Nữ nhà giáo đầu tiên của Việt Nam là ai

Trong số những nhân tài đất Việt thời phong kiến, Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Thị Duệ, Nguyễn Thị Hinh là 3 nữ tri thức tiêu biểu nhất.

Nhờ học hành chăm chỉ, cả ba bà không chỉ nhận được sự kính trọng của xã hội đương thời, còn là tấm gương chiếu sáng muôn đời cho hậu thế noi theo.

Lễ nghi nữ học sĩ Nguyễn Thị Lộ

Theo sách Những người thầy trong lịch sử Việt Nam, Lễ nghi nữ học sĩ Nguyễn Thị Lộ chính là vị nữ quan đầu tiên của chế độ phong kiến Việt Nam. Bà cũng được cho là nữ nhà giáo đầu tiên dạy học trong cung đình.

Sinh ra tại huyện Hưng Hà [tỉnh Thái Bình ngày nay], vốn thông minh từ nhỏ, hơn 10 tuổi bà đã thuộc hết sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, thông hiểu y dược, âm luật, lịch số, các môn đều thấu hiểu đến uyên bác. Mới 15 tuổi, bà đã nổi tiếng khắp phủ Tân Hưng.

Tượng đài Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ tại khu di tích lịch sử văn hóa Lệ Chi Viên. Ảnh: Tạp chí Văn hóa & Nghệ thuật.

Chính nhờ tri thức vượt tầm so với những người phụ nữ lúc bấy giờ tạo nên mối cơ duyên giữa bà với Nguyễn Trãi - bậc khai quốc công thần của nhà Lê. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, bà nhiều lần thay Nguyễn Trãi soạn thảo một số công văn, thư từ, thậm chí còn viết thư chiêu hàng tướng giặc.

Sau khi nhà Lê thành lập, bà được vua Lê Thái Tông phong làm Lễ nghi học sĩ, chịu trách nhiệm dạy các cung tần, mĩ nữ những lễ nghi, phép tắc của triều đình.

Cách dạy học của bà rất sáng tạo, tự tay bà viết giáo trình dạy các cung nữ. Cũng trong thời gian này, bà nhiều lần xin chỉ dụ của nhà vua để mở mang học vấn cho nhân dân, khuyến khích phụ nữ đọc sách thánh hiền.

Nữ tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ

Nguyễn Thị Duệ [1573-1654] là nữ tiến sĩ đầu tiên trong lịch sử khoa bảng nước nhà. Sau này, cảm phục tài năng, học vấn của bà, vua Mạc và chúa Trịnh đã sử dụng bà trong vai trò nhà giáo để dạy học chốn hoàng cung.

Sinh ra trong gia đình hiếu học ở xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, ngay từ nhỏ, Nguyễn Thị Duệ đã bộc lộ tư chất hơn người.

Theo quy định thời đó, thi cử học hành chỉ dành cho nam. Thế nhưng, vì đức hiếu học, bà đã cải trang thành nam để được đi thi và đỗ đầu kỳ thi Hội do nhà Mạc tổ chức ở Cao Bằng.

Ngày vua Mạc tổ chức đãi yến tiệc chúc mừng các tân khoa, nghi ngờ sĩ tử đỗ đầu có dáng dấp mảnh khảnh, yểu điệu thục nữ, vua tra hỏi. Không giấu được thân phận, bà đã thú thật với triều đình.

Tội của bà đáng ra phải bị phạt nặng, nhưng vì mến mộ tài năng của người con gái bé nhỏ ấy, vua Mạc chẳng những không trách tội mà còn phong cho bà làm Tinh Phi, đặt hiệu là Sao Sa.

Sau khi nhà Mạc sụp đổ, bà bị quân nhà Trịnh bắt, nhưng chúa Trịnh rất quý mến và trọng dụng. Khi Trịnh Tạc lên ngôi, đã cho tìm nữ học sĩ để dạy cung nhân, các quan trong triều đều tiến cử bà.

Không chỉ dừng lại ở việc dạy học, tại khoa thi năm 1631, đời vua Lê Thần Tông, bà còn tham gia làm giám khảo kỳ thi tiến sĩ.

Bà là người luôn khuyến khích người sau học tập. Mỗi tháng hai kỳ, sai người làm cỗ, họp sĩ tử tư văn hàng huyện lại, cho tập làm văn. Đề bài do bà ra, rồi sai người từ kinh đô mang về. Bài làm xong giao cho hội viên hội tư văn niêm phong lại rồi nộp cho bà.

Tự bà chấm bài, đúng hạn trả lại, đăng tên những người có bài làm và điểm tại văn chỉ. Việc ra bài, làm bài được tiến hành đều đặn. Thậm chí, bà còn trích 10 mẫu lộc điền để thưởng cho những tân tiến sĩ của làng luân phiên cày cấy, thu hoa lợi nhằm khuyến khích người sau gắng sức học tập.

Nữ nhà giáo nổi tiếng đất Thăng Long

Bà huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh quê ở Nghi Tàm, Hà Nội. Chồng của bà là Lưu Nguyên Ôn, cũng người Hà Nội, làm tri huyện Thanh Quan nên người ta thường gọi bà là bà huyện Thanh Quan.

Tranh vẽ bà Huyện Thanh Quan. Ảnh: NXB Kim Đồng.

Sinh thời, Bà huyện Thanh Quan không chỉ là người văn hay chữ tốt, có thể tự thay chồng thăng đường xử án, mà còn là nhà giáo nức tiếng đương thời.

Mến môn tài năng của bà, vua Tự Đức triệu bà vào cung để dạy cho các công chúa và cung phi với chức Cung trung giáo tập.

Đến kinh thành, bà được bố trí làm việc ở Viện Đoan Trang với chức Cung trung giáo tập dạy văn chương, lễ nghi, phép tắc cho các công chúa và cung nữ. Tại đây, các quan lại trong triều thường gọi bà với cái tên Lưu phu nhân.

Học trò thực sự của bà là những nữ tỳ, cung nữ. Họ gồm nhiều lứa tuổi khác nhau nhưng đều rất tôn kính bà và thường tìm đến với bà để gửi gắm niềm tâm sự. Nói cách khác bà vừa là nhà giáo, vừa là người mẹ hiền.

Nguyễn Thanh Điệp [Zing]

Dưới thời phong kiến ở Việt Nam, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã không cho giới nữ được bình đẳng với nam giới, kể cả việc học hành, thi cử. Vậy mà có một người con gái tài sắc, đức độ, trí tuệ trác việt đã vượt qua luật lệ khắt khe đó, đạt tới học vị tiến sĩ. Bà là Nguyễn Thị Duệ, được người dân ca tụng là “Bà Chúa Sao Sa”, người phụ nữ đầu tiên và duy nhất đỗ tiến sĩ trong thời đại phong kiến nước nhà.

Nữ Tiến sĩ đầu tiên trong lịch sử khoa bảng Việt Nam

Hiện chưa rõ gia thế của Bà. Nhưng tương truyền, bà Nguyễn Thị Duệ sinh năm 1574, trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống hiếu học tại làng Kiệt Đặc, nay thuộc xã Văn An, Chí Linh, Hải Dương. Vốn là người thông minh, có nhan sắc nên mới hơn 10 tuổi, bà đã được nhiều nhà quyền quí đến xin hỏi cưới, nhưng bà không thuận. Năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh chiếm kinh thành Thăng Long, nhà Mạc rút chạy lên Cao Bằng, bà Nguyễn Thị Duệ cũng theo gia đình lên đó sinh sống. 

Người dân Hải Dương đến nay vẫn kể cho nhau nghe những câu chuyện về tài năng của bà Duệ. Năm 10 tuổi Bà đã biết làm văn bài, được bà con trong làng vô cùng kính phục. Là một người hiếu học, song luật lệ bấy giờ không cho phép con gái được học hành thi cử, bà Nguyễn Thị Duệ phải giả trai để đèn sách đi thi. Năm Giáp Ngọ [1594] nhà Mạc mở khoa thi Hội, sĩ tử tham dự rất đông, Bà đỗ thủ khoa, trong khi chính thầy dạy chỉ đỗ á khoa. Vậy là, tròn 20 tuổi Bà trở thành nữ tiến sĩ đầu tiên và duy nhất của khoa cử phong kiến Việt Nam.

Trong buổi Ngự yến đãi các tân khoa, vua Mạc Kính Cung thấy vị tiến sĩ trẻ tuổi, dáng mảnh mai, mặt mày thanh tú sinh lòng ngờ vực. Nhà vua liền xét hỏi và phát hiện bà giả trai. Nhưng bà Nguyễn Thị Duệ không những không bị khép tội còn được vua khen ngợi. Cảm phục tài năng, vua Mạc còn mời Bà vào cung để dạy các phi tần rồi tuyển làm phi, phong là Tinh Phi có nghĩa là Bà Chúa Sao, ngụ ý khen Bà vừa xinh đẹp vừa sáng láng như một vì sao.

Năm 1625, quân Lê - Trịnh tiến lên Cao Bằng diệt nhà Mạc. Bà vào rừng ẩn náu trong một ngôi chùa nhỏ, bị quân lính bắt được. Bà cầm thanh gươm trên tay khảng khái nói: "Các ngươi bắt được ta thì phải đưa ta đến nộp chúa của các ngươi, nếu vô lễ thì với lưỡi gươm này ta sẽ tự tử". Cảm phục khí tiết của Bà, quân Trịnh bèn giải Bà về kinh nộp cho chúa Nghị Vương. Nghe tiếng tăm của bà Nguyễn Thị Duệ, chúa Trịnh rất sủng ái, phong cho Bà chức Cung Trung Giáo Tập, rồi Lễ Nghi Học Sĩ để trông coi việc dạy học trong vương phủ. Người dân tôn sùng gọi bà là Nghi ái Quan.

Công trạng để đời

Bà Nguyễn Thị Duệ không chỉ là nữ tiến sĩ duy nhất của khoa bảng phong kiến Việt Nam mà Bà còn có nhiều đóng góp cho nền giáo dục đương thời. Bà rất quan tâm đến việc thi cử, bồi dưỡng nhân tài cho quốc gia. Phần lớn các kỳ thi Đình, thi Hội, tất cả bài vở đều qua tay bà chấm chọn. Bà thường viện dẫn nghĩa lý kinh sử, sự tích cổ kim rành mạch. Các biểu sớ, văn bài thi Đại khoa chúa đều nhờ Bà khảo duyệt lại.

Hiện nay, dân gian vẫn còn lưu truyền giai thoại về Bà. Năm Đức Long thứ 3 [vua Lê Thần Tông], Bà làm Giám khảo kỳ thi Tiến sĩ [1631], được tổ chức tại làng Mao Điền, Hải Dương, có rất nhiều sĩ tử dự thi, trong đó có sĩ tử Nguyễn Minh Triết [sau gọi là Nguyễn Thọ Xuân - PV] quê tại Hải Dương. Bài thi gồm 12 câu mà trò Triết chỉ làm 4 câu, nhưng 4 câu cực kỳ xuất sắc. Các quan không nỡ đánh trượt, bèn tâu lên vua, vua Lê bèn hỏi ý kiến bà Duệ. Sau khi đọc bài, Bà thấy hay bèn tâu vua: "Bài văn làm được 4 câu mà hay còn hơn làm hết 12 câu mà không hay, triều đình cần người thực tài chứ không cần kẻ nịnh bợ". Nhà vua cảm phục, bèn chấm cho Nguyễn Minh Triết đỗ Tiến sĩ Khoa Tân Mùi.

Bà Nguyễn Thị Duệ được coi là người khởi đầu hình thức đào tạo từ xa của đất nước. Bà soạn ra các bộ đề thi rồi gửi về địa phương để tổ chức thi. Sau khi kết thúc, bài thi sẽ được gửi lên cho Bà chấm, kết quả được gửi trở lại các địa phương. Bà cũng khuyến khích phong trào học tập, giúp đỡ học trò nghèo hiếu học, đề cao các nhân tài giúp nước. Đó là hình thức khuyến học đầu tiên của nước ta.

Là một vị quan thanh liêm, bà Nguyễn Thị Duệ thương dân như con. Khi đất nước gặp thiên tai, địch họa, Bà xin triều đình phát chẩn cứu đói, cấp nhiều mẫu ruộng tốt, canh tác lấy hoa lợi. Người ta còn truyền tụng, thuở hàn vi, anh trai bà Nguyễn Thị Duệ bị người trong làng hãm hại. Mặc dù vậy khi vinh hiển, Bà không hề để ý đến tư thù. Nhân dân rất cảm phục tài năng và đức độ, nên xưng tụng bà là  “Nghiêu, Thuấn trong phái nữ, thần tiên ở trên đời”. 

Một lần dự yến tiệc trong Hoàng cung, Bà quen với hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc [vợ vua Lê Thần Tông]. Từ đấy, hai bà trở thành đôi bạn tri kỷ. Hàng tháng, bà cùng Hoàng hậu đi lễ chùa để gặp các nhà tu hành cũng là những người học nhiều, biết rộng, gặp gỡ các sĩ phu Bắc hà - những nhà chân nho thực tài như Thám hoa Giang Văn Minh, Thám hoa Phượng Thế Hiền... nên biết được tình hình trong nước và những bất bình trong dân. Bà không chỉ giúp vua kịp thời điều chỉnh chính sách an dân mà còn khôn khôn khéo khuyên họ bớt xa xỉ, trừng trị nghiêm bọn tham quan, cường hào  nhằm thu phục lòng tin yêu của dân.

Sinh thời, bà Nguyễn Thị Duệ viết nhiều văn thơ, nhưng trải qua những biến động của lịch sử nên bị thất lạc. Về già, Bà xuất gia đi tu ở chùa Vụ Nông, hạt Gia Lâm, lấy hiệu Diệu Huyền. Bà Nguyễn Thị Duệ thọ hơn 80 tuổi. Sau khi mất, Bà được triều đình ban sắc phong, cho đúc tượng, dựng bảo tháp, khắc bia, người dân địa phương lập đền thờ, tôn bà làm Phúc thần.

Tháp mộ bà Nguyễn Thị Duệ được đặt trên đỉnh một quả đồi cạnh núi Phượng Hoàng tại Chí Linh, Hải Dương. Cuối triều Lê, Tinh Phi cổ tháp được xếp vào hàng Chí Linh bát cổ. Đình làng Kiệt Đoài thờ Vua Bà là bà Nguyễn Thị Duệ [pho tượng và sắc phong thờ phụng “Chánh vương phủ, thị nội cung tần, lế sư Nguyễn Thị Ngọc tôn thần. Người có công giúp nước, che chở cho dân...”]. Đền làng Trung Hà, xã Nam Tân, huyện Nam Sách cũng thờ tượng “Bà Chúa Sao Sa” và một sắc phong.  Trong Hậu cung Văn Miếu Mao Điền ở Hải Dương, Bà được thờ cùng Khổng Tử và bảy vị Đại khoa danh tiếng của Việt Nam là Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, thần toán Vũ Hữu, nhà giáo Chu Văn An, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Nhập nội Hành khiển Phạm Sư Mạnh và danh y Tuệ Tĩnh.

Video liên quan

Chủ Đề