Quan điểm triết học Mác Lênin về ý thức xã hội

Quan điểm của triết học Mác - Lênin về nguồn gốc của ý thức?

Lời giải

Ý thức là hình thức phản ánh của một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao đó là óc người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, ý thức ra đời từ nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.

về nguồn gốc tự nhiên-. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất đặc biệt là “óc người”, ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất. Con người là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ đến hữu cơ, từ đơn bào đến đa bào, từ động vật bậc thấp đến động vật bậc cao. Óc người là sản phẩm phát triển cao nhất của vật chất có cấu tạo rất tinh vi, là cơ quan vật chất của ý thức. Hoạt động ý thức chỉ diễn ra trong bộ não người, trên cơ sở các quá trình sinh lý thần kinh của bộ não.

Ý thức là thuộc tính của bộ não người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người. Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện của hệ thông vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Thuộc tính phản ánh gắn với sự tiến hóa của hệ thống vật chất từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sự phát triển của các hình thức phản ánh từ thấp đến cao tương ứng với trình độ kết cấu của thế giới vật chất, phản ánh ý thức của con người là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất. Như vậy, não người và sự tác động của thế giới vật chất xung quanh lên bộ não là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

Về nguồn gốc xã hội: Lao động và ngôn ngữ là nguồn gốc xã hội của ý thức. Thông qua lao động đã cải biến thế giới tự nhiên, sáng tạo ra con người và xã hội; cùng với quá trình đó, các giác quan của con người ngày càng phát triển, hoàn thiện và khả năng phản ánh của ý thức sẽ ngày càng cao. Thông qua lao động, con người chế tạo ra công cụ lao động, nối dài các giác quan. Công cụ lao động càng phát triển, càng làm tăng khả năng của con người tác động vào tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình, buộc thế giới khách quan bộc lộ các thuộc tính để con người nhận thức, cải tạo thỏa mãn nhu cầu.

Trong quá trình lao động, con người có nhu cầu trao đổi kinh nghiệm với nhau, từ đó ngôn ngữ ra đời và phát triển. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là “cái vỏ vật chất” của tư duy, là công cụ của tư duy để con người phản ánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Ngôn ngữ là phương tiện để lưu truyền tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác, giúp loài người và mỗi người nhanh chóng hình thành, phát triển ý thức.

Lao động cùng ngôn ngữ là nguồn gốc xã hội hình thành ý thức, có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất biện chứng với nhau, là cơ sở, tiền đề cho nhau tồn tại, phát triển, luôn giữ vai trò quyết định đối với sự ra đời phát triển của ý thức.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở để phê phán các quan điểm duy tâm, tôn giáo, siêu hình về nguồn gốc của ý thức. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, ý thức ra đời từ một lực lượng siêu tự nhiên, hoặc do cảm giác của con người sinh ra. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình tuy bác bỏ tính chất thần bí của ý thức, nhưng lại đồng nhất ý thức với vật chất. Theo quan niệm của họ óc tiết ra ý thức như gan tiết ra mật.

Trong bồi dưỡng, phát triển ý thức con người phải trên quan điểm toàn diện, phải quan tâm đúng mức đến nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội, tránh tuyệt đối hóa, hoặc tách rời các nguồn gốc với nhau, coi nhẹ hoặc phủ nhận nguồn gốc nào.

1. Khái niệm
1.1. Khái niệm tồn tại xã hội
            Tồn tại xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
            Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố, trong đó có các yếu tố chính là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân cư, trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất.
1.2. Khái niệm ý thức xã hội và kết cấu của nó
            a. Khái niệm
            Ý thức xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ các mặt, các bộ phận khác nhau của lĩnh vực tinh thần xã hội như quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống... của cộng đồng xã hội; mà những bộ phận này nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
            Cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Các ý thức cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với mức độ khác nhau. Do đó, nó không thể không mang tính xã hội. Song ý thức cá nhân không phải lúc nào cũng thể hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến của cộng đồng, của một thời đại xã hội nhất định.
            Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú nhau.
            b. Kết cấu của ý thức xã hội
            Ý thức xã hội gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình thái khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng phương thức khác nhau. Chúng ta có thể phân ý thức xã hội thành các dạng sau đây:
            -Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận.
            Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá.
            Ý thức xã hội thông thường, thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống hàng ngày của con người, thường chi phối cuộc sống đó. Ý thức thông thường tuy là trình độ thấp nhưng có vai trò quan trọng ở chỗ, nhờ nó mà tri thức kinh nghiệm được hình thành, đây là tiền đề quan trọng để hình thành các lý thuyết khoa học.
            Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hoá, khái quát hoá thành học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức lý luận [lý luận khoa học] có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự vật và hiện tượng.
            - Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.
            Tâm lý xã hội là bộ phận của ý thức xã hội bao gồm tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán... của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn bộ xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.
            Đặc điểm của tâm lý xã hội là phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sống của xã hội và phản ánh có tính tự phát, do vậy thường ghi lại những mặt bề ngoài không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội. Tâm lý xã hội còn mang nặng tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận, yếu tố tình cảm đan xen yếu tố lý luận.
            Tuy nhiên, tâm lý xã hội có vai trò nhất định trong đời sống xã hội, biểu hiện ở chỗ, nếu nắm bắt được trạng thái tâm lý của nhân dân thì sẽ tìm ra được các biện pháp để giáo dục nhân dân tham gia tích cực, tự giác vào cuộc đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp.
            Hệ tư tưởng là bộ phận của ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội một cách gián tiếp, tự giác, khái quát hoá thành những quan điểm, tư tưởng [chính trị, triết học, nghệ thuật, tôn giáo].
            Đặc điểm của hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội do vậy có khả năng phản ánh sâu sắc những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
            Hệ tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của khoa học, và tới toàn bộ xã hội, biểu hiện ở chỗ, hệ tư tưởng là cơ sở lý luận để định hướng sự phát triển của khoa học và các hoạt động cải tạo xã hội.
            Cần phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học. Hệ tư tưởng khoa học phản ánh chính xác, khách quan các mối quan hệ vật chất của xã hội.  Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh các mối quan hệ vật chất của xã hội, nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư  ảo hoặc xuyên tạc.
            Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối quan hệ với nhau. Chúng có cùng nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội tạo điều kiện hoặc gây trở ngại cho sự hình thành, sự truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định và làm cho hệ tư tưởng, lý luận xã hội bớt xơ cứng, bớt sai lầm. Trái lại hệ tư tưởng, lý luận xã hội gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội. Hệ tư tưởng phản khoa học, phản động kích thích những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát triển.
          Tuy nhiên, hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội, không phải là sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.
1.3.Tính giai cấp của ý thức xã hội
            Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau, có những lợi ích khác nhau; do đó ý thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau.
            Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội cũng như ở hệ tư tưởng xã hội. Về mặt tâm lý xã hội mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có thiện cảm hay ác cảm đối với tập đoàn xã hội này hay tập đoàn xã hội khác. Ở hệ tư tưởng thì tính giai cấp biểu hiện sâu sắc hơn nhiều. Trong xã hội có giai cấp đối kháng bao giờ cũng có sự đối lập nhau giữa tư tưởng của giai cấp bóc lột, thống trị và tư tưởng của giai cấp bị trị, bị bóc lột. Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị ở thời đại đó.
            Nếu hệ tư tưởng của giai cấp bóc lột thống trị ra sức bảo vệ địa vị của giai cấp đó thì hệ tư tưởng của gia cấp bị trị, bị bóc lột thể hiện nguyện vọng và lợi ích của quần chúng lao động, chống lại giai cấp bóc lột, thống trị, xây dựng một xã hội công bằng không có áp bức bót lột. Hai loại hệ tư tưởng đó thường đấu tranh với nhau, phán ánh cuộc đấu tranh giai cấp về lĩnh vực tư tưởng.
            Khi khẳng định tính giai cấp của ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời còn cho rằng ý thức của các giai cấp trong xã hội thường có sự tác động qua lại với nhau. Các giai cấp bị trị do bị áp bức về vật chất nên không tránh khỏi bị áp bức về tinh thần, không tránh khỏi chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng thống trị. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của tư tưởng giai cấp thống trị đối với xã hội tuỳ vào trình độ phát triển ý thức cách mạng của giai cấp bị trị.
            Không những giai cấp bị trị chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị, mà trái lại giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng của giai cấp bị trị. Đặc biệt ở thời kỳ đấu tranh cách mạng phát triển mạnh, thường thấy một số người trong giai cấp thống trị, nhất là những trí thức tiến bộ từ bỏ hệ tư tưởng của giai cấp mình, chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp cách mạng.
            Ý thức cá nhân trong xã hội có sự phân chia giai cấp, về bản chất là biểu  hiện mức độ này hay mức độ khác ý thức giai cấp. Nhưng mỗi cá nhân lại có hoàn cảnh giáo dục, trường đời mà họ phải qua rất khác nhau, làm cho ý thức của mỗi người vừa biểu hiện ý thức giai cấp vừa mang đặc điểm cá nhân. Điều đó tạo thành thế giới tinh thần của cá nhân này khác với thế giới tinh thần của cá nhân khác trong cùng giai cấp.
            Tuy nhiên, quá nhấn mạnh những điều kiện sinh hoạt của cá nhân, thổi phồng mặt cá nhân trong ý thức con người sẽ dẫn đến hiểu sai bản chất của ý thức cá nhân. Vì vậy, khi đánh giá các hiện tượng ý thức xã hội có giai cấp phải nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa ý thức giai cấp và ý thức cá nhân.
            Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội không chỉ mang dấu ấn của những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp mà còn phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc. Vì vậy, trong ý thức xã hội, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng xã hội của giai cấp, còn bao gồm tâm lý dân tộc, tình cảm, ước muốn, tập quán, thói quen, tính cách... của dân tộc phản ánh điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc. Những bộ phận đó truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác tạo thành truyền thống dân tộc.
2. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
2.1. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định
            Công lao to lớn của Các Mác và Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao, vì đã giải quyết một cách khoa học vấn đề sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội và xậy dựng quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các ông đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong đầu óc của con người, mà phải tìm trong hiện thực vật chất.
            Chẳng hạn, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém, mọi người còn làm chung, hưởng chung nên chưa có tư tưởng tư hữu xuất hiện. Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời, xã hội phân chia giàu nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người biến đổi căn bản; nảy sinh và phát triển tư tưởng tư hữu, ăn bám, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng chủ nô ra đời. Khi xã hội chiếm hữu nô lệ suy tàn, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng quan hệ sản xuất phong kiến thì hệ tư tưởng phong kiến chiếm giữ vị trí đặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội, hệ tư tưởng chủ nô dần dần phá bị xoá bỏ. Khi quan hệ sản xuất phong kiến bị quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thay thế thì vị trí đặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội của hệ tư tưởng phong kiến bị xoá bỏ, được thay thế bởi hệ tư tưởng tư sản.
            Như vậy: “không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”[[1]]. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng, lý luận xã hội, quan điểm chính trị, pháp quyền.v.v. sớm muộn sẽ biến đổi theo. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh  tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Cho nên ở những thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.
2.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
            Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như một yếu tố thụ động, trái lại còn nhấn mạnh tác dụng tích cực của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tế - xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội trong mối quan hệ với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối biểu hiện ở những điểm sau đây:
            a. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
          Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức xã hội cũ tương ứng vẫn còn tồn tại dai dẳng; điều đó biểu hiện ý thức xã hội muốn thoát ly khỏi sự ràng buộc của tồn tại xã hội, biểu hiện tính độc lập tương đối. Sở dĩ có biểu hiện đó là do những nguyên nhân sau:
            Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội không phản ánh kịp sự thay đổi đó và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
            Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
            Ba là, trong xã hội có giai cấp, các giai cấp và lực lượng phản tiến bộ thường lưu giữ một số tư tưởng có lợi cho họ nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
            Như vậy ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho nên trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại âm mưu và hành động phá hoại những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ.
            b. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
            Khi khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội  so với tồn tại xã hội, triết học Mác - Lênin đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Sở dĩ có thể vượt trước được là do đặc điểm của tư tưởng khoa học quy định. Tư tưởng khoa học thường khái quát tồn tại xã hội đã có và hiện có để rút ra những quy luật phát triển chung của xã hội, quy luật đó không những phản ánh đúng quá khứ, hiện tại mà còn dự báo đúng tồn tại xã hội mai sau.
            Chẳng hạn, ngay từ khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đang ở trong thời kỳ phát triển tự do cạnh tranh, Các Mác đã dự báo quan hệ sản xuất đó nhất định sẽ bị quan hệ sản xuất tiến bộ hơn thay thế.
            Khi nói, tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội thì không có nghĩa ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định. Mà là, cho đến cùng nó luôn bị tồn tại xã hội quy định.
c. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển
          Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước. Thí dụ, chủ nghĩa Mác đã kế thừa những tinh hoa tư tưởng của loài người mà trực tiếp là nền triết học Đức, kinh tế học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
          Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước, Các giai cấp tiên tiến thường kế thừa những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Thí dụ, khi làm cuộc cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời đại cổ đại. Ngược lại, những giai cấp lỗi thời thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, lý thuyết phản tiến bộ của thời kỳ lịch sử trước. Thí dụ, vào nửa sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các thế lực tư sản phản động đã khôi phục và phát triển những trào lưu triết học duy tâm, tôn giáo dưới những cái tên mới như chủ nghĩa Cantơ mới, chủ nghĩa Tômát mới, để chống lại phong trào cách mạng của giai cấp công nhân.
          Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ thì không những phải vạch ra tính chất phản khoa học của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện tại, mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của chúng trong lịch sử.
          Do ý thức xã hội có tính kế thừa, nên khi nghiên cứu một tư tưởng nào đó phải dựa và quan hệ kinh tế hiện và phải chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Có như vậy mới hiểu rõ vì sao một nước có trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ cao. Thí dụ, nước Đức ở đầu thế kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng đã đứng ở trình độ cao hơn về triết học.
          Nắm vững quan điểm kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng. Đảng ta đã khẳng định, trong điều kiện mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc khác trên thế giới, làm giàu đẹp hơn nền văn hoá Việt Nam .
d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng
          Ý thức xã hội bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình thái khác nhau, theo nguyên lý mối liên hệ thì giữa các bộ phận không tách rời nhau, mà thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động đó làm cho ở mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không phải là kết quả phản ánh một cách trực tiếp của tồn tại xã hội.
          Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu sẽ tác động mạnh đến các hình thái khác. Chẳng hạn ở thời cổ đại Tây Âu thì triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt. Thời Trung Cổ ở Tây Âu thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học, nghệ thuật, pháp quyền... Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động đến các lĩnh vực của đời sống tinh thần xã hội.
         
e. Ý thức xã hội tác động trở tồn tại xã hội
          Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường khi phủ nhận tác động tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Ph.Ăng ghen viết: “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”.
          Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng và vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng. Chẳng hạn hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội các nước Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản trở thành vũ khí về mặt tư tưởng của giai cấp vô sản đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản.
          Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội biểu hiện qua hai chiều hướng. Nếu ý thức xã hội tiến bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, nếu ý thức xã hội lạc hậu sẽ cản trở sự phát triển của tồn tại xã hội.
          Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội, nó bác bỏ quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
3. Các hình thái ý thức xã hội
          Ý thức xã hội tồn tại trong những hình thái khác nhau, trong đó có những hình thái ý thức chủ yếu như: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức nghệ thuật, ý thức tôn giáo.
3.1. Ý thức chính trị
          Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước.
          Ý thức chính trị xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà nước, nó phản ánh trực tiếp và tập trung lợi ích của giai cấp. Điều đó biểu hiện qua hệ tư tưởng chính trị. Hệ tư tưởng chính trị được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính trị của các chính đảng của các giai cấp khác nhau cũng như trong hiến pháp, chính sách nhà nước và các công cụ của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính trị được hình thành một cách tự giác. Nó được các nhà tư tưởng của giai cấp xây dựng và truyền bá. Hệ tư tưởng chính trị gắn với các tổ chức chính trị. Thông qua các tổ chức đó mà một giai cấp nào đó tiến hành cuộc đấu tranh về ý thức hệ vì lợi ích của mình.
          Ý thức chính trị [đặc biệt là hệ tư tưởng chính trị] có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Thông qua tổ chức nhà nước nó tác động trở lại cơ sở kinh tế và có thể trong những giới hạn nhất định làm thay đổi cơ sở kinh tế. Hệ tư tưởng chính trị giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Nó thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác.
          Sự tác động của ý thức chính trị nói chung và hệ tư tưởng chính trị tới xã hội phụ thuộc vào tính chất tiến bộ hay phản tiến bộ của giai cấp mang hệ tư tưởng đó. Khi giai cấp còn tiến bộ, cách mạng thì hệ tư tưởng chính trị của nó tác động tích cực đến sự phát triển của xã hội; nếu ngược lại thì hệ tư tưởng chính trị đó tác động tiêu cực, kìm hãm phát triển xã hội.
          Hệ tư tưởng Mác - Lênin là hệ tư tưởng triệt để cách mạng và thật sự khoa học, đã dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành cuộc đấu tranh xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn.
3.2. Ý thức pháp quyền
          Ý thức pháp quyền là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật; về quyền và nghĩa vụ của nhà nước cũng như các tổ chức xã hội và công dân; về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội.
          Ý thức pháp quyền ra đời cùng với nhà nước, nó phản ánh một cách tập trung và trực tiếp lợi ích của các giai cấp mà trước hết là các quan hệ kinh tế của xã hội. Điều đó được thể hiện trong hệ thống pháp luật.
          Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành luật lệ; do đó, mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật của giai cấp nắm chính quyền. Thông qua pháp luật giai cấp thống trị cưỡng chế mọi người tuân theo ý chí của mình.
          Ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp, ý thức pháp quyền luôn luôn mang tính chất giai cấp. Giai cấp nắm chính quyền dùng hệ tư tưởng pháp quyền để lập luận về sự cần thiết và tính hợp lý của pháp luật và thông qua các luật lệ để củng cố địa vị thống trị về kinh tế của mình. Chẳng hạn, hệ tư tưởng pháp quyền tư sản đã giải thích luật pháp tư sản như là biểu hiện cao nhất các quyền tự nhiên của con người. Luật pháp tư sản là công cụ để bảo vệ quyền chiếm hữu tư nhân tư sản về tư liệu sản xuất. Hệ tư tưởng pháp quyền và pháp quyền xã hội chủ nghĩa là công cụ bảo vệ chế độ xã hội mới và trở thành ý chí chung của mọi người lao động.
3.3. Ý thức đạo đức
          Ý thức đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng quan niệm về về thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc... và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.
          Đặc điểm của ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội một cách gián tiếp dưới dạng quy tắc điều chỉnh [bằng dư luận xã hội], hành vi của con người. Ý thức đạo đức được hình thành rất sớm trong xã hội nguyên thuỷ. Khi xã hội có giai cấp ra đời, ý thức đạo đức được hình thành và phát triển như một hình thái ý thức xã hội riêng.
          Ý thức đạo đức bao gồm hệ thống tri thức về giá trị đạo đức, tình cảm và lý tưởng đạo đức; trong đó, tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng nhất, nếu thiếu nó thì khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức không thể chuyển hoá thành hành vi đạo đức.
          Ý thức đạo đức có vai trò quan trọng vì nó là một nhân tố biểu hiện sự tiến bộ xã hội. Khi con người tự ý thức về danh dự, lương tâm, lòng tự trọng sẽ có khả năng tự chủ để thực hiện các hành vi của mình trong đời sống. Do vậy nếu có ý thức đạo đức thì con người thông qua hành vi của mình thúc đẩy tiến bộ xã hội, nếu không có ý thức đạo đức thì hành vi con người thiếu tự chủ sẽ gây tác hại cho xã hội.
          Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành giá trị đạo đức toàn nhân loại. Đó là những quy tắc đơn giản cần thiết cho việc giữ gìn trật tự xã hội nói chung và sinh hoạt thường ngày của mọi người. Tuy nhiên trong xã hội có giai cấp thì nội dung chủ yếu của đạo đức phản ánh quan hệ giai cấp, địa vị giai cấp. Do vậy mỗi giai cấp đều có những quan niệm đạo đức riêng của mình. Giai cấp tiêu biểu cho xu thế phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho nền đạo đức tiến bộ, còn các giai cấp phản động thì đại diện cho nền đạo đức suy thoái.
          Đạo đức cộng sản được hình thành trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Đạo đức cộng sản kế thừa, phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của loài người, trước hết của nhân dân lao động. Đạo đức cộng sản phản ánh mối quan hệ kinh tế của xã hội mới và chỉ đạo mọi hành vi đạo đức của con người. Nó đòi hỏi sự hài hoà trong sự phát triển giữa cá nhân với tập thể, coi trọng sự phát triển tự do và toàn diện của cá nhân, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Đạo đức cộng sản thể hiện cao nhất chủ nghĩa nhân đạo, phản ánh bản chất của xã hội mới - lấy hạnh phúc con người làm mục đích của sự phát triển.
          Nội dung đạo đức cộng sản bao gồm một số nguyên tắc và chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa quốc tế. Nó đòi hỏi một thái độ mới đối với lao động, coi lao động vừa là quyền lợi và nghĩa vụ, không dung nạp tư tưởng ăn bám và bóc lột. Nó cũng đòi hỏi mỗi người phải giác ngộ ý thức đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Kiên quyết chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa sôvanh nước lớn.
          Trong xã hội Việt Nam hiện nay, bên cạnh những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, có không ít vấn đề đặt ra đòi hỏi phải giải quyết. Đó là cuộc đấu tranh giữa hai lối sống; một bên là lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực; một bên là lối sống thực dụng, ích kỷ, dối trá. Vì vậy, giáo dục đạo đức mới cho mọi người, làm lành mạnh đời sống tinh thần là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
4.4. Ý thức khoa học
          Ý thức khoa học là một hình thái ý thức xã hội phản ánh chân thực tồn tại xã hội dưới dạng lôgíc trừu tượng đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
          Đối tượng phản ánh của ý thức khoa học bao quát mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy, hình thức biểu hiện của tri thức khoa học là phạm trù, định luật, quy luật. Đó là sự khác biệt giữa ý thức khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác.
          Ý thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác, hình thành các khoa học tương ứng. Thí dụ, ý thức chính trị và chính trị học, ý thức đạo đức và đạo đức học v.v.. Do vậy, ý thức khoa học có vai trò rất quan trọng nhờ nó, con người không ngừng vươn tới cái mới, sáng tạo ra cái mới và ngày càng làm chủ tự nhiên, xã hội và làm chủ bản thân mình.
          Khoa học bao gồm nhiều bộ phận, sự phân chia các bộ phận căn cứ vào đối tượng, vai trò trong cuộc sống. Xét về đối tượng, khoa học chia thành khoa học tự nhiên - kỹ thuật, nghiên cứu các quy luật của tự nhiên, các phương thức chinh phục tự nhiên; khoa học xã hội, nghiên cứu quy luật vận động phát triển của xã hội; khoa học tư duy, nghiên cứu sự phát triển của tư duy con người. Xét về vai trò, bao gồm khoa học cơ bản, tìm ra phương hướng, phương pháp chung cho các khoa học ứng dụng; khoa học ứng dụng, tìm ra các nguyên tắc, quy tắc để cải biến tự nhiên và xã hội. Trong thời gian hiện nay các bộ môn khoa học đang có xu hướng liên kết với nhau để hình thành môn khoa học mới. Thí dụ, hoá học liên kết với sinh học để hình thành môn hoá sinh.
          Nguồn gốc sâu xa của sự hình thành khoa học là do nhu cầu phát triển sản xuất, do hoạt động thực tiễn. Cùng với sự phát triển của sản xuất, của thực tiễn xã hội, khoa học không ngừng phát triển. Trong quá trình đó, vai trò của khoa học ngày càng tăng lên. Có thể phân chia lịch sử phát triển của khoa học thành ba giai đoạn:
          - Giai đoạn một, bắt đầu từ thời kỳ cổ đại đến thế kỷ  XV. Trong thời kỳ cổ đại, khoa học còn rất sơ khai, bó hẹp trong một số lĩnh vực như thiên văn, toán học, cơ học nhằm đáp ứng nhu cầu về tưới nước, về hàng hải, về xây dựng lâu đài ... Sản xuất chủ yếu dựa vào tri thức kinh nghiệm. Trong thời kỳ phong kiến, khoa học bị cấm đoán bởi thần quyền và quan hệ sản xuất phong kiến. Do đó vai trò của khoa học trong xã hội  phong kiến tương đối hạn chế.
          - Giai đoạn hai, bắt đầu từ cuối thế kỷ XV cho hết thế kỷ XIX. Giai đoạn này chia làm hai thời kỳ:
          Thời kỳ thứ nhất, mở đầu bằng học thuyết của Côpécních và kết thúc bằng định luật cơ học của Niutơn. Thời kỳ này khoa học đi sâu vào nghiên cứu từng lĩnh vực cụ thể của hiện thực, đề cao thực nghiệm và suy lý, bác bỏ giáo điều. Cơ học cổ điển đạt tới mức phát triển cao và giữ vai trò thống trị, các khoa học khác đang trong quá trình hình thành. Thời kỳ này phương pháp tư duy siêu hình giữ vai trò thống trị.
          Thời kỳ thứ hai, mở đầu bằng học thuyết của Cantơ, kết thúc bởi học thuyết của Lômônôxốp. Đặc điểm thời kỳ này, khoa học phát triển theo hướng phá vỡ quan niệm bất biến cô lập về đối tượng nghiên cứu, gạt bỏ sự sáng tạo của chúa ra khỏi khoa học; khoa học phát triển trong mối quan hệ chặt chẽ với sản xuất; phương pháp tư duy biện chứng giữ vai trò thống trị. Nhiều bộ môn khoa học xã hội ra đời thoát khỏi các học thuyết thần học.
          - Giai đoạn ba [Thế kỷ XX]. Đặc điểm của giai đoạn này là có sự phát triển nhanh chóng của khoa học và khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Khoa học và kỹ thuật đã kết hợp chặt chẽ với nhau thành một thể thống nhất để đi sâu nghiên cứu đối tượng. Khoa học xã hội có vai trò ngày càng lớn trong xã hội. Những công trình nghiên cứu xã hội học, kinh tế học.v.v. đã giúp cho việc sử dụng vật lực và nhân lực một cách hợp lý trong sự phát triển sản xuất và hoàn thiện tổ chức lao động.
4.5. Ý thức thẩm mỹ
          Ý thức thẩm mỹ là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo cái đẹp. Hình thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ là nghệ thuật.
          Nghệ thuật ra đời từ rất sớm, ngay từ khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp. Nó ra đời bắt nguồn từ tồn tại xã hội, do nhu cầu ghi lại quá trình lao động, sự sinh hoạt của con người.
          Khác với triết học và khoa học, phản ánh thế giới hiện thực bằng khái niệm, phạm trù, quy luật; nghệ thuật phản ánh thể giới một cách sinh động, cụ thể bằng các hình tượng nghệ thuật, thông qua cái cá biệt, cụ thể, cảm tính, sinh động. Do vậy, nghệ thuật có tính độc lập tương đối rõ nét, không phải bao giờ cũng phản ánh tồn tại xã hội một cách trực tiếp dễ thấy.
          Nghệ thuật có chức năng giáo dục và nâng cao trình độ thẩm mỹ của nhân dân. Khi phản ánh thế giới hiện thực, nghệ thuật đã tác động đến lý trí và tình cảm của con người, kích thích tính tích cực của con người, xây dựng ở con người những  hành vi đạo đức tốt đẹp.
          Trong xã hội có giai cấp, nghệ thuật bao giờ cũng mang tính giai cấp. Tính giai cấp của nghệ thuật biểu hiện trước hết ở chỗ nó không thể không chịu sự tác động của thế giới quan, các quan điểm chính trị của một giai cấp, không thể đứng ngoài chính trị và các quan hệ kinh tế. Mặt khác bản thân những tác giả sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng chịu ảnh hưởng bởi những lập trường giai cấp nhất định.
          Tính giai cấp của nghệ thuật còn biểu hiện ở chỗ nghệ thuật thường bị các giai cấp sử dụng như là một phương tiện để tuyên truyền cho lợi ích chính trị của mình. Giai cấp tư sản luôn truyền bá các quan điểm nghệ thuật phản tiến bộ để đầu độc giai cấp công nhân và quần chúng lao động, bảo vệ chế độ tư bản. Trái lại, giai cấp công nhân luôn hướng nghệ thuật vào mục đích phục vụ nhân dân lao động.
          Biểu hiện cao và tập trung nhất về tính giai cấp của nghệ thuật là tính đảng của nó.
          Đối với nghệ thuật xã hội chủ nghĩa nguyên tắc tính đảng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Tính đảng biểu hiện ở tính tư tưởng cao, tính chân thực sâu sắc và tính thẩm mỹ cao. Tính đảng của nghệ thuật vô sản tạo điều kiện thuận lợi để phát triển quyền tự do, quyền sáng tạo của nghệ sỹ. Tính đảng đòi hỏi sự thống nhất cao giữa tính nghệ thuật và tính tư tưởng.
          Khi nhấn mạnh tính giai cấp của nghệ thuật, chủ nghĩa Mác-Lênin không phủ nhận tính nhân loại chung của nó.  Có những nền nghệ thuật của một dân tộc nhất định đã trở thành những giá trị văn hoá tiêu biểu của cả nhân loại. Như vậy tính giai cấp của nghệ thuật cách mạng thường làm sâu sắc thêm những gía trị nghệ thuật toàn nhân loại.
          Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về nghệ thuật, Đảng ta đã đề ra đường lối văn nghệ đúng đắn. Nhờ đường lối đó, nền văn nghệ nước ta đã đạt được thành tựu to lớn, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
4.6. Ý thức tôn giáo
          Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hư ảo, sai lệch điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
          Ý thức tôn giáo bao gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng, thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sỹ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội. Hai bộ phận đó liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Tâm lý tôn giáo đem lại cho hệ tư tưởng tôn giáo một tính chất đặc trưng, một sắc thái tình cảm riêng. Hệ tư tưởng tôn giáo lý giải hiện tượng tâm lý tôn giáo, khái quát chúng, làm cho chúng biến đổi theo chiều hướng nhất định.
          Tôn giáo hình thành và phát triển do hai nguồn gốc, nhận thức và xã hội. Khi trình độ nhận thức của con người còn hạn chế, chưa hiểu được bản chất của các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên, thường bị các hiện tượng tự nhiên chi phối, con người bất lực trước sức mạnh của tự nhiên; cho nên phải cầu cứu một lực lượng nào đó bên ngoài, lúc đó ý niệm tôn giáo ra đời. Mặt khác sống trong xã hội, con người còn bị ràng buộc bởi các quan hệ xã hội, các quan hệ đó thường xuyên quyết định đến số phận của họ. Những lực lượng đó được thần bí hoá và mang dáng vẻ của những lực lượng siêu tự nhiên. Trong xã hội có giai cấp, quần chúng lao động bị cùng khổ, bị áp bức không tìm được lối thoát khỏi sự kìm kẹp ở trên trái đất, đã tìm lối thoát ở trên trời. Như vậy: sự sợ hãi và bất lực đã tạo ra ý niệm tôn giáo, tạo ra thần linh.
          Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội có tính tiêu cực. Nó cũng thực hiện chức năng chủ yếu của mình là chức năng đền bù - hư ảo. Chức năng đó làm cho tôn giáo có đời sống lâu dài, một vị trí đặc biệt trong xã hội. Những khi con người không có đủ khả năng để giải quyết mâu thuẫn trong hiện thực, bất lực trước sức mạnh tự nhiên và trong thực tiễn cuộc sống thì được giải quyết một cách hư ảo trong ý thức của họ. Vì vậy, thế giới quan tôn giáo không tạo điều kiện cho sự phát triển nhận thức đúng đắn của con người, hạn chế hiệu quả của hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội.
          Tôn giáo luôn được các giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ áp bức đời sống tinh thần xã hội nhằm củng cố địa vị của họ.
          Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, điều kiện tiên quyết để khắc phục mặt tiêu cực của tôn giáo là phải xoá bỏ nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức của nó. nghĩa là, phải thực hiện các biện pháp để nâng cao trình độ nhận thức của con người để hiểu được bản chất các hiện tượng tự nhiên và các quan hệ xã hội; mặt khác phải tiến hành một cuộc cách mạng triệt để nhằm giải phóng con người khỏi cảnh áp bức, bóc lột.
          Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta luôn thi hành chính sách tôn giáo đúng đắn, tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của mọi công dân. Tuyệt đối không xâm phạm đến tình cảm tôn giáo của công dân. Đồng thời Nhà nước kiên quyết xử lý theo pháp luật những kẻ âm mưu lợi dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa.

CÂU HỎI ÔN TẬP
1.Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là gì? phân tích tính chất giai cấp của ý thức xã hội.
2. Phân tích vai trò của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.
3. Phân tích tính độc lập tương đối của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội .
4. Phân tích nội dung các hình thái ý thức xã hội: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức khoa học, ý thức tôn giáo.


[1] C. Mác và Ăng ghen: Toàn tp, Nxb. Chính tr Quc gia, Hà ni, 1995, t13, tr15.].

Video liên quan

Chủ Đề