Ví dụ về hợp đồng vô hiệu trong thương mại

Hợp đồng dân sự vô hiệu khi có các trường hợp sau.

Theo quy định của Điều 410 Bộ luật dân sự thì vấn đề hợp đồng vô hiệu sẽ được áp dụng theo các quy định từ Điều 127 đến Điều 138 Bộ luật dân sự vì hợp đồng là một loại giao dịch dân sự. Các quy định của các điều từ Điều 127 đến 138 là các quy định áp dụng cho giao dịch dân sự vô hiệu, bao gồm các trường hợp sau:

+ Giao dịch bị vô hiệu khi không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật dân sự bao gồm: người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Ngoài ra, nếu pháp luật yêu cầu giao dịch phải được thể hiện bằng một hình thức cụ thể nào đó thì hình thức của giao dịch cũng là điều kiện có hiệu lực của giao dịch.

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội. Điều này có nghĩa rằng nếu giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đưc xã hội thì bị vô hiệu. Vi phạm điều cấm của pháp luật có nghĩa là vi phạm những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định, ví dụ như hành vi buôn bán chất ma tuý. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

Điều này có nghĩa rằng nếu giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đưc xã hội thì bị vô hiệu. Vi phạm điều cấm của pháp luật có nghĩa là vi phạm những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định, ví dụ như hành vi buôn bán chất ma tuý. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

Nếu một giao dịch dân sự được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo đó bị vô hiệu, tuy nhiên giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực trừ khi nó cũng bị vô hiệu theo các quy định khác của Bộ luật dân sự. Ví dụ, A bán tài sản cho B nhưng lại làm hợp đồng giả tạo là hợp đồng tặng cho để không phải đóng thuế cho nhà nước, khi đó hợp đồng tặng cho bị coi là vô hiệu còn hợp đồng bán tài sản vẫn có hiệu lực. Luật cũng quy định trường hợp giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó cũng bị vô hiệu.

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện

Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, toà án có thể tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện, ví dụ một người bị tâm thần, không có khả năng nhận thức được hành vi của mình đã kí hợp đồng để bán nhà cho một người khác, giao dịch này bị coi là vô hiệu vì trong trường hợp này người bị tâm thần không thể tự mình giao dịch được mà cần phải có người đại diện của họ.

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn

Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Ví dụ, A bán cho B một chiếc xe máy nhưng A quên không thông báo cho B biết rằng hệ thống đèn của chiếc xe đó đã bị cháy. B yêu cầu A giảm bớt giá bán chiếc xe đó hoặc thay thế hệ thống đèn mới nhưng A không chấp nhận. B có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch mua bán đó vô hiệu.

Trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì sẽ áp dụng các quy định tại Điều 132 Bộ luật dân sự về giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ. Trong ví dụ trên đây, nếu A cố tình che giấu, không thông báo cho B biết về hệ thống đèn bị hỏng và nói với B rằng hệ thống đèn vẫn tốt thì trường hợp này bị coi là giao dịch bị lừa dối.

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ

Theo quy định của Bộ luật dân sự thì lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó. Đe doạ trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thịêt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con mình. Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe doạ thì có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình

Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu, ví dụ, một người có năng lực hành vi dân sự bình thường nhưng đã ký hợp đồng mua bán tài sản trong lúc say rượu, không nhận thức được hành vi của họ thì trong trường hợp này hợp đồng bị coi là vô hiệu nếu người đó yêu cầu toà án tuyên hợp đồng đó là vô hiệu.

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì khi có yêu cầu, toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn, quá thời hạn đó mà các bên không thực hiện thì giao dịch đó bị vô hiệu. Ví dụ, A và B thoả thuận mua bán nhà nhưmg không ký hợp đồng bằng văn bản [theo quy định của pháp luật thì hợp đồng mua bán nhà phải được giao kết bằng văn bản], khi có tranh chấp xảy ra, toà yêu cầu các bên phải hoàn tất thủ tục theo quy định của pháp luật trong một thời hạn nhất định nhưng không bên nào thực hiện. Theo yêu cầu của một hoặc các bên, toà án có thể tuyên hợp đồng này là vô hiệu.

Ngoài các quy định trên, Bộ luật dân sự còn có quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được, đó là trong trường hợp ngay từ thời điểm ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lí do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu.

Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được. Ví dụ, A cam kết sẽ sản xuất để bán cho B một loại thuốc có thể chữa được bệnh tim mạch, B tin tưởng rằng A có thể bán cho mình loại thuốc đó nên đã giao kết hợp đồng với A nhưng vì lí do khách quan A không thể sản xuất được loại thuốc đó và A cũng biết rằng mình sẽ không thể giao cho B loại thuốc đó nhưng lại không thông báo cho B biết. Trong trường hợp này hợp đồng bị coi là vô hiệu và A phải bồi thường cho B.

Quy định trên đây cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đông có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý.

Theo quy định của Bộ luật dân sự hiện hành thì sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng chính trừ trường hợp các bên thoả thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.

A .LỜI MỞ ĐẦU1.Tính cấp thiết của đề tàiHiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, nền kinh tếnước ta phải phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảmđộc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, khi Việt Nam là thànhviên của tổ chức kinh tế thế giới [WTO]; Nền kinh tế nước nhà cần phải vữngmạnh, hệ thống pháp lụât liên quan phải thông thoáng nhưng chặt chẽ để các nhàđầu tư trong và ngoài nước yên tâm đầu tư. Hơn hết các cá nhân tổ chức hoạtđộng thương mại cần thiết phải bản lĩnh thông minh và không chỉ đừn lại ở biếtluật mà còn hiểu đúng, hiểu sâu và nắm bắt kịp thời, chính xác các quy địnhpháp luật hiện hành để thu lợi nhuận và hạn chế rủi ro cho chính bản thân.Công cụ để xác lập quyền, nghĩa vụ của các chủ thể hoạt động thươngmại là hợp đồng, Do đó hợp đồng phải tuân thủ theo quy định của pháp luật đểcó hiệu lực ràng buộc các bên có kết ước, góp phần bảo vệ lợi ích chính đángcủa những chủ thể kinh doanh chân chính. Chính vì vậy khi có những tranhchấp, rủi ro bất ngờ có liên quan đế hợp đồng và hợp đồng thương mại bị tuyênbố vô hiệu sẽ khó tránh khỏi tổn thất. Cho nên phải hiểu sâu, hiểu rõ các quyđịnh của pháp luật hiện hành về các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thươngmại đẻ tiến hành kinh doanh có hiệu quả.2.Mục đích nghiên cứuNghiên cứu đề tài nhằm hiểu sâu hơn các vấn đề pháp lý của hợp đồngthương mại vô hiệu.Từ đó,nêu lên tình hình thực tiễn và đưa ra những kiếnnghị,giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật hợp đồng thương mại.3.Nhiệm vụ nghiên cứu đề tàiLàm rõ các vấn đề pháp lý về hợp đồng thương mại vô hiệu.Đưa ra thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng thương mại và đưa rakiến nghị giải pháp mới.4.Phạm vi nghiên cứuCác trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại.15.Phương pháp nghiên cứuPhương pháp chung : Dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng,chủ nghĩaMác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.Phương pháp riêng : phương pháp phân tích,so sánh.6. Kết cấu đề tài:Phần A : Lời mở đầuPhần B : Nội dung :Chương I : Các vấn đề pháp lý về hợp đồng thương mạiChương II: Thực tiễn tài phán các hợp đồng thương mại vô hiệuChương III : Một số kiến nghị,giải phápPhần C : Lời kết2B. NỘI DUNGCHƯƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ1.Các vấn đề chung1.1 Khái niệm hợp đồng, hợp đồng thương mạiTrong một nền kinh tế thị trường vai trò của hợp đồng vô cùng quan trọng,đò là một công cụ pháp lý hết sức quan trọng, đó là công cụ pháp lý thông dụngnhất trong việc kinh doanh buôn bán.Theo điều 388 bộ luật dân sự 2005 “ Hợp đồng là sự thỏa thuận của hai haynhiều bên nhằm phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ”.Luật thương mại 2005 không định nghĩa thế nào là hợp đồng thương mạinhưng theo Điều 1 và Điều 2 của luật thương mại 2005 [ Nêu phạm vi điềuchỉnh và đối tượng điều chỉnh của luật thương mại 2005] có thể định nghĩa: “Hợp đồng thương mại là sự thoả thuận để thực hiện các hoat động thương mạitrên lãnh thổ Việt Nam và hoạt động thương mại ngoài lãnh thổ Việt Nam nếucác bên thỏa thuận áp dụng luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quôc tế màViệt Nam là thành viên có quy định áp dụng luật này.1.2 Mối quan hệ giữa hợp đồng và hợp đồng thương mại.Hợp đồng thương mại là một dạng của hợp đồng, nội dung và hình thứcký kết hợp đồng thương mại đều phải tuân thủ theo quy định của luật dân sự vàcác luật khác có liên quan.Trong hầu hết các quốc gia trên thế giới,người ta không phân biệt giữahợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự,các quy định của hợp đồng dân sự ápdụng cho hợp đồng thương mại.Tuy nhiên,ở Pháp,một số hợp đồng thương mạiđược điều chỉnh bằng luật thương mại.Ở Việt Nam,Điều 3 bộ luật thương mại 2005 có quy định : “Hợp đồngthương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi,bao gồm mua bán hànghoá,cung ứng dịch vụ,đầu tư,xúc tiến thương mại và các hoạt động khác nhằmmục đích sinh lợi”.Các hợp đồng thực hiện các hoạt động thương mại này doluật thương mại chi phối nên tạm gọi là hợp đồng thương mại.Nhưng lợi ích của3sự phân biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại chẳng còn là bao khibộ luật dân sự 2005 ra đời đã quy tụ mọi tranh tụng xét xử về một mối : toà ándân sự xét xử mọi tranh chấp về dân sự ,thương mại ,lao động…Mặc dù vậy,cáchợp đồng thương mại cũng có những đặc tính riêng của nó,mà nó còn phải phụthuộc vào luật thương mại.Nói chung,việc phân định ra hợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự làrất khó.Ví dụ : công ty A [nhà sản xuất] ký hợp đồng bán cho công ty B [nhà kinhdoanh] một chiếc xe tải,thì khi đó,hợp đồng ký kết giữa hai công ty là hợp đồngcó tính cách thương mại đối với cả hai bên.Nếu công ty A ký hợp đồng bán chiếc xe tải đó cho anh C,thì lúc đó,hợpđồng có tính cách thương mại đối với công ty A nhưng có tính cách dân sự đốivới anh C. Nếu anh C ký hợ đồng chuyển nhượng chiếc xe lại cho anh D,để anhD sử dụng thì hợp đồng có tính chất dân sự đối với cả hai bên.1.3 Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thương mại1.3.1 Năng lực chủ thểNăng lực chủ thể là yếu tố pháp lý được các thành viên trong thương trườngquan tâm.* Năng lực pháp luật“Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền vànghĩa vụ dân sự” [ khoản 1 điều 14 bộ luật dân sự 2005].- Cá nhân là chủ thể đầu tiên của các quan hệ xã hội, là tổng hoà các mối quanhệ xã hội vì thế năng lực phápluật dân sự của các nhân là tiền đề, là khảnăng, điều kiện cần thiết để công dân có quyền, nghĩa vụ; Là thành phầnkhông thể thiếu được của cá nhân với tư cách chủ thể của quan hệ pháp luậtđân sự, lad một mặt của năng lực chủ thể.- Pháp nhân: có năng lực pháp luật kể từ thời điểm tư cách pháp nhân phátsinh. Khác với tư cách pháp luật của cá nhân, năng lực pháp luật của phápnhân do luật xác định về nội dung, phù hợp với đặc điểm của từng loại phápnhân, thậm chí từng pháp nhân của cá nhân. Mỗi pháp nhân có một mục đích4xác định để theo đuổi do đó có khả năng có những quyền và nghĩa vụ giớihạn bởi chính các mục đích đó. Bởi vậy khi giao dịch với pháp nhân muốntránh khả năng giao dịch bị tuyên bố vô hiệu do không phù hợp với mụcđích của pháp nhân đối tác, nên tham khảo điều lệ của pháp nhân trước khitiến hành giao kết* Năng lực hành vi:- Cá nhân: tư cách chủ thể của cá nhân chỉ đầy đủ, hoàn thiện, độc lập khi họcó đầy đủ năng lực hành vi dân sự, ngoài năng lực pháp luật dân sự vốn làthuộc tính được pháp lụt ghi nhận cho mọi cá nhân.“ Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khẳ năng của cá nhân bằng hành vicủa mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”.[ Điều 17 bộ luật dân sự2005].Nếu năng lực pháp luật là tiền đề, là quyền dân sự khách quan của chủthể, thì năng lực hành vi là khả năng hành động của chính thể tạo ra các quyền,thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Cùngvới năng lực pháp luật,năng lực hànhvi dân sự là thuộc tính của cá nhân,tạo ra tư cách chủ thể của cá nhân trong cáctrong các quan hệ dân sự.Bất cứ ai cũng có quyền ký kết hợp đồng trừ những người bị pháp luaatjcoi là không có năng lực hành vi được quy định tại điều 19 bộ luật dân sự2005 : “người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”. Người thành niênlà người đủ từ 18 tuổi trở lên [ điều 18 bộ luật dân sự 2005 ] , do đó người chưađủ 18 tuổi tròn trở xuống là người chưa thành niên và trên nguyên tắc không đủnăng lực kí kết hợp đồng . Ngoài ra , những người mắc bệnh tâm thần hoặc mắcbệnh khác mà không thể nhận thức được hành vi của mình , và các ngườinghiện ma tuý hay chât kích thích khác có thể bị toà án ra quyết định tước bỏhay hạn chế năng lực hành vi [ điều 22 – 23 bộ luật dân sự 2005 ] . Người kí kếthợp đồng mà không có năng lực hành vi dân sự thì hợp đồng bị tuyên vô hiệu .- Pháp nhân không có năng lực hành vi thực . Suy cho cùng , khái niệm nănglực hành vi của pháp nhân không thể được xây dựng như 1 khái niệm ứng dụngđược . Pháp nhân dù được nhân cách hoá , không phải là con người cụ thể và do5đó , không thể tự mình xử sự . Ngay cả các cơ quan của pháp nhân cũng chỉ vậnhành thông qua vai trò của những cá nhân cụ thể đảm nhận các chức vụ cụ thể .Suy cho cùng , pháp nhân luôn luôn phải được đại diện , từ khi được thành lậpcho đến khi chấm dứt , trong tất cả các hoạt động của mình . Năng lực hành vicủa pháp nhân thực ra là năng lực pháp nhân vay ,mượn của những con ngườimà phấp nhân hoá thân vào . Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân làngười đứng đầu pháp nhân .1.3.2 . Sự tự nguyện tự do của các bên giao kết hợp đồng .Bản chất của mọi giao dịch là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí chonên sự tự nguyện bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí .Không có tự do ý chí và bày tỏ ý chí không thể có tự nguyện , nếu 1 trong 2 yếutố này không có hặc không thống nhất cũng không thể có tự nguyện . Sự tựnguyện của 1 bên hoặc sự tự nguyện của các bên trong hợp đồng là 1 trongnhững nguyên tắc được quy định tại điều 4 bộ luật dân sự 2005: nguyên tắc tựdo , tự nguyện , cam kết , thoả thuận . vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là viphạm phấp luật . Vì vậy , giao dịch không có sự tự nguyện không làm phát sinhhậu quả pháp lý .Luật thương mại chỉ có hiệu lực ràng buộc các nghĩa vụ pháp lý của cácbên tham gia được cho là đã tự nguyện gánh vác các nghĩa vụ đó .1.3.3 . Nội dung , mục đích của hợp đồng“Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mongmuốn đạt được khi xác lập giao dịch đó ’’ [ Điều 123 Bộ luật dân sự Việt Nam2005]. Nội dung của mọi giao dịch là tổng hợp các điều khoản mà các bên đãcam kết, thoả thuận trong gioa dịch. Những điều khoản này xác định quyềnnghĩa vụ của các bên pháp sinh từ giao dịch. Mục đích và nội dung của giao dịchcó quan hệ chặt chẽ với nhau. Con người xác lập, thực hiện giao dịch luôn nhằmđạt được mục đích nhất định. Để các giao dịch có hiệu lực pháp luật thì mụcđích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, nói cáchkhác các giao dịch này không vi phạm điều cấm của pháp luật, không xâm phạmđến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của6người khác [ Điều 10 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005]. Vì thế, chỉ những tài sảnđược phép giao dịch, những công việc được thực hiện không vi phạm điều cấmpháp luật, không trái đạo đức xã hội là những giao dịch có mục đích và nội dunghợp pháp làm phát sinh hiệu lực pháp luật của giao dịch đó. Tuy vậy nội dungcủa hợp đồng cũng phụ thuộc vào tự do ý chí của các bên giao kết trong khuônkhổ của pháp luật.Nội dung và mục đích của hợp đồng phải tuân thủ các quy định của phápluật, đồng thời pháp luật cũng cho chủ thể có quyền tự do thể hiện ý chí củamình trong nội dung và hình thức của hợp đồng.Tính độc lập của ý chí thể hiện trong nội dung của hợp đồng. Chủ thể củaquan hệ pháp luật có quyền tự do giao két hoặc không giao kết hợp đồng, cóquyền đồng ý hoặc không đồng ý những điều khoản trong hợp đồng. Khi mộthợp đồng có điều khoản không rõ ràng, thì không dựa vào ngôn từ của hợp đồngmà còn phải căn cúa vào ý chí chung của các bên để giải thích điều khoản đó.Tính độc lập của ý chí thể hiện trong hình thức của hợp đồng. Nó đượckhẳng định bằng các quy tắc đòi hỏi việc giải thích hợp đồng theo ý chí thực. Tựdo ý chí khi giao kết hợp đồng thì chủ thể và khách thể đều phải tuân theo quyđịnh của pháp luật vì “ mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà cácbên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó [ Điều 123 Bộ luật dân sự2005]. Nói cách khác chủ thể phải có đầy đủ năng lực pháp luật, nội dung vàmục đích của hợp đồng phải hợp pháp thì giao dịch mới được pháp luật bảo hộ.1.4. Hình thức của hợp đồngHình thức giao kết hợp đồng là sự bộc lộ ý chỉ của các bên giao kết đượcghi nhận theo một cách nào đó. Trên nguyên tắc, các bên được tự do lựa chọncách thức bộc lộ ý chí của mình. Thông qua cách biểu hiện này, người ta có thểbiết được nội dung của giao dịch kinh doanh đã xác lập. Hình thức của hợp đồngcó ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng, bởi đó là chứng cứ xác nhận cácquan hệ kinh doanh đã và đang tồn tại giữa các bên từ đó xác định trách nhiệmkhi có vi phạm7Điều 127 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005: Giao dịch dân sự không có mộttrong các điều kiện được quy định tại điều 122 Bộ luật dân sự 2005 thì vô hiệu.Mà ở Khoản 2 Điều 122 Bộ luật dân sự quy định: “ Hình thức giao dịch dân sựlà điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quyđịnh”.Tuy nhiên theo đoạn cuối Khoản 2 Điều 401 Bộ luật dân sự quy định “Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừtrường hợp pháp luật có quy định khác” cho nên không thể suy đoán theo điều127 và 122 trên mà tuyên bố hợp đồng vô hiệu ngay lập tức.Có thể nói hình thức hợp đồng được hiểu là sự thể hiện nội dung của hợpđồng và những thủ tục mà pháp luật quy định bắt buộc các bên giao kết hợpđồng phải tuân thủ khi ký kết một số loại hợp đồng nhất định.1.5 Sơ lược hợp đồng vô hiệuHợp đồng vô hiệu nếu không đủ các điều kiện có hiệu lực theo quy địnhcủa pháp luật như đã phân tích ở trên thì vô hiệu; một hợp đồng vô hiệu thìkhông phát sinh hiệu lực gì cảSự vô hiệu của hợp đồng được phân thành hai loại: vô hiêu tuyệt đối vàvô hiệu tương đối.* Vô hiệu tuyệt đối:- Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội[ Điều 128 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005]- Khi giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịchkhác hoặc nhằm trốn tránh nghĩa vị đối với người thứ ba [ Điều 129 Bộ luậtdân sự Việt Nam 2005]- Khi hình thức của giao dịch không tuân thủ theo quy định bắt buộc của phápluật [ Điều 134 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005]* Vô hiệu tương đối:Điều 135 Bộ luật dân sự 2005: “ Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khimột phần của giao dịch bị vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực còn lạitrong giao dịch”. Như vậy, chỉ riêng những điều khoản bắt hợp pháp bị tiêuhuỷ, còn các phần khác của hợp đồng vẫn có hiệu lực.8Các trường hợp vô hiệu tương đối:- Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vidân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện[ Điều130 Bộ luật dân sự 2005]- Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn.[ Điều 131 Bộ luật dân sự 2005]- Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ[ Điều 132 Bộ luật dân sự Việt Nam2005]- Hợp đồng vô hiệu do nười xác lập đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã xáclập giao dịch tại thời điểm không nhận thức và làm chủ hành vi của mình[Điều 133 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005].2. Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại2.1 Khái quát những quy định của pháp luật về các trường hợp vô hiệu củahợp đồng thương mạiHợp đồng là thoả thuận giữa các bên làm phát sinh thay đổi,chấm dứquyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao kết nhằm đạt được lợi ích hợppháp mà họ mong muốn.Khi giao kết,các bên phải tôn trọng một số điềukiện.Bất kỳ hoạt động kinh doanh nào thực hiện với đối tác bên ngoài đều phảithông qua hợp đồng.Đây chính là ràng buộc nghĩa vụ pháp lý của các bên thamgia kinh doanh.Chỉ những giao dịch hợp pháp mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháplý của các bên.Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 đã quy định 4 điều kiện có hiệulực pháp luật của hợp đồng như đã phân tích ở trên.Như vậy,các hợp đồng không tuân thủ một trong 4 điều kiện trên thì vôhiệu [có thể tương đối hoặc tuyệt đối].2.2 Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại:2.2.1 Các trường hợp vô hiệu theo quy định chung2.2.1.1Hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm điều cấm pháp luật, trái đạođức xã hội“ Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không chophép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.9Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với ngườitrong đời sống xã hội được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng” [ Điều 128 Bộluật dân sự Việt Nam 2005].Quy định hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạođức xã hội ở Điều 128 Bộ luật dân sự 2005: “ Giao dịch dân sự có mục đích vànội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu”.Vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội bao gồm nội dungvà mục đích của giao dịch trái pháp luật và đạo đức xã hội. Hợp đồng này đươngnhiên bị vô hiệu không phụ thuộc vào ý chí của các bên giao kết hợp đồng.Pháp luật của các nước đều không thừa nhận các giao dịch dân sự màtrong đó nội dung của chúng vi phạm các điều cấm của pháp luật, trái đạo đực.Các giao dịch của các chủ thể vi phạm điều cấm của pháp luật là hành vi bất hợppháp và do đó vô hiệu.Khi xem xét đến những ảnh hưởng của sự bất hợp pháp của các giao dịch trongtrường hợp này cần phải tính các yếu tố:- Thứ nhất, biểu hiện cụ thể của sự bất hợp pháp [ vi phạm điều cấm của phápluật hay xâm hại đến trật tự công cộng].- Thứ hai, các bên có biết về sự bất hợp pháp không?- Thứ ba, phần nội dung bất hợp pháp của giao dịch có thể tách ra khỏi nhữngnội dung còn lại hay không?Song vấn đề là ở chỗ : khi nào được coi là vi phạm đạo đức xã hội . Có 1 sốgiao dịch dân sự mặc dù không bị pháp luật ngiêm cấm nhưng vẫn có thể coi làvô hiệu vì vi phạm trật tự công cộng và đạo đức xã hội . Sự khác biệt của 2 kháiniệm này không phải khi nào cũng rõ rệt . Trong nhiều trường hợp , giao dịchhợp đồng cũng bị coi là vô hiệu khi :- Vi phạm nguyên tắc công bằng ;- Lợi dụng sơ suất hoặc hoàn cảnh khó khăn , bí thế của người khác nhằmmục đích thu lợi bất công quá đáng10- Hạn chế quyền tự do của người khác [ ví dụ : trong 1 hợp đồng thuê mướnhoặc chuyển giao 1 công việc nhất định lại kèm theo điều kiện cấm 1 bênthực hiên loại hình công việc tương tự trong phạm vi rộng và thời gian dài . ]- Các giao dịch có tính chất đầu cơ hay cho vay nặng lãi .Hiện nay , sự quá độ về đạo đức đang gây khó khăn cho việc xây dựng vàphát triển nhân cách . Những chuẩn mực cũ đã lỗi thời nhưng trong nhiều trườnghợp vẫn được ngộ nhận như là giá trị . Nững chuẩn mực mới đang hình thànhchưa đủ sức xác lập tính phổ biến trong hiện thực để định hướng nhân cách . Vìvậy , cần phải chủ động xây dựng nhân cách đạo đức trong điều kiện hiện nay ,cần xác định 1 hệ thống chuẩn mực mới phù hợp với thời đại . Có như vậy mớigiúp chủ thể tham gia các giao dịch trong hoạt động thương mại , không vi phạmđạo đức xã hội , điều cấm pháp luật .2.2.1.2 Hợp đồng thương mại vô hiệu do giả tạo* Giả tạo trong hoạt động thương mại :Trong hoạt động của các cơ quan , doanh ngiệp , quyền sở hữu tài sản thuộcvề nhà nước hoặc thuộc về nhà đầu tư hay cổ đông góp vốn . Những người đạidiện cho cơ quan , đơn vị trong hoạt động đầu tư , kinh doanh là những ngườitham gia giao kết hợp đồng nên họ quan tâm đầy đủ và trước hết đến lợi ích củađơn vị mình , tìm kiếm lợi nhuận tốt nhất cho đơn vị mình trong phạm vi có thể .Nhưng do không phải là chủ sở hữu đích thực , người trực tiếp tiến hành cáchoạt động này ó thể không có lợi ích kinh tế cụ thể từ những giao dịch mà mìnhtiến hành hoặc được hưởng 1 phần nào đó từ lợi ích thu được mà những lợi íchđó nhiều khi quá nhỏ so với điều kiện cho phép , họ có thể tìm kiếm những cơhội , thông đồng với đối tác để mang lại lợi ích riêng cho cá nhân . Chính yếu tốđó đã góp phần hình thành những hợp đồng giả tạo .* Khái niệm :Hợp đồng giả tạo theo quy định của luật Việt Nam : “ Khi các bên xác lậpgiao dịch dân sự 1 cách giả tạo nhằm che giấu 1 giao dịch dân sự khác thì giaodịch dân sự giả tạo vô hiệu , còn giao dịch che giấu vấn có hiệu lực , trừ trườnghợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của bộ luật này ’’ [ điều 129 Bộ11luật dân sự Việt Nam 2005 ] . Nói cách khác , giao dịch dân sự giả tạo là giaodịch có nội dung được thiết lập không phản ánh ý chí đích thực của các bên .* Có 2 trường hợp giả tạo :- Giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ 3 : “ trong trườnghợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ 3 thì giaodịch đó vô hiệu ” [ Điều 129 Bộ luật dân sự 2005 ]VD : giá ghi trong hợp đồng là 20 triệu đồng trong khi giá thực tế 2 bên giaodịch là 100 triệu . Sự che giấu này trước tiên nhằm mục đích trốn thuế . Hợpđồng giả tạo này sẽ bị tuyên vô hiệu do trốn tránh nghĩa vụ đóng thuế cho cơquan nhà nước.- Giả tạo nhằm cố ý che giấu 1 giao dịch khác : giao dịch giả tạo vô hiệu ,còn giao dịch che giấu vẫn có hiệu lực , trừ trường hợp giao dịch đó cũng vôhiệu [ Điều 129 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 ].VD : X không phải là đối tượng làm dịch vụ môi giới cho công ty A , nhưng Xđẫ giả tạo ra 1 số hợp đồng mua bán giữa các công ty khác với công ty A và nhờB lập các hợp đồng môi giới giả tạo để rút tiền hoa hồng của công ty A thìnhững hợp đồng đó vô hiệu .2.2.1.3 Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ hình thức :* Theo điều 124 bộ luật dân sự 2005 có quy định hình thức của các giao dịch :“ giao dịch dân sự được biểu hiện bằng lời nói , văn bản hoặc bằng hành vi cụthể “.Khoản 2, điều 122 bộ luật dân sự 2005 : “ hình thức giao dich dân sự làđiều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định “,cho nên , chỉ khi nào có quy định và luật yêu cầu thì hợp đồng mới phải tuânthủ về hình thức. Hình thức của hợp đồng không phải là yếu tố đương nhiênlàm hợp đồng vô hiệu và cũng không thể dựa vào lập luận do hợp đồng khôngtuân thủ hình thức nên vô hiệu.[ khoản 2 điều 401].Chỉ những giao dịch pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng vănbản, phải có chứng thực , chứng nhận, đăng ký hoặc xin phép thì mới ràng buộccác bên tuân theo, nếu các bên khôgn tuân thủ các quy định này đồng thời có12yêu cầu thì toà án xem xét và buộc các bên thực hện theo yêu cầu về hình thứctrong 1 thời hạn nhất định. Chỉ khi các bên không thực hiện và hoàn tất các quyđịnh về yêu cầu của hình thức về giao dịch trong thời hạn mà toà án ấn định thìgiao dịch mới đương nhiên vô hiệu . Bên có lỗi làm cho giao dich vô hệu phảibồi thường thiệt hại.Ví dụ :2.2.1.4 Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên , nười mất năng lực hànhvi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập , thựchiện,Người không có năng lực hành vi hoặc có năng lực hành vi không đầy đủkhông thể có đủ điều kiện để tự do thể hiện ý chí. Vì vậy giao dịch của họ phảiđược xác lập, thiết lập dưới sự kiểm soát của người khác hoặc do người khácxác lập thực hiện.Tuy nhiên , giao dịch do những người này xác lập không mặc nhiên bị coilà vô hiệu mà chỉ vô hiệu khi có yêu cầu của những người đại diện cho họ: “Khigiao dịch dân sự do người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dânsự hoặc nười bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập , thực hiện thì theo yêucầu của người đại diện của người đó, toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếutheo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại dienj của họ xáclập, thực hiện “ [điều 130 bộ luật dân sự 2005] .Ngoài ra , “ Người có năng lực hanh vi dân sự nhưng đã xác lập vào đúngthời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêucầu toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu” [điều 133 bộ luật dân sự 2005].Ví dụ : anh A [giám đốc công ty X],trong một lần say rượu không làm chủđược bản thân đã ký hợp đồng mua bán hàng hoá bất lợi cho công ty X với mộtcông ty khác.Khi tỉnh rượu anh ta mới nhớ ra.Như vậy,A cần chứng minh minhđã không nhận thức được và không làm chủ được bản thân trong trường hợp đóvới toà án thì A có quyền yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.132.2.1.5 Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe doạa. Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối:* Hành vi lừa dối trong giao kết hợp đồngLừa dối là 1 thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày.Theo cách nói thông thường lừa dối là lừa bằng thủ đoạn nói dối, gian lận đểlàm cho người ta nhầm tưởng mà nghe theo, tin theo. Từ những lời lẽ gian dốiđến những mánh khoé xảo trá dùng để khiến người ta giao kết hợp đồng đều làlừa dối . Cũng có cách hiểu : “ lừa dố là hành vi cố ý đưa thông tin sai khôngđúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật . Nếu không có các thủ đoạnấy thì bên kia sẽ không giao kết hợp đồng “.Ở Việt Nam coi lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của 1 bênnhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể , tính chat của đối tượng hoặc nộidung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó.* Hợp đông lừa dốiTheo bộ luật dân sự 2005 – điều 132 : “Lừa dối trong giao dịch là hành vicố ý của 1 bên hoặc của người thứ 3 nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủthể , tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lậpyêu cầu của giao dịch đó”.Ví dụ : một bác nông dân lên thị trấn mua xe máy của công ty kinh doanhxe máy.Người bán hàng thấy bác nông dân có vẻ không hiểu biết rõ về chiếc xemáy mà bác muốn mua.Vì muốn bán được hàng nên anh ta đã “quảng cáo” quáđà,những đặc tính mà chiếc xe máy đó không có,anh ta cũng đưa vào.Bác nôngdân đã ký hợp đồng mua xe máy với người bán hàng[hợp đồng dân sự với bácnông dân,nhưng là hợp đông mua bán hàng hoá – hợp đồng thương mại đối vớicông ty kinh doanh xe máy] mà không biết mình đã bị lừa một số đặc điểm củachiếc xe máy.vậy nên,hợp đồng mua xe máy giữa bác nông dân và người bánhàng được hình thành nên từ hành vi lừa dối.Nếu,sau này,bác nông dân mà pháthiện ra thì bác có thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu.Tóm lại để có thể xem xét một hành vi có phải là sự lừa dối trong giao kếthợp đồng hay không người ta căn cứ vào các yếu tố sau :14- Một là, phải có sự cố ý đưa thông tin sai lệch hoặc bỏ qua sự thật của 1 bên.- Hai là, người nghe phải không biết về sự sai lệch đó- Ba là, người nghe đã tin vào sự sai lệch do 1 bên đưa ra nhằm giao kết hợpđồng- Bốn là, phải có thiệt hại xảy rab. Hợp đồng vô hiệu do bị đe doạ* Sự đe doạTheo điều 132 bộ luật dân sự 2005 : “Đe doạ trong giao dịch dân sự alfhành vi cố ý của 1 bên hoặc của người thứ 3 nhằm làm cho bên kia buộc phảithực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uytín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha mẹ, vợ chồng, con của mình”.Ví dụ : Đại diện công ty A buộc B[giám đốc công ty X ] phải tiến hànhgiao kết hợp đồng với mình bằng cách đe doạ sẽ công bố chuyên đời tư của C[ vợ của B] . Hợp đồng được xác lập trong trường hợp này không xuất phát từsự tự nguyện, tự do ý chí của B nên sẽ bị tuyên là vô hiệu.* Điều kiện của sự đe doạ :- Sự tiềm ẩn của hiểm hoạNếu người đối tác đã dùng đến vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực để nạn nhânchấp nhận giao kết hợp đồng, thì hợp đồng vô hiệu không phải vì sự ưng thuậnkhôgn hoàn hảo mà hoàn toàn không có sự ưng thuận.Nói rõ hơn, đe doạ , ởgóc nhìn của người bị đe doạ , hình thành từ 2 yếu tố : 1 yếu tố khách quan-mối nguy hiểm bủa vây – và yếu tố chủ quan- nỗi sợ. Chính dưới sự đe doạ đóvà ý chí được bày tỏ của người bị đe doạ không phản ánh trung thực ý chí nộitâm của người này [ điều 132 bộ luật dân sự 2005 ].- Người đe doạ :Việc đe doạ phải xuất phát từ bên kết ước hoặc xuất phát từ sự đe doạ củangười thứ 3 . Với cách hiểu đó thì đe doạ có thể là hành vi của bất kỳ ngườinào không nhất thiết là hành vi của người kết ước với người đe doạ.- Tính chất của sự đe doạ :15Sự đe doạ phải có tác dụng quyết định đối với sự ưng thuận [ miễn cưỡng ]của người bị đe doạ , nghĩa là người bị đe doạ chấp nhận giao kết chỉ vì bị đedoạ- Người bị đe doạ :Hành vi đe doạ có thể được thực hiện đối với chính người giao kết hoặc đối vớicha mẹ , vợ chồng , con của người này .Đối tượng của hành vi đe doạ có thể là con người [ đe doạ dùng vũ lực để gâythương tích , đe doạ công bố các thông tin về đời tư … ] hặc tài sản [ đe doạ đốtnhà , huỷ hoại cây cối , mùa màng … ]2.2.1.6. Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫnNhầm lẫn là những khiếm khuyết của sự thể hiện ý chí của các bên tronggiao kết hợp đồng và liên quan đến việc trình bày 1 cách trực tiếp hay gián tiếpvề những sự việc không đúng sự thật hay không tiết lộ về 1 sự thật . Nhầm lẫnđưa đến hệ quả là hợp đồng có thể bị vô hiệu do thoả thuận không thể hiện đúngý chí thật của các bên .Bộ luật dân sự 2005 Điều 131 : “ khi 1 bên có lỗi vô ý làm cho bên kianhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch , thì bên nhầmlẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó ; nếu bên kiakhông chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịchvô hiệu ” . Theo luật việt nam , sự nhầm lẫn này là do sự vô ý của 1 bên , vàthực chất , cả 2 bên đều mong muốn giao kết 1 hợp đồng ngiêm túc , đúng phápluật .* Giao kết hợp đồng do nhầm lẫnNgười giao kết chỉ có thể phản ứng với tư cách người bị nhầm lẫn 1 khi chính sựnhầm lẫn đó có ảnh hưởng quyết định đối với sự ưng thuận của mình- Bằng chứng về sự nhầm lẫnMột cách hợp lý , người cho rằng mình đã nhầm lẫn phải chứng minh sự nhầmlẫn đó . Việc chứng minh có thể thực hiện bằng bất kỳ phương tiện nào đượcthừa nhận trong luật chung về chứng cứ [ văn bản , lời khai , lời thú nhận ngườilàm chứng ] . Người nhầm lẫn phải chứng minh không chỉ việc nhầm lẫn mà16còn phải chứng minh tính chất quyết định của sự nhầm lẫn đối với sự ưng thuậncủa mình trong việc giao kết hợp đồng .* Hệ quả của sự nhầm lẫn :Pháp luật không cho phép người bị nhầm lẫn phát ngay yêu cầu tuyên bốhợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn : “ khi 1 bên do nhầm lẫn … thì có quyền bên kiathay đổi nội dung của giao dịch ” . Trước hết , người bị nhầm lẫn phải thảo luậnvới người đối tác về việc sửa đổi nội dung hợp đồng . Nếu người đối tác từ chốithảo luận hoặc thảo luận không có kết quả như ý muốn của người bị nhầm lẫn ,thì người này mới có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu .VD : Thương nhân A đặt công ty B gia công 1000 bộ đồ thể thao vì nhầmtưởng rằng công ty B đã gia công những bộ quần áo thể thao mà thương nhân Arất ưng ý khi tìm thấy trên thị trường . Thực tế thì công ty B vẫn chưa gia công .Trong trường hợp này , hợp đồng đã ký cần được thảo luận để chỉnh sửa lại ,nếu không A có quyền yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu .2.3 Các trường hợp hợp đồng thương mại vô hiệu riêng theo tính chất củahợp đồng thương mại2.3.1 Hợp đồng vô hiệu do người kí hợp đồng không đúng thẩm quyền* Người có thẩm quyền giao kết hợp đồng thương mại trong doanh ngiệpTheo quy định của luật doanh ngiệp 2005 thì người đại diện theo pháp luậtcủa công ty là người có thẩm quyền kí kết các hợp đồng kinh doanh thươngmại . Đại diện là 1 hoạt động phổ biến trong các lĩnh vực có sự phân công laođộng đối với sản xuất , phân phối hàng hoá và dịch vụ .Đại diện theo pháp luật là người được pháp luật quy định hoặc quy địnhkhả năng được thông báo là đại diện bởi 1 sự kiện pháp lý đã được quy định , làsự thống nhất của các thành viên trong điều lệ của tổ chức đó . Nội dung nàycũng được quy định trong luật doanh ngiệp 2005.Ví dụ : A là phó giám đốc của công ty X.Trong khi B[giám đốc] đi vắng.Ađã tự mình ký kết hợp đồng mua bán vật liệu xây dựng với công ty Z mà khôngcó sự đồng ý của B.Khi B trở về,B có quyền yêu cầu hợp đồng giưa A và côngty Z vô hiệu do người ký hợp đồng không đúngthaamr quyền ký kết.172.3.2 Hợp đồng thương mại vô hiệu do phán quyết của trọng tài thương mạiĐể giải quyết tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng,tổ chức và cánhân kinh doanh phải có thoả thuận với nhau một khoản về chọn trong tài đểgiải quyết.Trọng tài thương mại được hiểu ngắn gọn là trọng tài giải quyết các tranhchấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại,do các bên tự nguyện lựa chọn trongđó bên thứ 3 trung lập[trọng tài] sau khi nghe các bên trình bày sẽ đưa ra mộtquyết định [phán quyết trọng tài] có tính chất bắt buộc với các bên tranh chấp.Trọng tài thương mại giải quyết tranh chấp bằng sự kết hợp hài hoà giữaphương pháp hoà giải,thương lượng và giải quyết tại toà.Hình thức này cho phépcác bên tự định đoạt khi có tranh chấp xảy ra.Như vậy,ta thấy rằng,khi có tranh chấp trong lĩnh vực thương mại,trọng tàithương mại có thể tuyên bố hợp đồng vô hiệu.Và phán quyết của trọng tài phảiđược các bên thực hiện,nếu các bên không tự nguyện thực hiện phán quyết thìcó thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật.Ví dụ : Công ty A ký hợp đồng mua 100 tấn gạo của công ty B.Trong hợpđồng thương mại đã ký có thoả thuận một khoản về trọng tài nếu có tranh chấpxảy ra.Theo hợp đồng,ngày 20/4 thì công ty A phải chuyển số gạo đó sang chocông ty B.Nhưng đến ngày 25/4 vẫn chưa thấy số gạo được chuyển đến.Vì chưacó gạo nên công ty B đã bị lỡ nhiều mối làm ăn lớn với những công ty khác,thiệthại nhiều.Sau đó,công ty B yêu cầu công ty A bồi thường thiệt hại,nhưng côngty A không đồng ý.Tranh chấp đã xảy ra.Yêu cầu sự có mặt của trọng tài thươngmại phán xét.3. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệuKhi giao kết hợp đồng , các bên phải tôn trọng các điều kiện , quy định củapháp luật . Thực tế cho thấy nhiều hợp đồng đã không tôn trọng 1 trong nhữngđiều kiện này và bị tuyên bố vô hiệu . Theo pháp luật Việt Nam : “ Hợp đồng vôhiệu không làm phát sinh , thay đổi , chấm dứt quyền , nghĩa vụ dân sự của cácbên từ thời điểm xác lập … các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu , hoàn trả18cho nhau những gì đã nhận ; nếu không hoàn trả bằng hiện vật thì phải hoàn trảbằng tiền , trừ trường hợp tài sản giao dịch , hoa lợi , lợi tức thu được bị tịch thutheo quy định của pháp luật . Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường ” [ Điều137 Bộ luật dân sự 2005 ]Tất cả các hành vi khiến hợp đồng vô hiệu : giả tạo , lừa dối , đe doạ … nếuđủ yếu tố cấu thành tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự .Đồng thời,vấn đề “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” còn nhiều vấn đềđáng quan tâm.Trong một số trường hợp,việc hoàn trả bằng hiện vật không thểthực hiện được vì nhiều lý do như tài sản đã bị tiêu thụ,bị mất,bị bán lại chongười khác.Đối với các giao dịch vô hiệu tuyệt đối thì thời hiệu tuyên bố giao dịch vôhiệu không bị hạn chế [Khoản 2 Điều 136 bộ luật dân sự Việt Nam 2005].Cònđối với các giao dịch vô hiệu tương đối thì thời hiệu tuyên bố vô hiệu là ‘hainăm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập” [ Khoản 1 Điều 136 bộ luật dânsự 2005 ] . Còn điều 139 luật thương mại 2005 quy định : “ thời hiệu khởi kiệnáp dụng đối với các tranh chấp thương mại là 2 năm kể từ thời điểm quyền vàlợi ích hợp pháp bị xâm phạm ” . Tuy rằng , trên thực tế , trong 1 số trường hợp ,thời điểm xảy ra là hành vi vi phạm và thời điểm phát hiện hành vi vi phạm cóthể trùng nhau . Tuy nhiên , đã gọi là vi phạm thì dù cố ý hay vô ý thì bên bị viphạm khó có thể biết hoặc xác minh ngay lập tức khi hành vi vi phạm xảy ra ,đặc biệt là trong thương mại quốc tế . Thông thường thời điểm phát hiện hành vivi phạm được diễn ra sau thời điểm hành vi vi phạm . Cho nên nếu quy định thờihiệu khởi kiện là 2 năm theo mốc thời gian là ngày giao dịch dân sự được xáclập hoặc từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm thì có thể phươnghại đến quyền và lợi ích chính đáng của bên được hưởng quyền lợi .19CHƯƠNG II . THỰC TIỄN TÀI PHÁN VỀ CÁC TRƯỜNG HỢP VÔHIỆU CỦA HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI .* Khi bộ luật dân sự 2005 và luật thương mại 2005 chưa có hiệu lực thì pháplệnh hợp đồng kinh tế là công cụ chủ yếu bên cạch bộ luật dân sự 1995 và luậtthương mại 1997 để cơ quan có thẩm quyền tiến hành xét xử tính hiệu lực củahợp đồng . Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ra dời từ những năm đầu của thời ký quáđộ sang kinh tế thị trường tạo cơ sở pháp lý cho việc ký kết hợp đồng kinh tế ,dã từng có tác dụng thúc đẩy các hoạt động kinh tế lúc bấy giờ phát triển .Khoản 1 , điều 8 hợp đồng kinh tế nêu rõ :“ Những hợp đồng kinh tế sau đây được coi là vô hiệu toàn bộ :a . Nội dung hợp đồng kinh tế vi phạm điều cấm của pháp luậtb . Một trong các bên ký kết hợp đồng kinh tế không có đăng ký kinh doanh theoquy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồngc . Người ký hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừađảo”.Chỉ cần căn cứ vào quy định này , các hợp đồng vi phạm sẽ bị tuyên vôhiệu mà không cần xét đến nhiều yếu tố khác . Cho nên , nhiều giao dịch bìnhthường đã bị tuyên vô hiệu , và việc xử lý ngày càng theo hướng bất lợi cho kẻbội ước .VD : Một khách hàng của công ty Phú Mỹ Hưng đã kiện ra toà , yêu cầuđơn vị này tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán đã ký . Tuy nhiên , toà án nhândân thành phố Hồ Chí Minh đã xử bác , tuyên giao dịch do phó giám đốc PhúMỹ Hưng ký là vô hiệu , vì ông này không phải là đại diện theo uỷ quyền củacông ty . Nếu phán quyết được thi hành , người mua nhà sẽ phải chấp nhận nhậnlại số tiền hàng trăm triệu đồng đặt cọc 2 năm trước đó , trong khi giá đất thờigian qua biến động rất nhiều .Qua ví dụ trên , thấy được pháp lệnh hợp đồng kinh tế không những khôngtạo được sự điều chỉnh pháp lý thuận lợi hơn cho việc giao kết và thực hiện hợpđồng mà còn gây trở ngại , thậm chí gây thiệt hại về kinh tế cho các chủ thể .Trước thực trạng đố , tại kỳ họp thứ VII , ngày 14-6-2005 , Quốc hội khoá XI đã20thông qua bộ luật dân sự 2005 thay thế bộ luật dân sự 1995 . Bộ luật này đã cónhững sửa đổi bổ sung quan trọng về chế định hợp đồng , theo đó , bộ luật dânsự 2005 được coi là gốc của các ngành luật tư .Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng quy định trong bộ luật dân sự 2005không quy định trực tiếp 2 trường hợp : hợp đồng vô hiệu do người ký khôngđúng thẩm quyền và hợp đồng vô hiệu do không có dăng ký kinh doanh để thựchiện công việc không có thoả thuận trong hợp đồng . Nhưng luật hiện hành cócách hiểu và cách giải thích từng trường hợp vô hiệu của hợp đồng có cách đánhgiá về năng lực chủ thể , về sự nhầm lẫn , lừa dối … để kết luận hiệu lực củahợp đồng thương mại . Cho nên , khi hợp đồng tranh chấp rơi vào 2 trường hợp :người ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền và chủ thể không đăng ký kinhdoanh sẽ không có khung pháp lý cụ thể ràng buộc . Toà án phải căn cứ tổnghợp nhiều yếu tố : nguyên nhân tranh chấp , lỗi … để phán quyết chính xác .Nếu hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu rơi vào 2 truơng hợp trên thì cũng là hợpđồng vô hiệu tương đối và theo luật hiện hành thì có thể khôi phục lại . Đây là 1điểm tiến bộ của luật hiện hành .Bộ luật dân sự 2005 xây dựng các điều luật rõ ràng và minh bạch hơn bộluật dân sự 1995 . VD : như điều 128 bộ luật dân sự 2005 , khi vi phạm hợpđồng sẽ vô hiệu tuyệt đối , luật hiện hành đã định nghĩa rõ thế nào là điều cấmcủa pháp luật , đạo đức xã hội là gì , đay là những vấn đề luật cũ bỏ qua . Hơnnữa , ở các điều 137 , 140 , 141 , 142 ,143 bộ luật dân sự 1995 đều lặp lại 1 ý đãquy định ở điều 146 là “ Bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại ” luật 2005 đã khắcphục được sự trùng lặp này .Hoạt động thương mại trong nền kinh tế hiện nay rất đa dạng và phongphú , theo đó các hợp đồng thương mại được mở rộng ở nhiều lĩnh vực : nhàđất , chứng khoán , mua bán ngoại hối . Trên thực tiễn pháp lý , bộ luật dân sựhiện hành là tương đối linh hoạt và hợp lý : các hợp đồng mà các bên thoả thuậngiao dịch và thanh toán đồng thời bằng ngoại tệ sẽ bị coi là vô hiệu , còn hợpđồng thoả thuận giao dịch bằng ngoại tệ , nhưng có thoả thuận phương thức21thanh toán bằng tiền Việt Nam quy đổi ngang ngoại tệ thì không bị coi là vôhiệu .Tóm lại những quy định của luật hiện hành là những quy định mở và nhấtquán giữa những quy định tránh được tình trạng chồng chéo luật , từ đó toà ánhay trọng tài thương mại có thể linh hoạt xét xử đúng luật phù hợp với thực tiễnvà hạn chế thiệt hại . Tránh được tình trạng mỗi cấp khác nhau thì xét xử khácnhau , thậm chí trái ngược mà vẫn đúng luậtNhững nhà làm luật luôn nhìn từ thực tiễn để sửa đôi , bổ sung luật , góp phầnđưa luật vào thực tiễn cuộc sống . Ý thức chấp hành pháp luật của mỗi ngườicần phải được nâng cao , nếu xem thường hay không chấp hành theo quy địnhthì dù luật có chặt chẽ đến đâu cũng không bảo vệ được lợi ích chính đáng củabản thân .* Theo quy định của luật thương mại- Theo quy định tại Điều 297 Luật Thương mại năm 2005, “Buộc thực hiện đúnghợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồnghoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phảichịu chi phí phát sinh”. Như vậy, một phần trong định nghĩa về hình thức buộcthực hiện đúng hợp đồng thể hiện tính không khả thi, cụ thể là cụm từ “thực hiệnđúng hợp đồng” là khó có thể thực hiện đặc biệt là trường hợp vi phạm hợpđồng về mặt thời hạn. [Ví dụ: Trong hợp đồng có thỏa thuận thời gian giao hàngvào 8h sáng ngày 01/01/2011] thì khi đã có hành vi vi phạm hợp đồng về mặtthời hạn thì hợp đồng đó không thể “thực hiện đúng hợp đồng” được nữa vì cácbên không thể quay ngược thời gian vào thời điểm thỏa thuận trong hợp đồng đểthực hiện đúng hợp đồng.Do đó, để nâng cao tính khả thi đối với quy định vềbuộc thực hiện đúng hợp đồng, nên xây dựng lại khái niệm về chế tài này theohướng: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên viphạm tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồngđược thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh”. Khi xây dựng lạikhái niệm theo hướng như trên, sẽ giải quyết được tình trạng quy định của Luật22đặt ra những điều “không sát thực tế” và gây ra những lúng túng, khó khăn chocác thương nhân khi áp dụng.- Chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồngTheo quy định tại Điều 308 Luật Thương mại năm 2005: “Tạm ngừng thựchiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợpđồng”.Có hai căn cứ để áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng: “[1] Xảyra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng thựchiện hợp đồng; [2] Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”.Khi chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng được áp dụng, hậu quả pháp lý đốivới hợp đồng này là “hợp đồng vẫn còn hiệu lực” và “bên bị vi phạm có quyềnyêu cầu bồi thường thiệt hại” nếu hành vi vi phạm đó gây thiệt hại cho bên bị viphạm.Như vậy, việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực củahợp đồng và hợp đồng đó sẽ tiếp tục được thực hiện trong tương lai khi điềukiện áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng chấm dứt. Vấn đề đặt ra ởđây là, sau khi áp dụng biện pháp này, thời điểm nào sẽ được coi là chấm dứtviệc tạm ngừng thực hiện hợp đồng? Căn cứ nào để một bên yêu cầu tiếp tụcthực hiện hợp đồng đã bị tạm ngừng thực hiện? Việc tiếp tục thực hiện hợp đồngbị tạm ngừng thực hiện do bên tạm ngừng tự động thực hiện hay theo yêu cầucủa bên có hành vi vi phạm hợp đồng?Tất cả những yếu tố này hiện nay đều chưa được tính đến trong Luật Thươngmại, gây khó khăn cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Để giảiquyết sự bất cập này,cần bổ sung quy định cụ thể về căn cứ, thời điểm chấm dứtáp dụng hình thức tạm ngừng thực hiện hợp đồng và nghĩa vụ của các bên khicăn cứ tạm ngừng thực hiện hợp đồng chấm dứt. Có như vậy mới đảm bảoquyền lợi của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng, tránh trường hợp lợidụng việc áp dụng chế tài này để “chấm dứt” việc thực hiện các hợp đồng trênthực tế.23CHƯƠNG III . MỘT SỐ KIẾN NGHỊ , GIẢI PHÁPLuật hiện hành mặc dù đã chặt chẽ hơn và khắc phục được 1 số hạn chế củaluật cũ ở nhiều phương diện nhưng vẫn cần phải bổ sung 1 số quy định :- Thứ nhất : về vấn đề hoàn trả cho nhau những gì đã nhận , khi hợp đồng bịtuyên bố vô hiệu , quyền và nghĩa vụ của các bên quay lại lúc ban đầu khichưa giao kết hợp đồng , tức là ngoại việc hoàn trả cho nhau những gì đãnhận thì 2 bên không còn ràng buộc bất cứ quyền và nghĩa vụ nào với nhau .Giải quyết như vậy là đúng nhưng chưa đủ . Nếu hợp đồng chưa được thựchiện thì không có vấn đề gì nhưng thực tế đa số những hợp đồng thương mạivô hiệu đều đã thực hiện , thậm chí đã gần hoàn thành xong . Trong suốt quátrình thực hiện hợp đồng đó , giá trị của những tài sản mà 2 bên đã nhận củanhau sẽ thay đổi theo thời gian do sự trượt giá của tiền , hao mòn thiết bị ;nếu không đầu tư , không giao kết hợp đồng , tài khoản trong ngân hàng sẽsinh lãi … Do đó , nếu chỉ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận , nếu khôngtrả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền thì không công bằng . Chonên cần phải trả thêm tiền lãi tương ứng với số tiền của tài sản mà các bênđã hoàn trả cho nhau , tính từ khi giao kết hợp đồng cho đến khi có bản ántuyên bố hợp đồng vô hiệu . Và điều này cần được nêu và giải thích cụ thểtrong luật [ VD : cách chứng minh thiệt hại thực tế , chứng minh sự ngaytình …] .- Thứ 2 : quy định “ bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại ” ở khoản 2 điều 137bộ luật dân sự 2005 hầu như chưa đi vào thực tế . Nếu hợp đồng mua báncafe giữa công ty A [ bên bán ] và công ty B [ bên mua ] bị tuyên bố vôhiệu , lỗi ở công ty B . Công ty B lại phá sản không hoàn trả nổi số tiền muacafé cho công ty A , tất nhiên sẽ không thể có thêm khả năng bồi thườngthiệt hại . Trường hợp này công ty B cứ lờ đi là xong , luật không đảm bảocho công ty A có quyền đòi nợ công ty B như 1 chủ nợ . Khi đó , công ty Acó thể mất trắng . Vậy nên khi 1 bên có lỗi và vi phạm hợp đồng , mặc dù24hợp đồng đã bị tuyên bố vô hiệu nhưng cần bảo vệ bên bị vi phạm như 1 chủnợ có đảm bảo đối với bên vi phạm để bảo vệ lợi ích hợp pháp của họ- Cuối cùng , hợp đồng thương mại vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó vôcùng nghiêm trọng , gây thiệt hại rất lớn cho cá nhân , tổ chức và doanhnghiệp . Cần quy định rằng , dù hợp đồng thương mại vô hiệu nhưng nếu cácbên vẫn chấp nhận , không yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng thương mại vôhiệu , chỉ yêu cầu toà phân xử tranh chấp thì nên tôn trọng nguyện vọng củacác bên để hạn chế thấp nhất thiệt hại cho họ .25

Video liên quan

Chủ Đề