọi là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế.
Trình độ phát triển của t liệu lao động mà trong đó đặc biệt là công cụ sản
xuất là thớc đo trình độ chinh phục tự nhiên của con ngời. Đồng thời đó cũng là
cơ sở xác định trình độ sản xuất và là tiêu chuẩn đánh giá sự khác nhau giã các
thời đại kinh tế , các chế độ chính trị xã hội.
Các Mác nói: Những thời đạI kinh tế khác nhau không phảI ở chỗ chúng
sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào , với những t liệu lao
động nào. Do đó xét đến cùng thì năng xuất lao động chính là thớc đo cơ bản để
đánh giá trình độ của lực lợng sản xuất trong một xã hội.
b. Ngời lao động.
Ngời lao động với t cách là một bộ phận của lực lợng sản xuất phảI là ngời
có thể lực , có tri thức văn hoá , có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao , có kinh

nghiệm và những thói quen tốt , phẩm chất t cách lành mạnh , lơng tâm nghề
nghiệp và trách nhiệm cao đối với công việc.
Phan Thị Hằng Lớp: D2-6
4
Tiều luận triết học
Lênin viết : Lực lợng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công
nhân , ngời lao động.. Không phải ngẫu nhiên mà Lênin nói vậy mà bởi các lí do
sau :
- Ngời lao động là chủ thể sáng tạo ra các công cụ sản xuất. Đồng thời bằng
tri thức và kinh nghiệm nghề nghiệp của mình con ngời biết cách sử dụng sáng tạo
công cụ sản xuất để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội .
- T liệu lao động dù có tinh xảo và hiện đại đến đâu chăng nữa nhng nếu
tách khỏi ngời lao động thì sẽ không phát huy đợc tác dụng tích cực của nó .
- Ngời lao động với tính tích cực sáng tạo , chủ động của họ bao giờ
cũng là động lực trực tiếp thúc đẩy tốc độ , qui mô , hiệu quả và chất lợng của mọi
nền sản xuất , thiếu nó sản xuất sẽ mất đi sinh khí .
- Mọi thành tựu khoa học cho đến nay đều do con ngời phát minh và ứng
dụng vào thực tế . Khoa học kĩ thuật đã trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp ,
khoảng cách giữa phát minh sáng chế và ứng dụng đợc thu hẹp tới mức ngắn nhất .
Sự phát triển nh vũ bão của khoa học mở ra ra những khả năng mới cho phép con
ngời ứng dụng qui trình công nghệ hiện đại , khai thác có hiệu quả các tàI nguyên
thiên nhiên , chế tạo ra những mguyên nhiên vật liệu mới đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của nền sản xuất .
Chính vì vậy mà ngày nay ngời lao động không chỉ đợc hiểu đơn thuần là lao
động chân tay mà còn bao gồm cả các chuyên gia kĩ thuật , kĩ s và các cán bộ
khoa học chuyên nghành tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất .
1.1.2. Quan hệ sản xuất.
Lao động sản xuất trớc hết là sự tác động của con ngời vào giới tự nhiên .
Nhng để tác động vào giới tự nhiên con ngời lại phải phối hợp với nhau , hợp tác
với nhau , tức là phải có quan hệ với nhau nh thế nào đó. Những mối quan hệ giữa

ngời với ngời trong quá trình sản xuất và tái sản xuất đợc gọi là quan hệ sản xuất .
Nó đợc thể hiện ở ba mặt cơ bản sau :
+ Quan hệ sở hữu đối với t liệu sản xuất.
+ Quan hệ trong tổ chức và quản lí sản xuất.
+ Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Phan Thị Hằng Lớp: D2-6
5
Tiều luận triết học
Ba mặt quan hệ nói trên là một thể thống nhất hữu cơ , trong đó quan hệ sở
hữu về t liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với các mặt quan hệ khác.
a. Quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất.
Quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất là một phạm trù cơ bản của quan hệ sản
xuất , qua đó nó có thể cho ta biết bản chất của một xã hội . Lịch sử đã trải qua rất
nhiều chế độ xã hội khác nhau song chỉ có hai loại hình sở hữu cơ bản đôí với t
liệu sản xuất đó là: sở hữu xã hội và sở hữu t nhân.
Sở hữu xã hội hay sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó t liệu
sản xuất chủ yếu thuộc về mọi thành viên trong xã hội. Từ việc họ có quyền sở
hữu về t liệu sản xuất nên họ có vị trí bình đẳng trong tổ chức lao động và phân
phối sản phẩm. Xã hội dựa trên chế độ sở hữu xã hội là để đảm bảo và nâng cao
đời sống vật chất tinh thần của ngời lao động , nhằm xây dựng một xã hội bình
đẳng. Nó đợc thể hiện ra trong phơng thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ với hình
thức sở hữu của thị tộc , bộ lạc và trong phơng thức sản xuất xã hội chủ nghĩa với
hình thức sở hữu tập thể [ sở hữu hợp tác xã ] và sở hữu toàn dân [ sở hữu quốc
doanh ].
Sở hữu t nhân tức là quyền sở hữu đối với t liệu sản xuất chủ yếu thuộc về cá
nhẩn riêng biệt trong xã hội. Một xã hội dựa chủ yếu vào chế độ t hữu về t liệu sản
xuất là một xã hội bảo vệ quyền lợi của thiểu số , số ít , đó là chế độ ngời bóc lột
ngời , nguồn gốc sinh ra mọi bất bình đẳng xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng
minh ba loạI hình sở hữu t nhân đó là : sở hữu chiếm hữu nô lệ , sở hữu phong
kiến , sở hữu t bản chủ nghĩa.

Ngày nay thực tế đã chứng minh trong chủ nghĩa xã hội cần phải đa dạng
hoá tất cả các hình thức sở hữu khác , bên cạnh các hình thức sở hữu tập thể và sở
hữu toàn dân cần có nhiều các hình thức sở hữu khác kể cả hình thức sở hữu t bản
nhà nớc và t bản t nhân.
b. Quan hệ trong tổ chức và quản lí sản xuất.
Chế độ tổ chức và quản lí sản xuất là việc đặt kế hoạch và điều hành sản
xuất. Mặc dù bị chi phối bởi quan hệ sở hữu song quan hệ trong tổ chức và quản lí
sản xuất vẫn đống một vai trò rất lớn đối với quá trình sản xuất. Trong thực tế
Phan Thị Hằng Lớp: D2-6
6
Tiều luận triết học
thích ứng với mỗi một kiểu sở hữu là một chế độ tổ chức quản lí nhất định. Trong
xã hội dựa trên chế độ sở hữu t nhân thì quyền này thuộc về ngời chủ t liệu sản
xuất , còn ngời lao động chỉ là kẻ làm thuê. Xã hội xã hội chủ nghĩa dựa trên chế
độ công hữu thì quyền đó thuộc về xã hội , mọi ngơì lao động đều là ngời chủ của
quá trình sản xuất , ai có năng lực và đạo đức thì đợc ngời lao động cử vào các tổ
chức , các cơ quan lãnh đạo , thay mặt họ điều hành công việc.
Chính quan hệ về tổ chức và quản lí sản xuất là nhân tố tham gia quyết định
trực tiếp đến qui mô , tốc độ và hiệu quả của nền kinh tế.
c. Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Quan hệ phân phối sản phẩm lao động cũng là một trong ba mặt của quan hệ
sản xuất. Thực tế cho thấy quan hệ phân phối sản phẩm bị chi phối bởi quan hệ sở
hữu về t liệu sản xuất và quan hệ trong tổ chức và quản lí sản xuất song nó là nhân
tố đặc biệt quan trọng đối với sự tăng trởng kinh tế. Trong xã hội dựa trên chế độ
t hữu thì đạI bộ phận sản phẩm làm ra thuộc về tay ngời làm chủ các t liệu sản
xuất , ngời lao động chỉ nhận đợc một phần nhỏ đủ nuôi sống bản thân để tiếp tục
làm thuê . Xã hội xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu , sự phân phối sản
phẩm đợc thực hiện một cách công bằng theo nguyên tắc ai làm nhiều hởng
nhiều , ai làm ít hởng ít , ai không làm không hởng.
Nói tóm lại , cả ba mặt quan hệ trên đây có mối quan hệ chặt chẽ với nhau ,

tác động lẫn nhau trong đó chế độ sở hữu về t liệu sản xuất có vai trò quyết định
song không đợc tuyệt đối hoá bất cứ mặt quan hệ nào mà phải chú ý đến tính
đồng bộ của cả ba mặt trong quan hệ sản xuất.
Từ trên ta có thể rút ra sơ đồ sau :
Phan Thị Hằng Lớp: D2-6
7
Tiều luận triết học
1.2. Quan hệ biện chứng giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất .
1.2.1. Tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất.
Tính chất của lực lợng sản xuất là tính chất của t liệu và sức lao động. Tính
chất của lực lợng sản xuất đợc thể hiện dới hai mặt là tính chất cá thể và tính chất
xã hội. Khi mà công cụ sản xuất đợc sử dụng bởi từng cá nhân riêng biệt để làm ra
một sản phẩm cho xã hội , không cần đến lao động của nhiều ngời thì lực lợng
sản xuất có tính chất cá thể. Công cụ sản xuất đợc nhiều ngời sử dụng để sản xuất
ra sản phẩm [ nhiều ngời tham gia vào quá trình sản xuất ] thì lực lợng sản xuất
mang tính xã hội. Ngày nay với sự phát triển nh vũ bão của công nghệ thông tin ,
đặc biệt là sự phát triển của máy tính cá nhân , lực lợng sản xuất có xu thế chuyển
từ tính chất xã hội sang tính chất cá thể , trong đó vai trò của con ngời đợc đặt ở vị
trí trung tâm của quá trình sản xuất.
Trình độ của lực lợng sản xuất đợc thể hiện ở trình độ tinh xảo và hiện đại
của công cụ sản xuất , trình độ chuyên môn , nghiệp vụ và kĩ năng , kĩ xảo của ng-
ời lao động ; trình độ phân công lao động xã hội ; tổ chức quản lí sản xuất và qui
mô của nền sản xuất. Trình độ phát triển của lực lợng sản xuất càng cao thì
Phan Thị Hằng Lớp: D2-6
8
Phương thức sản xuất
Lực lượng sản xuất Quan hệ sản xuất
Người
lao
động

Tư liệu
sản xuất
Tư Đối
liệu tượng
lao lao
động động

Sở
hữu

liệu
sản
xuất
Quản

sản
xuất
Phân
phối
sản
phẩm
Tiều luận triết học
chuyên môn hoá và phân công lao động càng sâu. Do đó phân công lao động và
chuyên môn hoá là thớc đo trình độ phát triển của lực lợng sản xuất.
1.2.2. Lực lợng sản xuất quyết định sự hình thành , phát triển và biến đổi các
quan hệ sản xuất.
Trong quá trình sản xuất cuả mình , con ngời không ngừng cải tiến , hoàn
thiện và sáng tạo ra những công cụ mới. Đồng thời với sự phát triển của khoa học
kĩ thuật , trình độ chuyên môn và mọi kĩ năng của ngời lao động cũng ngày càng
phát triển. Do đó để thích ứng với sự phát triển của lực lợng sản xuất thì quan hệ

sản xuất cũng phải thay đổi sao cho phù hợp với sự phát triển của lực lợng sản
xuất. Khi quan hệ sản xuất không thích ứng với tính chất và trình độ của lực lợng
sản xuất nó sẽ kìm hãm , thậm chí phá hoại sự phát triển của lực lợng sản xuất ,
mâu thuẫn giữa chúng tất yếu sẽ nảy sinh. Ta phải hiểu thích ứng ở đây là nh thế
nào ?. Có nghĩa là quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lợng sản xuất hiện có,
quan hệ sản xuất không thể tụt hậu so với lực lợng sản xuất , nhng quan hệ sản
xuất cũng không thể đi trớc sự phát triển của lực lợng sản xuất , nếu có thể thì
cũng chỉ là dự báo mà thôi.
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến loài ngời đã bốn lần thay đổi quan hệ sản
xuất thông qua bốn cuộc cách mạng xã hội , dẫn đến sự ra đời của các hình thái
kinh tế xã hội. Do luôn có đợc một lực lợng sản xuất mới , loàI ngời thay đổi phát
triển sản xuất của mình , chính sự thay đổi phát triển sản xuất đó loài ngời thay
đổi tất cả các quan hệ sản xuất của mình.
1.2.3. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lợng sản xuất.
Nh chúng ta đã biết , lực lợng sản xuất quyết định sự hình thành , phát triển ,
và biến đổi các quan hệ sản xuất. Song bản thân quan hệ sản xuất không phải là
thụ động mà chúng quay trở lại tác động tới lực lợng sản xuất. Mối quan hệ giữa
lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất là một mối quan hệ biện chứng. Khi quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất , nó sẽ trở thành
động lực thúc đẩy , định hớng và tạo điều kiện cho lực lợng sản xuất phát triển ,
ngợc lại nếu quan hệ sản xuất lạc hậu so với tính chất và trình độ phát triển cuat
lực lợng sản xuất nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất . Chủ nghĩa
Phan Thị Hằng Lớp: D2-6
9
Tiều luận triết học
duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của lực lợng sản xuất đối với quan
hệ sản xuất song cũng chỉ rõ quan hệ sản xuất rằng bao giờ cũng thể hiện tính độc
lập tơng đối , tác động trở lại lực lợng sản xuất , qui định mục đích xã hội của sản
xuất , tác động đến khuynh hớng phát triển của công nghệ. Mối quan hệ này là sự
phù hợp biện chứng không loại trừ mâu thuẫn. Khi nói đến vai trò của quan hệ sản

xuất không nên tuyệt đối hoá mặt quan hệ sở hữu mà phải xem xét trong một
chỉnh thể thống nhất của cả ba mặt , lúc này quan hệ sản xuất mới trở thành động
lực thúc đẩy sự phát triển sản xuất.
1.2.4. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất .
Quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất là hai mặt trong một phơng thức sản
xuất. Mà phơng thức sản xuất là cách thức sản xuất của cải vật chất mà trong đó
lực lợng sản xuất đạt đến một trình độ nhất định , thống nhất với các quan hệ sản
xuất tơng ứng với nó. Do đó giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất phải phù
hợp với nhau để tạo nên một phơng thức sản xuất hoàn chỉnh. Sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất mà trong đó quan hệ sản
xuất là hình thức phát triển tất yếu của lực lợng sản xuất , với quan hệ sản xuất này
lực lợng sản xuất có đầy đủ các đIũu kiện để phát triển một cách tốt nhất , thuận
lợi nhất. Để xác lập đợc trạng thái phù hợp trên phảI xuất phát từ yêu cầu của lực
lợng sản xuất hay nói cách khác lực lợng sản xuất phải là nền tảng , cơ sở cho sự
ra đời của một quan hệ sản xuất. Đây cũng là nội dung cơ bản của qui luật , đồng
thời nó trả lời cho câu hỏi : Ngời ta có thể tự do lựa chọn quan hệ sản xuất cho
mình đợc hay không ? . Ngời ta không thể lựa chọn một quan hệ sản xuất cho
mình , lại càng không thể có một quan hệ sản xuất cho một cá nhân riêng lẻ , mà
sự ra đời của quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào chính lực lợng sản xuất , đó là
một tất yếu khách quan , nằm ngoài ý nguyện của con ngời.
Mức độ phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố nhng cơ bản nhất là sự phát triển của lực lợng sản xuất. Nếu lực l-
ợng sản xuất phát triển chậm thì quan hệ sản xuất sẽ phù hợp với lực lợng sản xuất
trong một thời gian khá dài , chẳng hạn nh chế độ cộng sản nguyên thuỷ , chế độ
nô lệ và chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm. Ngợc lại , nếu lực lợng sản
Phan Thị Hằng Lớp: D2-6
10

Sản xuất vật chất - cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [75.02 KB, 7 trang ]

1. Sản xuất vật chất - cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội
Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất
tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó gắn chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó
sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Theo Ph.Ăngghen, "điểm khác biệt căn bản giữa xã hội
loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm, trong khi con người lại sản xuất"[1].
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của
giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người không thỏa mãn với những cái đã có sẵn trong giới tự nhiên, mà luôn luôn
tiến hành sản xuất vật chất nhằm tạo ra các tư liệu sinh hoạt thỏa mãn nhu cầu ngày càng phong phú, đa dạng của con
người. Việc sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt là yêu cầu khách quan của đời sống xã hội. Bằng việc "sản xuất ra những tư
liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình"[2].
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ
các mặt của đời sống xã hội. Tất cả các quan hệ xã hội về nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, v.v... đều
hình thành, biến đổi trên cơ sở sản xuất vật chất. Khái quát lịch sử phát triển của nhân loại, C.Mác đã kết luận: "Việc sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp tạo ra một cơ sở, chính từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà
nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta"[3].
Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi
bản thân mình. Sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát
triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao. Chính vì vậy, phải tìm cơ sở sâu xa của các
hiện tượng xã hội ở trong nền sản xuất vật chất của xã hội.
2. Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
2.1. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
a. Phương thức sản xuất
Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức nhất định. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá
trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối
với tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức
sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.
Trong sản xuất, con người có "quan hệ song trùng": một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là lực lượng sản xuất;
mặt khác là quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất. Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực
lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.


b. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất thể
hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao
động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao
động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao
động"[1]. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình,
sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là
trí tuệ của lao động ngày càng cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng
vai trò chính yếu.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định
trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là "sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa", nó
"nhân" sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản
xuất. Cùng với quá trình tích lũy kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng
được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu
sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là
thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với
sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành
nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp".
Những phát minh khoa học trở thành điểm xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công
nghệ mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất, trở thành một
yếu tố không thể thiếu được của sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt, tạo thành cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn là kinh
nghiệm và thói quen của họ và là tri thức khoa học. Có thể nói: khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng
sản xuất hiện đại.
c. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất [sản xuất và tái sản xuất xã hội]. Quan hệ sản
xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong

phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. C.Mác viết: "Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên.
Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi
hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ
của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất"[1]. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất; giữa ba mặt của quan
hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển
không ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng
cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản
xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác.
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến có hai loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu
công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, còn
đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó, quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong
đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu
sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ giữa người với người trong mỗi cộng đồng là quan
hệ bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản
xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu quyết
định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với
quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản
xuất chi phối, song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao
động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
2.2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động
qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự
biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất.
Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai
đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng
lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã
phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động
kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công
lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một
phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là
"hình thức phát triển" của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều "tạo địa bàn
đầy đủ" cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa
người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không
phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành "xiềng xích" của lực lượng sản xuất,
kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế
quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực
lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức
sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. C.Mác đã viết: "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến
nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy
trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội"[1].
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở
lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con
người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công
nghệ, v.v... và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu
hoặc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản

xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không
phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông
qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn
bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ
chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ
thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy
luật cơ bản nhất.
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
3.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất tạo thành quan hệ vật chất của xã hội.
Trên cơ sở quan hệ sản xuất hình thành nên các quan hệ về chính trị và tinh thần của xã hội. Hai mặt đó của đời sống xã
hội được khái quát thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. C.Mác viết: "Toàn bộ những quan hệ sản xuất
ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và
chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó"[1].
a. Cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội
nhất định.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan
hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi
phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng của một
xã hội cụ thể được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan
hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định.
Như vậy, xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng
xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất "hợp thành" cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực,
trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.
b. Kiến trúc thượng tầng: Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức,
tôn giáo, nghệ thuật, v.v... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã
hội, v.v... được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với

nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng. Song, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau
đối với cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng; còn những yếu tố
như triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với nó.
Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp. Đó chính là cuộc đấu tranh về mặt chính trị - tư tưởng
của các giai cấp đối kháng, trong đó, đặc trưng là sự thống trị về mặt chính trị - tư tưởng của giai cấp thống trị.
Trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó tiêu biểu cho chế độ chính
trị của một xã hội nhất định. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị mới thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả các
mặt của đời sống xã hội.
3.2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a] Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau, trong đó cơ
sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.
- Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là
do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị
thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu
thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong
đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo, v.v.. đều trực
tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
- Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. C.Mác viết: "Cơ sở kinh tế thay
đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng"[1].
Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác,
mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Tuy sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng gắn với sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng lực lượng sản xuất
không trực tiếp làm thay đổi kiến trúc thượng tầng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp làm thay đổi quan hệ
sản xuất, tức trực tiếp làm thay đổi cơ sở hạ tầng và thông qua đó làm thay đổi kiến trúc thượng tầng.
Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó có những yếu tố của
kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật, v.v.. Trong kiến
trúc thượng tầng, có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật, v.v.. hoặc có những yếu tố vẫn được kế thừa
trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
b. Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có
vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất
đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc
thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v... cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng chúng đều bị
nhà nước, pháp luật chi phối.
Trong mỗi chế độ xã hội, sự tác động của các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phải bao giờ cũng theo một xu
hướng. Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã
sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Một giai cấp chỉ có thể giữ vững được sự
thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và củng cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động
phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược
lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng không làm thay đổi được tiến trình
phát triển khách quan của xã hội. Xét đến cùng, nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Nếu
kiến trúc thượng tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng
cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.
4. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử -
tự nhiên
4.1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất
định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và
với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại
lẫn nhau, thống nhất với nhau.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau
có lực lượng sản xuất khác nhau. Suy đến cùng, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển
và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.
Quan hệ sản xuất là “quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác”[1]. Quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và tác động tích cực trở lại lực lượng sản xuất. Mỗi hình thái kinh tế - xã

hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã
hội. Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội.
Các quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học v.v... các thiết chế tương ứng được hình thành, phát triển trên
cơ sở các quan hệ sản xuất tạo thành kiến trúc thượng tầng của xã hội. Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát
triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Ngoài các mặt cơ bản đã nêu trên, các hình thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội
khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
4.2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật
vận động phát triển khách quan của xã hội, C.Mác đã đi đến kết luận: "Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên"[1].
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật
vận động, phát triển khách quan của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác. Chính sự tác động
của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động phát triển từ thấp đến cao.
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của
lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho
kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội
mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. V.I. Lênin
viết: "Chỉ có đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ
sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên"[2].
Con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về
tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc tế v.v.. Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân loại hết
sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt
trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao; nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh
tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không phải theo ý
muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà
còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
4.3. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội

Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Sự ra đời học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã
đưa lại cho khoa học xã hội một phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học. Đó là:
Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Cho nên,
không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã
hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất.
Xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các
mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định
các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Điều đó cho thấy, muốn nhận thức
đúng đời sống xã hội, phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
Đặc biệt phải đi sâu phân tích về quan hệ sản xuất thì mới có thể hiểu một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Chính quan
hệ sản xuất cũng là tiêu chuẩn khách quan để phân kỳ lịch sử một cách đúng đắn, khoa học.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan
chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật
vận động phát triển của xã hội. V.I. Lênin viết: "Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng [chứ không phải là
một cái gì được kết thành một cách máy móc và do đó cho phép có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng
được], một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành
một hình thái xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó"[1].
Kể từ khi học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác ra đời cho đến nay, loài người đã có những bước phát triển hết sức
to lớn về mọi mặt, nhưng học thuyết đó vẫn nguyên giá trị. Nó vẫn là phương pháp thực sự khoa học để nhận thức một

Sản xuất vật chất và vai trò của nó

Quảng cáo

a] Sản xuất vật chất và phưong thức sản xuất

Sản xuất là một loại hình hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người, bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con nguời. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội. Theo Ph.Ăngghen, "Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm trong khi con người lại sản xuất". Nhưvậy, sản xuất vật chất là một trong những loại hoạt động đặc trưng của con người - đó cũng chính là một loại hình hoạt động thực tiễn với mục đích cải biến các đối tượng của giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại, phát triển của con người và xã hội. Với nghĩa như vậy, sản xuất vật chất là một loại hoạt động có tính khách quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo.

Bất cứ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng được tiến hành với mục đích nhất định và được tiến hành theo những cách thức xác định. Cách thức tiến hành đó chính là phương thức sản xuất. Vậy, khái niệm phương thức sản xuất dùng để chỉ những cách thức mà con người sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định.

Mỗi xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định đều có phương thức sản xuất của nó với những đặc điểm riêng. Phương thức sản xuất của xã hội nguyên thủy có đặc trưng là cách thức kỷ thuật đánh bắt tự nhiên ở trình độ hết sức thô sơ, còn phương thức sản xuất trong xã hội hiện đại lại có đặc trưng ở trình độ kỹ xảo công nghiệp và công nghệ cao.

Mỗi phương thức sản xuất đều có hai phương diện cơ bản là kỹ thuật và kinh tế. Hai phương diện đó gắn bó chặt chẽ với nhau. Phương diện kỹ thuật của phương thức sản xuất chỉ ra quá trình sản xuất được tiến hành bằng cách thức kỹ thuật, công nghệ nảo để làm biến đổi các đối tượng của quá trình sản xuất. Phương diện kinh tế của phương thức sản xuất chỉ ra quá trình sản xuất được tiến hành với những cách thức tổ chức kinh tế cao. Trong các xã hội nông nghiệp truyền thống, phương thức kỹ thuật chủ yếu của quá trình sản xuất là các công cụ kỹ thuật thủ công với quy mô nhỏ và khép kín về phương diện kinh tế. Ngược lại, trong các xã hội hiện đại, quá trình sản xuất lại được tiến hành với phương thức kỹ thuật công nghiệp và tổ chức kinh tế thị trường với những quy mô ngày càng mở rộng và không ngừng phát triển theo hướng phân tách và phụ thuộc vào nhau giữa các khâu kỹ thuật và tổ chức kinh tế của quá trình sản xuất xã hội.

b] Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại, phát triển của xã hội

Theo quan điểm duy vật lịch sử, sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội: là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người; nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.

Khác với các quan điểm duy tâm về lịch sử, C.Mác đã xuất phát từ "con người hiện thực" và đi đến kết luận rằng: "... tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể "làm ra lịch sử". Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất". Cũng vì vậy, có thể khẳng định: con người với tư cách "người", được bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình.

Để tiến hành quá trình sản xuất vật chất - tức quá trình cải biến giới tự nhiên, con người tất yếu phải thiết lập nên những mối quan hệ nhất định với nhau, đó chính là nhữngquan hệ sản xuất và trên cơ sở những quan hệ sản xuất này mà làm phát sinh những mối quan hệ xã hội khác: chính trị, đạo đức, pháp luật,... Theo C.Mác, "việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính, mỗi một giai đoạn phát triền kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở. Từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta".

Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao. Như vậy, sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội,suy đến cùng có nguyên nhân từ tình trạng phát triển của nên sản xuất của xã hội. Do đó, để giải thích và giải quyết đủng đắn các vấn đề của đời sống xã hội thì cần phải tìm nguyên nhân cuối cùng của nó từ tình trạng phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội đó, mà căn bản là từ trình độ phát triển phương thức sản xuất của nó. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ở trình độ cao hơn nền sản xuất phong kiến chính là vì nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là nền sản suất dựa vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất,công nghiệp và hình thức tổ chức kinh tế thị trường ngày càng hiện đại, cũng nhớ đó mà nó có thế tạo ra năng suất lao động cao hơn rất nhiều phương thức sản xuất phong kiến với trình độ lao động căn bản là thủ công, với hình thức tổ chức kinh tế tự cấp tự túc, khép kín. Chính vì vậy, có thể nói: các thời đại kinh tế khác nhau căn bản không phải ở chỗ nó sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ nó được tiến hành bằng cách nào, với công cụ gì.

Với việc phát hiện ra vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội và do đó, với trình độ phát triển của đời sống xã hội nói chung, chủ nghĩa Mác — Lênin đã phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại theo lịch sử thay thế và phái triển của các phương thức sản xuất. Sự thay thế và phát triển của các phương thức sản xuảt phản ánh xu hướng tất yếu khách quan của quá trình phát triển xã hội loài người từ trình độ thấp đến trình độ ngày càng cao hơn: phương thức sản xuất Châu Á, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại. V.V.. Tính chất tuần tự trong quá trình thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất cũng chính là quy luật chung trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nhưng với mỗi cộng đồng xã hội nhất định, tùy theo điều kiện khách quan và chủ quan mà có thể có những biểu hiện đa dạng về con đường phát triển của nó: có tính chất đan xen giữa các phương thức sản xuất trong một thời kỳ phát triển hoặc có những bước nhỏ qua một hay một vài phương thức sản xuất nào đó [với tư cách là phương thức sản xuất có tính chất phổ biến, giữ vai trò chủ đạo] và tiến thẳnglên phương thức sản xuất cao hơn. Đó chính là sự hiểu hiện của tính thống nhất trong tính đa dạng về con đường phát triển của mỗi cộng đồng người nhất định, tạo nên tính chất phong phú của lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, dù lịch sử của mỗi cộng đồng người có phát triển phong phú, đa dạng như thế nào, thậm chí có những giai đoạn phát triển phải trải qua những con đường vòng nhưng rốt cuộc lịch sử vẫn tuân theo xu hướng chung là phát triển theo chiều hướng đi lên từ phương thức sản xuất ở trình độ thấp lên trình độ cao hơn.

Loigiaihay.com

Bài tiếp theo

  • Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
  • Lý thuyết: Chủ nghĩa duy vật lịch sử
  • Theo quan điểm duy vật lịch sử, cái gì đóng vai trò là cơ sở nền tảng của đời sống xã hội? Tại sao? Quan niệm đó của chủ nghĩa duy vật lịch sử có ý nghĩa phương pháp luận gì?

    Theo quan điểm duy vật lịch sử, cơ sở nền tảng của mọi xã hội và của toàn bộ lịch sử xã hội loài người chính là quá trình sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó [gọi tắt là sản xuất vật chất].

  • Sản xuất vật chất đóng vai trò là cơ sở nền tảng của toàn bộ đời sống xã hội, vậy trình độ phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội căn bản phụ thuộc vào nhân tố nào [nhân tố nào giữ vai trò quyết định]? Quan điểm đó có ý nghĩa phương pháp luận gì?

    - Theo quan điểm duy vật lịch sử, trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội căn bản phụ thuộc vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất vật chất [gọi tắt là: phương thức sản xuất].

  • Sự vận động, phát triển của phương thức sản xuất vật chất có tuân theo quy luật khách quan hay không? Nếu có thì đó là quy luật cơ bản nào?

    Theo quan điểm duy vật lịch sử, sự vận động, phát triển của phương thức sản xuất từ thấp đến cao không diễn ra theo ý muốn, ý chí chủ quan của con người mà tuân theo quy luật khách quan, trong đó quy luật cơ bản nhất

  • Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
  • Lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ
  • Lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ? [CH62]
  • Phân tích những đặc điểm kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền?
Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý

Video liên quan

Chủ Đề