Khi một tế bào sinh dục dục sơ khai tiến hành giảm phân thì thụ được bao nhiêu tinh trùng
Tế bào mầm là tế bào có thể khởi tạo ra giao tử của động vật đa bào hữu tính qua quá trình hình thành giao tử.[1][2][3][4] Một vài tài liệu lại cho rằng tế bào mầm là giao tử có bộ nhiễm sắc thể đơn bội - nói cách khác, tế bào mầm là tế bào sinh dục đơn bội.[5][6] Lại có tài liệu cho rằng: tế bào mầm là tế bào sinh dục ở bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình phát triển từ tế bào sinh dục nguyên thủy cho đến giao tử trưởng thành.[7] Ở Việt Nam, trong một thời gian dài trước kia và cả trong trình độ phổ thông hiện hành, nội dung khái niệm này (nội hàm) còn được gọi bằng tên (ngoại diên) là tế bào sinh dục sơ khai.[8] Cách gọi này dễ hiểu, hàm ý so sánh với tế bào sinh dưỡng, tuy nhiên có thể gây bỡ ngỡ (xem tế bào xôma và tế bào sinh dục). Những giới thiệu trên chứng tỏ còn có sự chưa thống nhất hoàn toàn về nội hàm của khái niệm "tế bào mầm" và có thể gây hiểu nhầm. Gần cuối thế kỉ XVII, con người phát minh ra kính hiển vi, nhờ đó biết được tế bào là đơn vị cấu tạo nên cơ thể sinh vật. Khoảng giữa thế kỉ XIX, học thuyết tế bào ra đời, trong đó có phân biệt tế bào sinh dưỡng (giờ thường gọi là tế bào xôma) và tế bào sinh dục. Khi học thuyết tiến hoá phát triển, thì vấn đề về quá trình di truyền (thời đó gọi là sự kế thừa) trong tiến hoá được đặt ra: Vậy tế bào sinh dưỡng hay tế bào sinh dục đóng vai trò quan trọng hơn trong di truyền? Có thể cho rằng August Weismann đã đề xuất khái niệm "tế bào mầm" trong lý thuyết dòng mầm ("Keimplasmatheorie") của ông từ cuối thế kỉ XIX, trong đó ông cho rằng chất mầm (tiếng Đức: Keimplasma) là thông tin di truyền mà bố mẹ truyền cho con qua các tế bào nằm ở tuyến sinh dục (buồng trứng và tinh hoàn), gọi là Keimzellen (giao tử) chứ không phải qua tế bào sinh dưỡng. Giao tử đực và giao tử cái chứa "chất mầm" này hợp nhất với nhau trong thụ tinh tạo thành hợp tử, rồi hợp tử phát triển thành cơ thể con kế thừa đặc điểm của bố mẹ. Đến đời con chất mầm cứ thế được truyền đến các thế hệ sau, tạo thành "dòng mầm" liên tục qua các thế hệ. Như vậy, khái niệm "tế bào mầm" dùng để chỉ loại tế bào đóng vai trò chuyển vật chất di truyền từ bố mẹ cho con.[9] Nội dung khái niệmDo sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, các thành tựu nghiên cứu phôi học ngày càng nhiều, đồng thời cũng phát sinh nhiều khái niệm mới, khá phức tạp và dễ nhầm lẫn với nhau. Dưới đây điểm qua những nội dung chính của khái niệm "tế bào mầm" hiện nay.[4][10][11]
Khái niệm liên quanHiện nay, trong quá trình phát triển của khoa học và công nghệ, trên các tài liệu khoa học đã xuất hiện một số khái niệm tương đối mới có liên quan tới vấn đề này.[13][14]
Các tế bào mầm nguyên thủy (PGC) xuất hiện đầu tiên trong quá trình phát triển của phôi động vật, thì vừa phân chia lại vừa di chuyển từ vị trí ban đầu chúng sinh ra trong phôi, qua ruột rồi mới đến tuyến sinh dục vào thời kì phát triển. Sự di chuyển này, trong phôi học gọi là di cư (xem video ở H.2). Vậy là nhóm PGC này "di cư" trong quá trình phát triển cá thể, rồi "định cư" tại buồng trứng (ở con cái) và tinh hoàn (ở con đực). Khi cơ thể sinh vật trưởng thành về mặt sinh dục, thì PGC phát sinh ra giao tử qua quá trình hình thành giao tử.[13] Hình thành giao tử
Có thể kết luận tóm tắt như sau:[1][4][10][19][20]
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tế_bào_mầm&oldid=65416767” |