Nội dung công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới năm 2024

Công nghiệp hóa trước đổi mới diễn ra theo mô hình của Liên Xô, chỉ đến khi khởi đầu là đổi mới tư duy kinh tế và nhất là từ Đại hội VIII [1996], công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta mới được xác định một cách đầy đủ. Trong 35 năm đổi mới, đặc biệt sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011, nhận thức của Đảng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã có những bước phát triển mới về cả nội dung và phương thức thực hiện.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011] đã xác định: “Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế”. Đại hội Đảng XI [năm 2011] đã bổ sung thêm Cơ cấu lại nền công nghiệp theo hướng phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, từng bước có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầu; Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn; Phát triển hợp lý công nghiệp sử dụng nhiều lao động, góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động”.

Sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp và ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới; đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, vị thế và uy tín của đất nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Đóng góp vào những thành quả to lớn này của phát triển đất nước có vai trò hết sức quan trọng của ngành Công Thương với việc Việt Nam đã và đang dần khẳng định được vị thế là một trong những trung tâm sản xuất công nghiệp của khu vực và của thế giới.

Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia có nền công nghiệp có năng lực cạnh tranh toàn cầu [CIP] ở mức khá cao, thuộc vào nhóm các quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp trung bình cao với vị trí thứ 44 trên thế giới vào năm 2018 theo đánh giá của UNIDO. Theo đó, trong giai đoạn 1990-2018 đã tăng 50 bậc và giai đoạn 2010- tăng 23 bậc, tăng nhanh nhất trong các nước thuộc khu vực ASEAN và đã tiệm cận vị trí thứ 5 của Philipphin [chỉ thua 0 điểm], tiến gần hơn với nhóm 4 nước có năng lực cạnh tranh mạnh nhất trong khối.

Công nghiệp là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân với đóng góp xấp xỉ 30% GDP và trở thành ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước, góp phần đưa Việt Nam lên vị trí thứ 22 quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới vào năm 2018. Một số ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn theo định hướng chiến lược của ta đã trở thành các ngành công nghiệp lớn nhất đất nước, qua đó đưa nước ta cơ

bản đã hội nhập thành công vào chuỗi giá trị toàn cầu với sự dẫn dắt của một số doanh nghiệp công nghiệp lớn như điện tử, dệt may, da giày...

Trong tổng số 32 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD vào năm 2019 hàng công nghiệp chiếm 29/32 mặt hàng và 5/5 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD [điện tử, dệt may, da giày, đồ gỗ, máy móc, thiết bị]. Một số ngành công nghiệp hiện có vị trí vững chắc trên thị trường thế giới hiện nay như dệt may [đứng thứ 7 về xuất khẩu], da giày [thứ 3 về sản xuất và thứ 2 về xuất khẩu], điện tử [đứng thứ 12 về xuất khẩu, trong đó mặt hàng điện thoại di động đứng thứ 2 về xuất khẩu], đồ gỗ [đứng thứ 5 về xuất khẩu].

Theo xếp hạng doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2019, trong số 10 doanh nghiệp lớn nhất thì có tới 8/10 doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, trong đó 7/10 doanh nghiệp nội địa ; chiếm 5/10 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất cả nước. Các doanh nghiệp công nghiệp lớn của Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực dầu khí, điện, khoáng sản, ô tô, thép, sữa và thực phẩm.

Bên cạnh đó, quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động đã đi vào thực chất hơn, ngày càng hướng vào lõi công nghiệp hóa. Theo đó, công nghiệp tiếp tục duy trì là ngành có năng suất lao động cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân với tỷ trọng trong GDP tăng từ 26,63% năm 2011 lên 27,81% năm 2015 và 28,55% năm 2019.

Cơ cấu nội ngành công nghiệp đã chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng công nghiệp khai khoáng [từ 36,47% năm 2011 xuống còn 25,61% năm 2019] và tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo [từ 49,82% năm 2011 lên 54,57% năm 2019] và trở thành động lực tăng trưởng chính của ngành công nghiệp [ước VA tăng 10,99% giai đoạn 2011-2020 và 12,64% giai đoạn 2016-2020].

Cơ cấu công nghệ trong ngành công nghiệp đã có nhiều thay đổi theo hướng tiếp cận công nghệ tiên tiến, hiện đại hơn với sự dịch chuyển mạnh từ các ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày sang các ngành công nghiệp công nghệ cao như máy vi tính, sản phẩm điện tử, điện thoại.

Đầu tư cho phát triển công nghiệp ngày càng được mở rộng, trong đó, đầu tư FDI trở thành động lực chính của phát triển công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu phát triển các ngành công nghiệp nước ta theo hướng hiện đại [chiếm tỷ trọng xấp xỉ 70% tổng vốn đầu tư FDI vào các ngành kinh tế, trong đó, đầu tư vào công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất với xấp xỉ 60%].

Đầu tư FDI có vai trò to lớn trong việc hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông; khai thác, chế biến dầu khí; điện tử, công nghệ thông tin, thép, xi măng, dệt may, da giày... tạo

nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá; chú trọng phát triển công nghiệp xanh.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, trong thời gian tới ngành Công Thương sẽ tiếp tục tích cực triển khai thực hiện, cụ thể hóa các đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo môi trường pháp lý bình đẳng và minh bạch cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, phát triển, khơi thông các nguồn lực trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài, quyết tâm sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

1. Mở đầu : CNH, HĐH là vấn đề lớn, mang tính chiến lược đối với sự phát triển của nước ta giai đoạn hiện nay, được nhiều tác giả nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong quá trình nhận thức không phải ai cũng nắm được logic vấn đề và tường tận về quan điểm của Đảng. Việc nghiên cứu sâu sắc hơn vấn đề không chỉ giúp giáo viên truyền đạt tri thức khoa học của Bộ môn mà còn góp phần giáo dục quan điểm, lập trường của Đảng cho sinh viên và những học giả quan tâm... Vì vậy, vấn đề luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. 2. Nội dung 2 .1. Tính tất yếu khách quan của công nhiệp hóa [CNH]. Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa ra đời là nấc thang phát triển cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải xây dựng cho mình một cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại hơn. Cho đến nay, hầu hết các nước tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi và chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đều có nền công nghiệp chưa phát triển. Vì vậy, để có nền tảng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội tất yếu phải thực hiện CNH. Trong bộ Tư bản, Các đã phân tích kỹ sự phát triển của cách mạng công nghiệp và cho thấy quy luật tất yếu phải thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp. Kế thừa quan điểm cách mạng và khoa học của Mác, khi cách mạng tháng Mười Nga thành công, V.Iênin đã đặc biệt nhấn mạnh vai trò của CNH và sự nghiệp CNH. Người đã khẳng định: “Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xô viết cộng với điện khí hóa toàn quốc..ỉ khi nào nước ta đã điện khí hóa, chỉ khi nào công nghiệp, nông nghiệp và vận tải đã đứng vững trên cơ sở kỹ thuật của đại công nghiệp hiện đại, thì lúc đó, chúng ta mới có thể đạt được thắng lợi hoàn toàn” [ 3- tr]. Nhận thức rõ tính tất yếu phải thực hiện CNH trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, ngay từ những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã

hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài” [ 4- tr]. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc và vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác

  • Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tế ở nước ta.
    1. Quá trình nhận thức của Đảng ta về CNH Thời kỳ trước đổi mới từ năm 1960-1986: Vấn đề CNH,HĐH, lần đầu tiên được Đảng ta đề cập vào Đại hội III của Đảng 9. Các Đại hội IV[12], V[2] tiếp tục bàn về vấn đề này. Nhìn chung do tác động của yếu tố chủ quan và khách quan: tiến hành CNH trong một nửa nước, trong điều kiện có chiến tranh, trong sự giúp đỡ của các nước XHCN..ì vậy, Đảng không có điều kiện để tổng kết lại những thành công cũng như hạn chế trong quá trình thực hiện để rút ra những kinh nghiệm trong giai đoạn sau: Đại hội Đảng III xác định rõ mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn. Về cơ cấu kinh tế, Đảng xác định: kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng. Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước độc lập thống nhất và quá độ lên CNXH. Chiến lược “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng...” tiếp tục được khẳng định lại tại Đại hội IV của Đảng [1976]. Tại Đại hội lần thứ V của Đảng [3-1982] đã xác định trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây là bước điều chỉnh rất đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, trong thực tế chưa nghiêm chỉnh thực hiện tinh thần chỉ đạo của Đại hội V...ó thể thấy CNH thời kỳ trước đổi mới có những hạn chế như sau: Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng. Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước... Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội. Thời kỳ đổi mới từ năm 1986- nay: Đảng ta với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật”... đã chỉ ra những hạn chế của CNH trước đây và đưa ra nhận thức mới phù hợp với thực tiễn và thế giới

nhằm mục tiêu vì con người, vì sự phát triển bền vững, phấn đấu đến năm 2050 nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Có thể thấy rằng, tư duy của Đảng về CNH, HĐH thời kỳ đổi mới nhất quán với đường lối CNH được nêu ra trước đó trên một số vấn đề có tính nguyên tắc: CNH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Mục tiêu của CNH nhằm chuyển đổi một cách căn bản nền sản xuất xã hội từ lao động thủ công là chủ yếu sang lao động bằng máy móc, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ; nâng cao đời sống nhân dân; quốc phòng an ninh vững mạnh. Nhận thức của Đảng về CNH có sự phát triển so với trước cụ thể là: CNH thời kỳ trước đổi mới CNH thời kỳ đổi mới

CNH thiên về phát triển công nghiệp nặng

CNH được đặt trong tổng thể một nền kinh tế thống nhất,cơ cấu ngành được chuyển dịch dần phù hợp trình độ, xuất phát điểm của đất nước

CNH trong cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp

CNH, HĐH trong cơ chế thị trường định hướng XHCN

Chủ lực thực hiện CNH là Nhà nước và kinh tế quốc doanh

CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế trong đó Nhà nước đóng vai trò chủ đạo Nguồn lực chủ yếu của CNH, HĐH dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước XHCN

Nguồn lực CNH, HĐH là trí tuệ, văn hóa và sự tranh thủ nguồn lực đa dạng từ bên ngoài, nhất là những thành tựu khoa học của thế giới. CNH theo mô hình kinh tế khép kín, hướng nội và hướng về công nghiệp nặng

CNH theo mô hình kinh tế mở, hội nhập.

Tư duy lãnh đạo nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.

Tư duy lãnh đạo: với sự cân nhắc, lộ trình phù hợp trên cơ sở chuẩn bị kỹ các điều kiện tiền đề; vừa tuần tự, vừa nhảy vọt ở một số điểm, lĩnh vực để rút ngắn thời gian. 2 Thực trạng và một số giải pháp

Đường lối CNH, HĐH được Đảng ta hoạch định qua 28 năm đổi mới là đúng đắn, toàn diện và ngày càng sáng tỏ cả về quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, bước đi... Đây là cơ sở lý luận cho quá trình đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo dựng những tiền đề để đẩy mạnh CNH, HĐH và bước đầu thực hiện CNH, HĐH đạt những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế trong việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện đường lối CNH, HĐH. Về đường lối: “Tiêu chí khi nước ta trở thành một nước công nghiệp để làm đích hướng tới chưa được xác định cụ thể; các bước đi của cả quá trình CNH, HĐH chưa được làm rõ; chậm cụ thể hóa mô hình, dẫn đến còn nhiều lúng túng trong thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn” [ 2- tr,112]. Trong thực tiễn vẫn còn tình trạng nhận thức chưa đầy đủ và sâu sắc về vị trí, vai trò của CNH, HĐH, về quan điểm chỉ đạo CNH, HĐH. Nhiều chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng về CNH, HĐH chưa được thực hiện nghiêm túc. Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH nước ta đã đạt nhiều thành tựu. Nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, chưa tương xứng với khả năng. Quy mô nền kinh tế nhỏ, Bình quân thu nhập thấp, tái sản xuất chủ yếu theo chiều rộng chưa theo chiều sâu. Hiệu quả kinh tế còn thấp [chỉ số ICOR cao: 4-5/1]. Các nguồn lực của đất nước sử dụng chưa hiệu quả, nguồn lực trong dân chưa được phát huy. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm Xét phương diện những đặc trưng của nền kinh tế tri thức thì chúng ta thấy cơ cấu kinh tế - lao động của Việt Nam hiện nay vẫn là lạc hậu: tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp trong GDP còn hạn chế, ngành nông nghiệp còn cao: Cơ cấu lao động cũng chưa chuyển biến mạnh mẽ: lao động trong lĩnh vực nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng rất cao, chất lượng lao động còn nhiều hạn chế. Năng lực khoa học và công nghệ quốc gia còn yếu; kết quả ứng dụng những công trình, bằng sáng chế phát minh khoa học còn ít và thấp so với các nước; thị trường KH&CN [khoa học và công nghệ] chậm được hình thành; sự gắn kết hoạt động KH&CN với giáo dục - đào tạo và sản xuất, kinh doanh còn yếu Giá trị xuất khẩu tuy khá cao, nhưng hiệu quả kém: sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nông sản và nguyên liệu ít qua chế biến.

Chủ Đề