Thăng long số là ai

Giới thiệu cơ cấu tổ chức Công ty cổ phần tập đoàn xây dựng Thăng Long

Với cơ cấu quản lý và tổ chức hiện đại theo Pháp luật Việt Nam và theo tiêu chuẩn ISO 9001, chúng tôi tổ chức công ty với bộ máy quản lý tinh gọn, chuyên nghiệp và hiệu quả. Cơ cấu tổ chức và quản lý của Công ty chúng tôi gồm:  

Hội đồng quản trị:

Hội đồng quản trị Công ty cổ phần tập đoàn xây dựng Thăng Long là cơ quan quản lý của Công ty, nhân danh Công ty để quyết định, thực hiện các nhiệm vụ được Đại hội đồng cổ đông giao cho hoặc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của Công ty không thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị cũng quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh hàng năm và quyết định phương án đầu tư, các giải pháp phát triển thị trường của Công ty.

Ban Giám đốc:

Bao gồm Tổng Giám đốc và các Phó Tổng Giám đốc phụ trách các lĩnh vực

  • Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật  và điều hành mọi hoạt động của Công ty; thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh do Hội đồng quản trị giao.    
  • Các Phó Tổng Giám đốc là người thực hiện các công việc theo sự phân công của Tổng Giám đốc, điều hành một số công việc khi Tổng Giám đốc đi vắng...

Các đơn vị thành viên:

Các đơn vị thành viên của Công ty hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ được ghi trong Điều lệ hoặc Quyết định thành lập. Ngoài ra còn thực hiện các nhiệm vụ khác do Ban Giám đốc giao.

Các đơn vị thành viên bao gồm:

  • Công ty cổ phần ống sợi thủy tinh Nghi Sơn
  • Trường trung cấp dạy nghề - đào tạo lái xe Thăng Long
  • Xưởng Cơ khí Công trình
  • Trung tâm khảo sát, thí nghiệm& kiểm định chất lượng xây dựng Thăng Long

Các phòng trực thuộc:

+ Phòng Vật tư - Thiết bị: Là cơ quan giúp cho Ban Giám đốc khai thác và sử dụng hiệu quả vật tư, máy móc, điều phối và mua sắm các trang thiết bị, vật tư cho hoạt động của Công ty.

+ Phòng Kế hoạch: Là cơ quan giúp Ban Giám đốc lên kế hoạch, tổ chức điều hành thực hiện các kế hoạch sản xuất, kinh doanh của Công ty, theo dõi tiến độ thực hiện sản xuất, kinh doanh của Công ty.

+ Phòng Kỹ thuật: đây là phòng có nhiệm vụ giúp cho Ban Giám đốc trong việc tổ chức, quản lý công tác kỹ thuật xây dựng, Tư vấn cho các đối tác về kỹ thuật, giám sát thực hiện công tác kỹ thuật.

+ Phòng Tổ chức - Hành chính: Là cơ quan giúp Ban Giám đốc trong việc quản lý nhân sự, tổ chức quản lý, tuyển dụng nhân sự. Thực hiện việc điều hành các công việc hành chính văn phòng tại trụ sở Công ty.

+ Phòng Kế toán- Tài chính: Là cơ quan giúp cho Ban giám đốc về công tác tài chính, kế toán. Giám sát công tác tài chính - Kế toán của các đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc.

+ Phòng Thí nghiệm: Là cơ quan có chức năng phân tích, kiểm định các vật liệu xây dựng, kết cấu công trình, điện kỹ thuật ... Đồng thời lên kế hoạch kiểm định các công trình, cập nhật các các tiêu chuẩn, yêu cầu kỹ thuật về xây dựng.

+ Phòng Tin học

Các đồng phạm với bị cáo Lê Văn Quang gồm: Phạm Ngọc Tuân [SN 1985, cựu Giám đốc Công ty TNHH nhượng quyền thương mại Thăng Long [viết tắt là Công ty nhượng quyền Thăng Long]; Vũ Đình Hùng [SN 1983, cựu Phó Giám đốc Công ty nhượng quyền Thăng Long]; Đỗ Văn [tức “Michael Do”, cựu Giám đốc Công nghệ thông tin [IT] Thăng Long Group]; Huỳnh Trọng Nghĩa [SN 1988, cựu Giám đốc truyền thông Công ty nhượng quyền Thăng Long]; Nguyễn Hồng Thái [SN 1980, cựu Giám đốc đào tạo Công ty nhượng quyền Thăng Long]; Nguyễn Thành Nam [SN 1982, cựu Phó Giám đốc phụ trách đào tạo Công ty nhượng quyền Thăng Long]; Hoàng Hải Yến [SN 1980, cựu Giám đốc tài chính Công ty nhượng quyền Thăng Long].

Đối tượng Lê Văn Quang thời điểm chưa bị bắt

Cáo trạng xác định, với mục đích kiếm tiền nhanh chóng, Lê Văn Quang thành lập ra hệ thống các công ty gọi là Thăng Long Group và Quang làm Chủ tịch HĐQT Tập đoàn này. Các đồng phạm của Quang được giao các chức danh cụ thể trong hệ thống Thăng Long Group với nhiệm vụ xây dựng các hình ảnh quảng cáo, mục đích để mọi người tin tưởng rằng, Thăng Long Group là Tập đoàn mạnh trong nhiều lĩnh vực. 

Trong Thăng Long Group, Lê Văn Quang và đồng phạm thành lập ra Công ty nhượng quyền Thăng Long và xin giấy phép kinh doanh đa cấp của Bộ Công Thương để tạo vỏ bọc hợp pháp thu hút người bị hại nộp tiền để chiếm đoạt tài sản thông qua các chương trình nộp tiền mua đơn hàng vào công ty để được hưởng tiền thưởng gấp nhiều lần mà không có tính khả thi như: mua đơn hàng trị giá 31 triệu đồng sẽ được nhận 146 triệu đồng [gấp 4,7 lần]; mua đơn hàng 155 triệu đồng được nhận 730 triệu đồng [gấp 4,7 lần]; mua đơn hàng trị giá 46 triệu đồng được nhận 153 triệu đồng [gấp 3,3 lần]; mua đơn hàng 230 triệu đồng được nhận 765 triệu đồng [gấp 3,3 lần].

Bên cạnh đó, còn tổ chức tuyên dương được nhận hàng tỷ đồng một tháng và lên bục vinh danh trước sự chứng kiến của hàng nghìn người tại “Hội nghị chi thưởng thù lao” nhằm thúc đẩy tâm lý ham làm giàu của nhà phân phối để nộp tiền kích hoạt mã số. Hàng hóa mà Quang cùng các đồng phạm bán hàng đa cấp gồm: sản phẩm làm đẹp da, thực phẩm chức năng Nutrition, thực phẩm chức năng giải rượu, giải độc gan…

Kết quả điều tra xác định, có 36.000 người bị hại tin và nộp tiền cho các bị can. Tổng số tiền các bị can đã thu của người bị hại là hơn 736 tỷ đồng, các bị can đã chi phí thực tế cho hoạt động mua hàng gần 30 tỷ đồng, còn lại là các khoản chi phí bất hợp pháp cho nhà đầu tư để lôi kéo người khác tiếp tục nộp tiền, chi phí hoạt động của các công ty phục vụ cho các hành vi phạm tội của các bị can và các khoản hưởng lợi cá nhân của các bị can… gây tổng thiệt hại của vụ án là hơn 706 tỷ đồng. 

Các trạng xác định, 8 bị can phải chịu trách nhiệm dân sự về toàn bộ số tiền chiếm đoạt hơn 706 tỷ đồng của 36.000 bị hại. Hiện mới có 1.540 bị hại trình báo và yêu cầu các bị can bồi thường số tiền bị chiếm đoạt là hơn 110 tỷ đồng. Vì vậy, Lê Văn Quang và đồng phạm phải liên đới bồi thường số tiền hơn 110 tỷ đồng này. Đối với những bị hại khác, khi có yêu cầu sẽ được xem xét giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

Đối với hành vi vi phạm pháp luật về thuế của Công ty nhượng quyền Thăng Long, theo kết luận của Giám định viên tư pháp Cục Thuế TP Hà Nội, số tiền trốn thuế của Công ty nhượng quyền Thăng Long đối với thuế thu nhập cá nhân của nhà phân phối là hơn 35 tỷ đồng. 

Tuy nhiên, số tiền thu nhập này là thu nhập không hợp pháp và hành vi gian dối trong quá trình thực hiện tội phạm lừa đảo nên không truy cứu trách nhiệm hình sự độc lập đối với các bị can về tội trốn thuế.

VKSND tối cao đã chuyển hồ sơ vụ án này và uỷ quyền cho VKSND TP Hà Nội thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án tại phiên toà sơ thẩm tới đây.

Đối với các định nghĩa khác, xem Thăng Long [định hướng].

Thăng Long [chữ Hán: 昇龍] là kinh đô của nước Đại Việt thời Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê Trung hưng [1010 - 1788]. Trong dân dã thì địa danh tên Nôm Kẻ Chợ được dùng phổ biến nên thư tịch Tây phương về Hà Nội trước thế kỷ 19 hay dùng Cachao hay Kecho.

Cảnh Thăng Long-Kẻ Chợ những năm 1690 do Samuel Baron miêu tả sau chuyến đi đến Đàng Ngoài của ông.

Năm 1010, tương truyền khi vua Lý Công Uẩn rời kinh đô Hoa Lư đến đất Đại La thì thấy rồng bay lên nên gọi tên kinh đô mới là Thăng Long, hay "rồng bay lên" theo nghĩa Hán Việt. Ngày nay tên Thăng Long còn dùng trong văn chương, trong những cụm từ như "Thăng Long ngàn năm văn vật"... Năm 2010 là kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.

Năm 1243, nhà Trần tôn tạo sửa đổi và gọi Thăng Long là Long Phượng. Cuối thời Trần, Hồ Quý Ly cho đặt tên là Đông Đô.

Năm 1428, Lê Lợi đặt kinh đô tại Thăng Long và đổi tên là Đông Kinh, vì có kinh đô thứ 2 là Tây Kinh tại Thanh Hóa. Vào khoảng thế kỷ 16, khi Đông Kinh trở thành một đô thị sầm uất, có cả người Châu Âu đến buôn bán, thì trong dân gian bắt đầu gọi Đông Kinh là Kẻ Chợ. Theo 1 người đã đến kinh đô Thăng Long là ông William Dampier người Anh thì tại đây có tới 20.000 nóc nhà, thường thấp, tường trát bùn và mái lợp rơm. Dù vậy cũng có một số nhà xây bằng gạch và lợp ngói.[1] Hoàng cung được xây dựng nguy nga hơn dù cũng làm bằng gỗ.[2]

Năm 1805, sau khi thống nhất đất nước, nhà Nguyễn đặt kinh đô tại Phú Xuân [Huế] và cho phá thành Thăng Long để xây thành theo phương pháp của phương Tây do kỹ sư Pháp giúp đỡ. Đồng thời vua Gia Long đổi tên chữ Hán của Thăng Long 昇龍, với nghĩa là "rồng bay lên" thành ra từ đồng âm Thăng Long 昇隆, nhưng mang nghĩa là "thịnh vượng"[3] khác nghĩa với thời các triều đại trước, vì cho rằng Thăng Long lúc đó không còn là kinh đô nơi vua ở cho nên không dùng biểu tượng rồng, linh vật tượng trưng cho vương quyền. Gia Long đổi phủ Phụng Thiên thành phủ Hoài Đức, còn tại kinh đô Huế cho lập phủ Thừa Thiên, trực lệ kinh kỳ. Thăng Long tồn tại cho đến thời vua Minh Mạng khi bãi bỏ Bắc Thành tổng trấn và thành lập tỉnh Hà Nội, năm 1831 niên hiệu Minh Mạng thứ 12.[4]

Từ tháng 12 năm 2002 đến nay, trên khu vực thuộc Hoàng thành Thăng Long xưa [khu vực giữa các phố Hoàng Diệu, Hoàng Văn Thụ, Độc Lập, Bắc Sơn ở Hà Nội], các nhà khảo cổ học đã tiến hành khai quật trên một diện tích khoảng hơn 19 nghìn m², phát lộ một phức hệ di tích - di vật rất phong phú, đa dạng từ La Thành - Đại La [thế kỉ 7-9] đến thành Thăng Long [thế kỉ 11-18] và thành Hà Nội [thế kỉ 19].

 

Con đường gốm sứ ven sông Hồng kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.

 

 

Bản đồ Thăng Long thời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức [1490] và phiên bản có chú thích chữ Quốc ngữ.

Thăng Long bao gồm Hoàng thành Thăng Long và một phủ kiêm lý, là phủ Phụng Thiên, phần thị thành kề cận kinh thành [phủ Phụng Thiên mới là phần gốc lõi của Kẻ Chợ]. Đứng đầu phủ Phụng Thiên là viên quan Phủ doãn, gọi là Phủ doãn phủ Phụng Thiên. Phủ Phụng Thiên [đến thời nhà Nguyễn thì đổi thành phủ Hoài Đức] vào cuối thời nhà Hậu Lê tới đầu thời nhà Nguyễn gồm 2 huyện [tổng cộng 13 tổng, 239 phường, thôn, trại [đơn vị cấp làng xã]]:

  • Huyện Thọ Xương [8 tổng: 184 phường, thôn, trại] gồm các tổng:
  • Tả Túc: gồm 20 phường, thôn: Phúc Lâm, Nghĩa Dũng, Mỹ Lộc, Nguyên Khiết Thượng, Nguyên Khiết Hạ, Trừng Thanh Thượng, Sài Thúc-Trừng Thanh Trung, Ngũ Hầu-Trừng Thanh Trung, Bề Thượng-Trừng Thanh Trung, Bề Hạ-Trừng Thanh Trung, Cựu Vệ Tả-Trừng Thanh Trung, Ngoại Ổ-Hương Bài, Kiên Nghĩa-chợ Hà Khẩu, Tả Lâu, Bến Đá, Miếu Trung Liệt, Chợ Bến Đá, Hàng Lược, Đông Hà, Đình Hạ-Phục Cổ, Thượng-Trừng Thanh Hạ, Tả-Trừng Thanh Hạ, Hữu-Trừng Thanh Hạ, Hàng Kiếm-Trừng Thanh Hạ, Đồn Tây Long, Vạn Hà, Thủy cơ Vũ Xá, Thủy cơ Đông Trạch, Thủy cơ Trúc Võng, Thủy cơ Biện Dương, Thủy cơ Tự Nhiên, Thủy cơ Lãng Hồ.
  • Tiền Túc: gồm 29 phường, thôn: Thuận Mỹ, Hữu Đông Môn, Tố Tịch, Tiên Thị [chợ Tiên, nay khoảng Lý Quốc Sư-Hàng Trống-Nhà thờ Lớn], Khánh Thụy Tả, Đồng Lạc, Hàng Nồi, An Thái, Đông Thành-An Nội, Chợ Đông Thành, Thượng-Cổ Vũ, An Nội-Cổ Vũ, Trung-Cổ Vũ, Trung Hạ-Cổ Vũ, Thị Vật-Cổ Vũ, Thái Cực, Hàng Đàn, Hoa Nương, Kim Bát Thư Khánh Thụy Hữu, Kim Bát Hạ, Đông Hà Kim Bát Thượng, Chùa Tháp-Báo Thiên, Chùa Báo Thiên, Xuân Hoa [nay khoảng phố Hàng Cân], Phúc Phố [khoảng cuối phố Nhà Chung], Tô Mộc [nay khoảng phố Hàng Khay], Chân Sơn [tức Chân Sơn Minh Cầm hay Chân Cầm, nay khoảng các phố Chân Cầm-Hàng Gai-Lý Quốc Sư-Phủ Doãn], Chiêu Hội [tức Hội Vũ].
  • Hữu Túc: gồm 18 phường, thôn: Đông Các, Hàng Chè, Hàng Chài, Tả Vọng, Tư Nhất, Kho Súng, Hậu Bi, Diên Hưng, Hà Khẩu, Đông An, Trung An, Nhiễu Thượng-Đông Tác, Nam Hoa, Hậu Lâu, Hàng Cá, Trung Nghĩa, Hạ Hà, Dũng Hàn.
  • Hậu Túc: gồm 17 phường, thôn: Nghĩa Lập, Thanh Hà, Huyền Thiên, Tiền Trung, Vĩnh Trừ, Phú Từ, Nội Tự cửa Đông Hoa, Cửa Đông Hoa, Cửa Hậu Đông Hoa, Cầu Cháy, Đồng Xuân, Vĩnh Thái, Nhiễu Trung-Đông Tác, Đông Hà, An Phú, Đồng Thuận, Hoa Đán.
  • Tả Nghiêm: gồm 23 thôn, phường: [Vũ Thạch Tiểu, Vũ Thạch Hạ] [phường Vũ Thạch cổ nay thuộc khoảng đầu các phố Quang Trung và Bà Triệu, kéo đến phố Lý Thường Kiệt], [Hồi Thuần, Thuần Mỹ] [sau nhập thành Hồi Mỹ, nay khoảng phố Lý Thường Kiệt-Trần Hưng Đạo-xóm Hà Hồi-phố Trần Quốc Toản], Đổi Mã [tức Hòa Mã], Giáo Phường [nay khoảng giữa phố Huế], Hàng Bài, [Vệ Hồ Giao [tức Long Hồ], Hậu Phong Vân] [nay là Vân Hồ], Thịnh Xương [sau nhập với Yên Ninh thành Thịnh Yên], Sài Tân [nay khoảng phố Trần Cao Vân], Cấm Chỉ Hạ [nay khoảng phố Tô Hiến Thành], Nhiễu Hạ-Đông Tác, Phúc Lâm [nay khoảng Nguyễn Công Trứ-Phố Huế], Phúc Lâm Tiểu [phía tây phường Phúc Lâm, nay khoảng Bà Triệu-Tuệ Tĩnh-Phố Huế], Phục Cổ [nay khoảng đầu Nguyễn Du-Phố Huế], Đông Hạ-Phục Cổ [khoảng giữa Phố Huế [số 133 Phố Huế]], [Thống Nhất, An Thọ [Yên Thọ]] [hợp thành thôn Yên Nhất, nay là khoảng phố Huế-Thái Phiên], Hồng Mai [tức Bạch Mai, nay khoảng phố Bạch Mai], Quỳnh Lôi [nay khoảng ngõ Quỳnh], Kim Hoa [tức Kim Liên], Trung Tự-Đông Tác [nay là khoảng phường Trung Tự quận Đống Đa].
  • Tiền Nghiêm: gồm 30 thôn: Vĩnh Xương, An Trung Thượng, An Trung Hạ, Hoa Ngư Chợ Cửa Nam, Lưu Truyền, Phù Mỹ, Hoa Cẩm, Tứ Mỹ, Cung Tiên, Linh Quang [nay khoảng ngõ Liên Hoa phố Khâm Thiên], Linh Đồng [nay khoảng đầu phố Khâm Thiên-ga Hàng Cỏ], Quang Hoa, Khâm Thiên Giám, Tương Thuận, Liên Thủy [tức Liên Trì, nay khoảng phố Liên Trì và các phố bắc hồ Thiền Quang], Thái Giao [tức Thể Giao, nay khoảng các phố Hồ Xuân Hương-Tuệ Tĩnh-Bà Triệu], Pháp Hoa [nay khoảng phố Trần Bình Trọng, tây hồ Thiền Quang], Hữu Lễ, Thiền Quang [khoảng phía tây hồ Thiền Quang], Tô Tiền [nay khoảng ngõ Tô Tiền phố Khâm Thiên], Trung Kính [nay khoảng đầu phố Khâm Thiên], Hàng Dầu, Bắc Thượng-Cổ Vũ, Bắc Hạ-Cổ Vũ, Thượng Môn-Báo Thiên, Thượng Môn Hạ-Báo Thiên, Thương Đồng Hạ-Báo Thiên, Cửa Nam-Đông Tác, An Tập [Yên Tập, nay khoảng phố Quán Sứ], [Nam Phụ, Nguyễn Khánh] [sau nhập lại thành thôn Phụ Khánh, nay khoảng cuối phố Lý Thường Kiệt-Thợ Nhuộm].
  • Hữu Nghiêm: gồm 27 phường, thôn: An Hòa [nay khoảng phố Trần Quý Cáp], Văn Mặc, Hữu Giám, Hậu Giám, Hữu Biên Giám, Minh Triết, Thị Trung Tiền, Hàng Gạo, Cầu Bươu, Quan Thổ [nay khoảng phía nam phố Khâm Thiên], Ngự Sử, Huy Văn [nay khoảng ngõ Văn Chương phố Khâm Thiên], Đỉnh Tân, Tạo Đế, Chợ Giám Hữu Biên, Hậu Bà Ngô [nay khoảng phố Nguyễn Khuyến], Tả Bà Ngô [tức Thanh Miến, nay khoảng đầu phố Văn Miếu], Trung Tả, Ngõ Hàng Kề, Nội Súng, Cổ Thành, Hàng Cháo Giám Hữu Biên, Phụng Thánh, Xã Đàn, Giao Trì [nay khoảng phố Đoàn Thị Điểm], Hàng Bột, Trung Tiền [nay thuộc phần đất quận Đống Đa].
  • Hậu Nghiêm: gồm 20 thôn, phường: Thanh Nhàn, [Hữu Vọng, Đức Bác] [Vọng Đức], [Hàng Hương, Hoa Viên] [Hương Viên hay Phương Viên, nay khoảng phố Lò Đúc-Trần Xuân Soạn-chợ Hôm Đức Viên], Thanh Lãng, [Cảm Ứng, An Hội] [Cảm Hội, nay là khoảng các phố Lò Đúc-Nguyễn Công Trứ-Cảm Hội], Hàm Châu [nay là Hàm Long], Trường Khánh [Tràng Khánh, sau nhập với Hàm Châu thành Hàm Khánh, nay khoảng phố Lê Văn Hưu], [An Lạc, Trung Chí] [nay là Lạc Trung], [Lương Xá, Yên Xá [An Xá]] [nay là Lương Yên], [Hàng Hương, Hoa Viên] Thọ Lão [nay khoảng dốc Thọ Lão-Lò Đúc], Hàng Rau [tức Hương Thái, nay khoảng phố Trần Xuân Soạn], Nhân Chiêu [khoảng đầu phố Trần Hưng Đạo-Hàn Thuyên], Hộ Quốc [nay là khoảng phố Nguyễn Huy Tự], Ngõ Hàng Trứng [nay khoảng phố Lê Văn Hưu], Tây Hổ [tức Hành Môn, nay khoảng phố Lê Văn Hưu] [nay thuộc phần đất các quận Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm].
  • Huyện Vĩnh Thuận [5 tổng: 55 xã, thôn, phường, trại] gồm các tổng:
  • Thượng: gồm 7 phường: Hòe Nhai, Thạch Khối, An Hoa, Nghi Tàm, Quảng Bá, Tây Hồ, Nhật Chiêu [Nhật Tân].
  • Trung: gồm 6 phường: Bái Ân [nay thuộc phường Nghĩa Đô quận Cầu Giấy], [Trích Sài, Võng Thị, An Thái [Yên Thái], Hồ Khẩu] [nay thuộc phường Bưởi quận Tây Hồ], Thụy Chương [Thụy Khê]. [nay thuộc phần đất các quận Cầu Giấy và Tây Hồ].
  • Nội: gồm 10 thôn, trại: Liễu Giai, Vĩnh Phúc, Thủ Lệ, Cống An, Đại An [Đại Yên], Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Giảng Võ, Vạn Bảo, Hào Nam.
  • Hạ: gồm 6 phường, trại: Quán Trạm, Nam Đồng, Yên Lãng [làng Láng], Khương Thượng, Công Bộ, Thịnh Quang. [nay thuộc phần đất các quận Đống Đa,...]
  • Yên Thành: gồm 26 phường, thôn: Yên Thành, An Thuận, Cận Hàn, An Ninh Hạ, An Canh, An Định, Chùa Trúc Bạch, Ngũ Xã Tràng, Tứ Chiếng Tràng, Chùa Long Châu, Hậu Khán Sơn, Chùa Một Cột, Chùa Tăng Phúc, Thanh Ninh, Thanh Trường, Cận Tú Nam, Tiên Châu, Dụ Hậu, Phụ Bảo, Bà Lẽ, An Viên, Quán Thánh, Khán Sơn Núi Sư, Trụ trì Trấn Vũ, An Duyên, Tân An.[5]
Tra thăng long trong từ điển mở tiếng Việt Wiktionary
  • Hà Nội
  • Hoàng thành Thăng Long

  1. ^ William Dampier: Một chuyến Du hành đến Đàng Ngoài 1688 Nhà Xuất bản Thế giới, tr. 64.
  2. ^ William Dampier: Một chuyến Du hành đến Đàng Ngoài 1688 Nhà Xuất bản Thế giới, tr. 66.
  3. ^ Đại Việt địa dư toàn biên của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, địa chí loại quyển 5, Đại Nam phương dư chính biên, tỉnh Hà Nội, trang 363.
  4. ^ Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu, trang 364.
  5. ^ Cuốn "Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19", trang 95-98.

  • Công trình khai quật Hoàng thành Thăng Long Lưu trữ 2007-04-29 tại Wayback Machine

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Thăng_Long&oldid=68386030”

Video liên quan

Chủ Đề