Issn và ISBN là gì

Mục lục

  • 1 Định dạng
  • 2 Cấp mã
  • 3 So sánh với các mã nhận dạng khác
  • 4 Tính sẵn có
  • 5 Sử dụng URN
    • 5.1 Vấn đề
  • 6 Nhãn danh mục phương tiện
    • 6.1 ISSN cho bản in
    • 6.2 ISSN điện tử
  • 7 Chú thích
  • 8 Liên kết ngoài

Mã số chuẩn quốc tế cho tạp chí, sách và sự phân loại tạp chí khoa học

07/01/2017

Để có thêm thông tin cho các ứng viên chức danh giáo sư [GS], phó giáo sư [PGS] và Hội đồng Chức danh giáo sư các cấp [HĐCDGS các cấp], chúng tôi đã tham khảo một số tài liệu trong nước và quốc tế về sự phân loại tạp chí khoa học và hệ thống hóa lại trong bài viết này. HĐCDGS các cấp đã nhận được nhiều tạp chí khoa học của Việt Nam và thế giới, nhưng vẫn còn không ít tạp chí trong nước cần phải góp ý thêm về cách trình bày một bài báo khoa học ở trong đó.

1. Mã số ISSN cho tạp chí và mã số ISBN cho sách

ISSN [International Standard Serial Number] là mã số chuẩn quốc tế cho xuất bản phẩm nhiều kỳ [XBPNK], một mã được công nhận trên phạm vi toàn thế giới nhằm xác định nhan đề của các XBPNK. Khi đã có chỉ số ISSN, thì tạp chí sẽ được quốc tế thừa nhận chính thức và giới thiệu trên quy mô toàn cầu, hay nói nôm na là đã có "thẻ căn cước" để đi lại trong "làng" thông tin toàn cầu. Nhưng ISSN không liên quan đến việc bảo vệ quyền sở hữu, bản quyền hoặc bảo vệ nhan đề của XBPNK với các nhà xuất bản khác. Khác với sự xét chọn và phân loại theo chất lượng tạp chí khoa học của Viện Thông tin Khoa học [Institute for Scientific Information, ISI, Hoa Kỳ] hoặc Scopus của Nhà xuất bản Elsevier [Hà Lan], chỉ số ISSN của một tạp chí không liên quan đến chất lượng khoa học của các bài báo được đăng ở trong đó.

Danh sách ISSN này bao hàm và rộng hơn rất nhiều so với danh sách ISI và Scopus. Hiện nay, danh sách ISI bao gồm khoảng 10.000 tạp chí. Cho đến tháng 5 năm 2012, Scopus bao gồm 18.500 tạp chí về khoa học tự nhiên, công nghệ, kỹ thuật, y dược và khoa học xã hội của hơn 5.000 nhà xuất bản [15% của Elsevier và 85% của các nhà xuất bản quốc tế khác]. Danh sách ISSN bao gồm khoảng 1,3 triệu tên XBPNK [xem mô tả ở hình dưới]. Thế nhưng ở Việt Nam vẫn còn một số tạp chí chưa đăng ký để có chỉ số ISSN. Từ năm 2012, chỉ những bài báo khoa học được đăng ở các tạp chí có chỉ số ISSN mới được Hội đồng Chức danh giáo sư các cấp xem xét, tính điểm.

Văn phòng Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước [HĐCDGSNN] xin kiến nghị các ban biên tập tạp chí khoa học trong cả nước, sau khi tạp chí đã được Cục Xuất bản, Bộ Thông tin và Truyền thông, cấp Giấy phép xuất bản [xem như là "giấy khai sinh"], cần phải làm tiếp thủ tục đăng ký [miễn phí] mã số chuẩn quốc tế ISSN [để làm "thẻ căn cước"] tại:Trung tâm ISSN Việt Nam,Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ, Số 24, Lý Thường Kiệt, Q. Hoàn Kiếm, Hà Nội, Phòng 310 [tầng 3], ĐT: 04-39349116, Fax: 04-39349127, E-mail:, website: vista.vn.

Thêm vào đó, theo chúng tôi biết thì mới có rất ít sách đã được xuất bản tại Việt Nam có mã số chuẩn quốc tế ISBN [International Standard Book Number]. Đây là mã số chuẩn quốc tế để xác định một quyển sách. Trên thế giới, khái niệm và việc đăng ký mã số ISBN cho sách được bắt đầu từ những năm 1966-1970 và đã trở thành thông lệ, còn ở ta mới từ năm 2007. Đây là việc làm tuy nhỏ nhưng lại cần thiết để chuẩn hoá công việc xuất bản và hội nhập quốc tế. Văn phòng HĐCDGSNN sẽ kiến nghị HĐCDGS các cấp, trong tương lai gần, chỉ xem xét tính điểm những cuốn sách khoa học đã được xuất bản nhưng có mã số ISBN. Việc đăng ký mã số chuẩn quốc tế ISBN được thực hiện tại: Cục Xuất bản, Bộ Thông tin và Truyền thông, Số 10, Đường Thành, Hà Nội, ĐT: 04-39233152 và 04-39233153.

2. Phân loại ISI

Viện Thông tin khoa học [Institute for Scientific Information, ISI, Hoa Kỳ] đã xét chọn chất lượng của các tạp chí trên thế giới một cách khắt khe và kỹ lưỡng để đưa vào cơ sở dữ liệu của họ. Mặc dù vẫn còn có những ý kiến chưa thống nhất, nhưng ISI vẫn là một trong rất ít cách phân loại được thừa nhận và sử dụng rộng rãi khi bàn luận về chất lượng khoa học của các công trình nghiên cứu. Liên hợp quốc, các Chính phủ và các Tổ chức quốc tế thường sử dụng thống kê của ISI trong quản lý và hoạch định các chính sách khoa học, kỹ thuật. Các thống kê và đánh giá về khoa học, công nghệ và kỹ thuật nếu không theo ISI thì bị lệch so với thống kê quốc tế.

ISI lúc đầu [năm 1960] chỉ bao gồm tập hợp SCI [Science Citation Index] với khoảng khoảng 4.000 tạp chí khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ có chất lượng cao và truyền thống lâu đời nhất trên thế giới [//science.thomsonreuters.com/cgi-bin/jrnlst/jlsubcatg.cgi?PC=K]. Về sau SCI mở rộng thành tập hợp SCIE [Science Citation Index Expanded] với khoảng 7.000 tạp chí khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ xuất bản từ năm 1900 đến nay [//science.thomsonreuters.com/cgi-bin/jrnlst/jlsubcatg.cgi?PC=D]. Hiện nay, ISI còn bao gồm tập hợp SSCI [Social Science Citation Index] với hơn 2.000 tập chí xuất bản từ năm 1956 đến nay và A&HCI [Arts & Humanities Citation Index] với hơn 1.200 tập chí xuất bản từ năm 1975 đến nay. Như vậy, ISI là tập hợp bao hàm cả SCI, SCIE, SSCI và A&HCI với tổng cộng khoảng 10.000 tạp chí khoa học có chất lượng cao, trong tổng số hàng trăm nghìn tạp chí "thượng vàng hạ cám" trên thế giới.

Chất lượng của các tạp chí ISI chủ yếu được đánh giá dựa trên qui trình kiểm duyệt để đăng bài và các thống kê về chỉ số được trích dẫn của các bài báo đăng trên tạp chí đó thông qua chỉ số ảnh hưởng [Impact Factor, IF]. Các chỉ số khoa học từ nguồn ISI đã được Tổ chức xếp hạng đại học của Đại học Giao thông Thượng Hải [Trung quốc] sử dụng để đánh giá số lượng, chất lượng nghiên cứu khoa học và xếp hạng các trường đại học trên thế giới. Khi không có công bố các kết quả nghiên cứu trên các tạp chí ISI thì các trường đại học, các cơ sở nghiên cứu khoa học sẽ không bao giờ lọt được vào bảng xếp hạng quốc tế nào.

Để dễ hình dung, chúng tôi tạm phác hoạ sơ đồ mô tả sự phân loại tạp chí khoa học theo ISI và chỉ số ISSN đối với tạp chí, ISBN đối với sách như sau:

3. Phân loại Scopus

Như đã nói ở trên, hiện nay, bên cạnh phân loại ISI, nhiều tổ chức xếp hạng thế giới, ví dụ như Tổ chức xếp hạng các cơ sở nghiên cứu khoa học SCIMAGO [//scimagojr.com] hoặc Tổ chức xếp hạng đại học [QS World University Rankings,//www.topuniversities.com], ..., còn sử dụng cơ sở dữ liệu từ nguồn Scopus [được xây dựng từ tháng 11 năm 2004] của Elsevier [Hà Lan]. Để được liệt kê vào danh sách Scopus, các tạp chí cũng được lựa chọn nghiêm ngặt. Số lượng tạp chí nằm trong Scopus gần gấp đôi số lượng nẳm trong ISI, nhưng không bao gồm tất cả mà chỉ chứa khoảng 70% số lượng tạp chí của ISI. Tuy nhiên, nguồn Scopus chỉ bao gồm các bài báo xuất bản từ năm 1995 trở lại đây. Cách đánh giá chất lượng các tạp chí của Scopus cũng dựa vào chỉ số ảnh hưởng IF, nhưng trang web của Scopus [//www.scopus.com] rất tiện ích khi sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, từ tra cứu tài liệu đến đánh giá tình hình nghiên cứu khoa học của các cá nhân và các cơ sở đào tạo, nghiên cứu, ... Các số liệu của Scopus đã được SCIMAGO sử dụng để đánh giá, xếp hạng các tạp chí khoa học và các cơ sở khoa học. Theo số liệu đó, trong số hơn 2.800 cơ sở nghiên cứu mạnh ở trên thế giới, Việt Nam chúng ta đã có tên 3 đơn vị: Viện KH-CN Việt Nam, ĐHQG TPHCM và ĐHQG HN. Đặc biệt, trang web SCIMAGO [//scimagojr.com] mở miễn phí, trong đó các tạp chí được xếp hạng chung và xếp hạng theo từng lĩnh vực và ngành hẹp, rất thuận tiện để Hội đồng chức danh giáo sư các cấp tra cứu, đánh giá chất lượng của các tạp chí khoa học quốc tế và bài báo khoa học liên quan.

Cho đến nay, Việt Nam chưa có tạp chí khoa học nào được lọt vào danh sách ISI. Bộ KH-CN, Viện KH-CN Việt Nam và các cơ quan liên quan đã và đang cố gắng giới thiệu một số tạp chí khoa học của ta ra quốc tế để chúng ta có thể có được những tạp chí khoa học đầu tiên đạt chuẩn quốc tế ISI. Rất mừng là, vừa qua tạp chí toán học Acta Mathematica Vietnamica của Viện Toán học [Viện KH-CN Việt Nam] lần đầu tiên được lọt vào danh sách Scopus. Các quốc gia trong cộng đồng ASEAN như Malaysia đã có 48 tạp chí và Thái Lan đã có 21 tạp chí được công nhận để xếp vào hệ thống Scopus.

Chúng ta có thể tham khảo cách đánh giá các công bố quốc tế khi tài trợ cho các đề tài nghiên cứu cơ bản của Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghê Quốc gia [NAFOSTED, website://nafosted.gov.vn]. Cần phải nhấn mạnh thêm rằng: Đối với nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, công bố quốc tế không chỉ là một đòi hỏi quan trọng đối với các nhà khoa học trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ, mà ngay cả đối với các lĩnh vực khoa học xã hội, nhân văn,... Gần đây, khi Trung Quốc tăng cường lấn chiếm trên Biển Đông, thì chúng ta càng thấy rõ tầm quan trọng to lớn của những tiếng nói và tài liệu có căn cứ khoa học trên các diễn đàn quốc tế của các nhà khoa học Việt Nam trong các lĩnh vực như khảo cổ, lịch sử, địa lý, biển đảo, luật quốc tế, ngoại giao,... để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc.

4. Chỉ số H và IF

Khi xếp hạng [tương đối chính xác] các tạp chí khoa học trên thế giới người ta thường dựa vào các chỉ số “đo” chất lượng khoa học của tạp chí, ví dụ chỉ số ảnh hưởng IF [Impact Factor] và chỉ số H [H-index]. “Rất khó đánh giá chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học, vì cộng đồng khoa học vẫn chưa nhất trí một chuẩn mực thống nhất cho tất cả các lĩnh vực nghiên cứu”. Tuy nhiên, hai chỉ số [có quan hệ với nhau] thường được sử dụng để ước định chất lượng của một công trình nghiên cứu khoa học là chỉ số ảnh hưởng và số lần trích dẫn [citation index]. Theo định nghĩa được công nhận, hệ số ảnh hưởng IF là số lần trích dẫn hay tham khảo trung bình các bài báo mà tạp chí đã công bố hai năm trước. Do đó, những công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí có hệ số ảnh hưởng cao, ví dụ như Science, Nature, ..., thường có chất lượng khoa học rất cao. Tuy nhiên, hệ số ảnh hưởng của tạp chí cũng còn phụ thuộc vào các ngành khoa học khác nhau.

Năm 2005, nhà vật lý người Mỹ Jorge Hirsch của Đại học California ở San Diego đã đưa thêm chỉ số H [H-index] để đánh giá các kết quả khoa học và làm cơ sở so sánh đóng góp khoa học của các nhà khoa học khác nhau [trong cùng lĩnh vực]. Theo Jorge Hirsch thìmột nhà khoa học có chỉ số H nếu trong số N công trình của ông ta có H công trình khoa học [H < N] có số lần trích dẫn của mỗi bài đạt được từ H trở lên.Như vậy, chỉ số H chứa đựng được cả hai thông tin: số lượng [số các bài báo được công bố] và chất lượng, tầm ảnh hưởng [số lần được các nhà khoa học khác trích dẫn] của hoạt động khoa học.

Jorge Hirsch cũng đã xem xét chỉ số H cho một số nhà khoa học và đưa ra nhận xét rằng, trong lĩnh vực vật lý lý thuyết, các nhà khoa học Mỹ thành công [successful] sẽ có chỉ số H = 20 sau 20 năm; một nhà khoa học nổi tiếng [outstanding] sẽ có chỉ số H = 40 sau 20 năm; thiên tài khoa học [truly unique individual] sẽ có chỉ số H = 60 sau 20 năm. Jorge Hirsch cũng đã đề nghị rằng ở Mỹ một nhà khoa học có thể bổ nhiệm phó giáo sư [associate professor] nếu có chỉ số H khoảng 12 và giáo sư [full professor] nếu H vào khoảng 18. Các nhà khoa học được giải thưởng Nobel thường có chỉ số H trong khoảng từ 35 đến 100. Chỉ số H cao nhất của một số lĩnh vực khác như hoá - lý: 100, sinh học: 160, khoa học máy tính: 70, trong khi đó lĩnh vực kinh tế học có chỉ số H vào khoảng 40.

Thiết nghĩ, khi đánh giá các ứng viên để trao giải thưởng khoa học hoặc để công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư, nếu chúng ta tham khảo thêm chỉ số H của ứng viên đó thì sẽ có thêm thông tin về mức độ ảnh hưởng của ứng viên đó trong cộng đồng khoa học cùng lĩnh vực. Hiện nay việc tìm chỉ số H của bất cứ nhà khoa học học nào đều rất đơn giản nhờ trang web của Scopus.

5. Một vài lưu ý khi trình bày bài báo trong các tạp chí khoa học

Gần đây, sau khi làm việc với 27 HĐCDGS ngành, liên ngành để tính điểm bài báo được đăng trong các tạp chí khoa học và tính điểm sách khoa học của các ứng viên giáo sư, phó giáo sư, Văn phòng HĐCDGSNN xin nêu lên một số nhận xét bước đầu như sau:

Cho đến nay, theo yêu cầu của HĐCDGSNN, hầu hết các tạp chí khoa học của nước ta, nơi đăng những bài báo khoa học của các ứng viên, đã được đăng ký mã số chuẩn quốc tế cho xuất bản phẩm nhiều kỳ ISSN. HĐCDGSNN đã quy định từ năm 2012 trở đi chỉ những bài báo khoa học được đăng trong các tạp chí có chỉ số ISSN mới được các hội đồng chức danh giáo sư các cấp xem xét, tính điểm. Xin lưu ý thêm rằng, trong Thông tư số 10/2009/TT-BGDĐT ngày 07 tháng 5 năm 2009 về Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ và trong Thông tư sửa đổi, bổ sung, số 05/2012/TT-BGDĐT ngày 15 tháng 02 năm 2012, Bộ GD-ĐT cũng đã quy định, khi nghiên cứu sinh bảo vệ luận án tiến sĩ, nếu có những bài báo khoa học được đăng ở trong nước, thì chỉ được sử dụng những bài báo đã được công bố trên các tạp chí mà HĐCDGSNN tính điểm [xem “Văn bản pháp quy và tài liệu hướng dẫn về việc xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS năm 2012” của HĐCDGSNN]. Bộ GD-ĐT cũng đã khuyến khích nghiên cứu sinh đăng bài trên các tạp chí khoa học quốc tế có uy tín được liệt kê tại địa chỉ//science.thomsonreuters.com/mjl/.

Theo thông lệ quốc tế thì khi một bài báo khoa học được đăng trên tạp chí thường kèm theo các thông tin sau đây: Ngày tòa soạn nhận được bài báo /received, ngày phản biện đánh giá, yêu cầu sửa chữa lại bài báo [nếu có]/revised, ngày bài báo được đăng/accepted for publication, tóm tắt bài báo/summary/abstract [nếu bài báo được viết bằng tiếng Việt thì nên có tóm tắt bằng tiếng Anh], các mã số phân loại chuyên ngành của bài báo/subject classification, các từ khóa trong bài báo/keywords, tài liệu tham khảo khi viết bài báo/references,... Văn phòng HĐCDGSNN kiến nghị Hội đồng Chức danh giáo sư các cấp: Để tiếp cận các quy chuẩn quốc tế, trong một tương lai gần, chỉ nên xem xét những bài báo khi được đăng ở trong nước đã có đủ các thông tin nêu trên. Mặc dù chúng ta biết rằng một bài báo khoa học được đăng ở trong nước với đầy đủ các thông tin như trên chưa hẳn chất lượng khoa học đã cao.

Lời cám ơn:Trong khi chuẩn bị tài liệu này, chúng tôi đã nhận được những góp ý và bổ sung rất có giá trị của GS Phạm Duy Hiển và GS Nguyễn Hữu Đức. Phần nói về Scopus và Scimago trong bài này là nhờ đóng góp của GS Nguyễn Hữu Đức.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Duy Hiển, A comparative study of research capabilities of East Asian countries and implications for Vietnam,High Educ., [Springer], Vol. 60, p. 615-626, 2010.

2. Phạm Duy Hiển, Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Hữu Đức, Phạm Đức Chính, thông qua các đường link:

//vietsciences.free.fr/khaocuu/congtrinhkhoahoc/khoahocvadaihocvn.htm],

//www.ykhoanet.com/binhluan/nguyenvantuan/071229_nguyenvantuan-nguyendinhnguyen_chatluong-nckh-vietnam.htm],//www.pnas.org/cgi/content/abstract/102/46/16569,

3.//en.wikipedia.org/wiki/H-index.

4. Nguồn thông tin từTrung tâm ISSN Việt Nam,Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ và từ Cục Xuất bản, Bộ Thông tin và Truyền thông.

5.//science.thomsonreuters.com/cgi-bin/jrnlst/jlsubcatg.cgi?PC=K

6.//science.thomsonreuters.com/cgi-bin/jrnlst/jlsubcatg.cgi?PC=D

GS. Trần Văn Nhung

1. Khái quát về ISSN

1.1. ISSN là gì?

ISSN chính là cụm từ của từ được viết tắt của cụm từ tiếng Anh - International Standard Serial Number. Cụm từ tiếng Anh này được dịch sang ý nghĩa của tiếng Việt đó chính là “Mã số tiêu chuẩn chất lượng quốc tế” đối với các xuất bản là tác phẩm nhiều ký.

Mã số này là dãy số bao gồm có 8 chữ số, mã số này được sử dụng chủ yếu trong ngành Báo chí với vai trò để nhận dạng được những tác phẩm xuất bản nhiều kỳ. Khi thực hiện và ghi mã số này thì người thực hiện cần thể hiện mã số bằng văn bản in hoặc là thực hiện chúng dưới dạng xuất bản điện tử. Mã số ISSN thường xuất hiện trên các tạp chí, các tờ báo, các bản tin hàng ngày, những trang tin tức, các báo cáo thường niên, những kỷ yếu,

Mã số ISSN có rất nhiều những đặc điểm thú vị giúp các bạn hiểu được mã số này rõ ràng hơn. Nắm bắt ý nghĩa của mã ISSN sẽ giúp cho các bạn nhanh chóng hiểu, nếu bạn nào yêu thích viết lách, có các tác phẩm đăng báo thì sẽ cần phải tìm hiểu kỹ hơn nữa về mã số ISSN. Sau đây là những đặc điểm cực kỳ thú vị và quan trọng, các bạn cần nắm rõ qua những.

1.2. Một vài đặc điểm nổi bật của ISSN

Một số đặc điểm về ISSN là gì?

Mã số tiêu chuẩn chất lượng quốc tế là một trong những mã số được thế giới công nhận với vai trò dặc biệt là xác định rõ các tiêu đều của các nhà xuất bản. Khi mà các tạp chí, các tờ báo được được cấp chỉ số tiêu chuẩn quốc tế này thì tạp chí đó sẽ được thế giới thừa nhận và mã số này chính thức trở thành mã số tiêu chuẩn quốc tế, được áp dụng trong phạm vi toàn cầu.

Bạn hãy tưởng tượng khi chúng ta tồn tại và sinh sống ở bất cứ đất nước nào thì chúng ta cần phải có tấm thẻ căn cước thì đối với mã số tiêu chuẩn quốc tế trong xuất bản các ấn phẩm nhiều ký cũng vậy, mã số này giống như một tấm thẻ căn cước giúp nó dễ dàng đi lại một cách hợp pháp và thoải mái trong làng thông tin trong phạm vi toàn cầu.

Chỉ số ISSN không giống với những tính chất và chủng loại của các tạp chí khoa học của những cơ quan lớn về thông tin trên thế giới như Viện Thông tin Khoa học, Nhà xuất bản Elsevier của đất nước Hà Lan thì chỉ số ISSN lại không có sự liên quan tới khía cạnh chất lượng trong lĩnh vực khoa học đối với các bài báo được đăng.

1.3. Điều kiện để được cấp mã ISSN

Những điều kiện để được cấp mã ISSN là gì?

Các Trung tâm Quốc gia về ISSN sẽ phụ trách cấp phát mã ISSN, địa điểm nằm tại thư viện quốc gia, phối hơp ăn ý với Trung tâm Quốc tế về ISSN có trụ sở tại Paris và tại Pháp. Đây là những trung tâm mang tầm cỡ quốc tế được thành lập giống như một minh chứng để thấy được rằng mã ISSN chính là một trong những mã số chung cho toàn cầu.

Tại các trung tâm này luôn có cơ sở dữ liệu, tên gọi của dữ liệu đó là ISD Re [Register], trong đó, dữ liệu này có chứa tất cả những ISSN mà mang tính chất được cấp chung cho toàn thế giới.

1.4. Một số lưu ý của mã số ISSN

Cần lưu ý những gì về ISSN?

Những lưu ý được nêu ra sau đây rất quan trong để các bạn biết được cách nhận diện và sử dụng mã ISSN. Hãy cùng theo dõi những lưu ý này để thấy được những điều mà chúng ta cần tìm hiểu về mã ISSN nhé.

Các bài báo để có thề được đăng trong những tờ tập chí trong và ngoài nước, các tạp chí mang tầm cỡ thế giới, các tạp chí khoa học, đồng thời để tính điểm cho sự xuất hiện của chúng, tính điểm cho các cuốn sách nghiên cứu khoa học được xuất bản bởi các vị giáo sư, tiến sĩ, các vị phó giáo sư nghiên cứu nên. Sau đây là một số bước để tính điểm như sau:

Thể theo yêu cầu của các trung tâm, gần như những tờ tạp chí mang tính khoa học tại nước ta đều được đăng ký mã ISSN [mã số chuẩn quốc tế đối với việc xuất bản các ấn phẩm nhiều kỳ]. Những quy định về vấn đề này được đặt ra kể từ năm 2012 đối với những tờ tạp chí, tờ báo khoa học và được đăng trong những tờ tạp chí đã có sẵn chỉ số ISSN, cũng coi như một dấu ấn để có thể khẳng định được sự công nhận, được chất lượng của các bài báo đó, đồng thời chỉ khi có được những chỉ số ISSN như vậy thì bài báo mới có thể được cả hội đồng công nhận và tính điểm.

Một số lưu ý cần nắm để được cấp mã số ISSN

Trong trường hợp đối với các thí sinh nghiên cứu các dự án và làm các bài luận văn, luận án, bảo vệ tốt nghiệp, bảo vệ luận án tiến sĩ… mà nếu có những bài báo mang tính chất khoa học có đủ tiêu chuẩn để được đăng trong nước thì các thí sinh này chỉ được dùng những bài báo đã được xét chỉ số ISSN và được công bố tại các tạp chí đã được tính điểm.

Đồng thời, nếu các bạn nghiên cứu sinh mà đăng bài trên các tờ báo và tờ tạp chí uy tín của thế giới thì bài luận văn luận án của họ sẽ có giá trị hơn rất nhiều. Để có thể nâng cao chất lượng của các bài báo thì những bài báo khi viết ra cần dày công nghiên cứu để đạt được các chỉ tiêu nêu trên, đồng thời các nghiên cứu sinh cũng được khuyến khích để đăng bài trên các tờ tạp chí thế giới có uy tín và đã được gắn mã ISSD.

Tìm việc làm online

Sự khác biệt giữa ISBN 10 và ISBN 13 | ISBN 10 so với ISBN 13

Sự khác biệt giữa ISBN 10 và ISBN 13 là gì? ISBN 10 là hệ thống cũ hơn. Khi các nhà xuất bản hết số lượng, họ đã giới thiệu hệ thống mới ISBN

Khác biệt giữa sự khác biệt và khác biệt Sự khác biệt giữa

Sự khác biệt giữa ISBN 10 và 13 Sự khác biệt giữa

ISBN 10 và 13 Khi nền văn minh, khoa học, và toàn thế giới tiến triển, nhiều điều mới được phát triển, phát minh ra, hoặc phát hiện ra. Một số rất gần

Thông tin tìm hiểu về công bố khoa học quốc tế

  • TIN TỨC

Tags

  • Viện Công nghệ sinh học

  • Tweet

Có công bố khoa học quốc tế, nhất là công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín, đang là yêu cầu bắt buộc đối với các ứng viên xét đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS; các cán bộ giảng viên chủ trì đề tài KH&CN các cấp; các nghiên cứu sinh,…Nhằm giúp cho cán bộ, giảng viên nắm được cơ bản về công bố khoa học quốc tế, Ban KHCN&QHQT Đại học Huế tập hợp, biên tập và giới thiệu một số thông tin dưới dạng các câu hỏi thường gặp [FAQ] dưới đây. Một vài thông tin có thể chưa đầy đủ và chuẩn xác, chúng tôi rất mong nhận được phản hồi của quý thầy cô, anh chị qua email hoặc .

Hỏi:Thế nào là tạp chí khoa học quốc tế có uy tín?

Trả lời:Uy tín cuả tạp chí khoa học liên quan đến chất lượng khoa học của tạp chí đó, thường được đánh giá qua một hay một số tiêu chí [ví dụ quy trình xuất bản, chất lượng nội dung các bài báo, số lượng trích dẫn, danh tiếng của ban biên tập, danh tiếng của nhà xuất bản,…]. Tùy theo quan điểm, mục đích của tổ chức, tiêu chí đánh giá có thể khác nhau và do đó chất lượng, uy tín của tạp chí có thể khác nhau.

Hiện nay, có sự thừa nhận rộng rãi trong cộng đồng khoa học quốc tếtạp chí khoa học uy tín là các tạp chí được chỉ mục trong danh mục Scopus và danh mục Web of Science Core Collection [WoS, trước đây thường biết với tên gọi phổ biến là ISI].

Ở Việt Nam, với mục đích tính điểm quy đổi để đánh giá và công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS, theo Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg ngày 31/12/2018 của Thủ thướng Chính phú thì tạp chí khoa học quốc tế có uy tín là những tạp chí khoa học có mã số chuẩn quốc tế ISSN thuộc danh mục trong Web of Science [ISI], danh mục Scopus hoặc danh mục quốc tế khác do Hội đồng Giáo sư nhà nước quyết định [xem Phụ lục 1 củaQuyết định 37]. Danh mục cụ thể sẽ do các Hội đồng GS ngành, liên ngành công bố hàng năm.

Theo Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia [NAFOSTED], tạp chí quốc tế có uy tín được quy định cụ thể và khác nhau đối với 2 nhóm lĩnh vực Khoa học tự nhiên-kỹ thuật và Khoa học xã hội-nhân văn. Ví dụ, hiện tại, đối với lĩnh vực Khoa học tự nhiên-kỹ thuật thì đó là 6940 tạp chí thuộc nhóm Q1, Q2, Q3 của danh mục SCIE trong WoS theo từng chuyên ngành [xemQuyêt định số 151/QĐ-HĐQL-NAFOSTEDngày 09/8/2019]; đối với lĩnh vực Khoa học xã hội-nhân văn là tạp chí thuộc danh mục AHCI, SSCI của WoS, tạp chí thuộc danh mục Scopus và tạp chí thuộc các nhà xuất bản uy tín thế giới với danh sách cụ thể [xemQuyêt định số 251/QĐ-HĐQL-NAFOSTEDngày 11/12/2019].

Hỏi:Danh mục WoS là gì?

Trả lời:WoS là viết tắt của Web of Science, cơ sở dữ liệu [CSDL] trích dẫn các tạp chí khoa học thế giới được tuyển chọn vàquản lý bởi Clarivate Analytics [Mỹ]. Nguyên CSDL này được sáng lập năm 1956 bởi Viện Thông tin Khoa học [Institute of Scientific Information], nên một thời gian dài được biết dưới tên gọi là ISI. Năm 1992, Thomson Science [sau này là Thomson Reuters] mua lại ISI [nên còn có tên là Thomson ISI] và đến năm 2016, Thomson Reuters bán lại cho Clarivate Analytics.

Phần lõi của WoS [WoS Core Collection] bao gồm dữ liệu trích dẫn các tạp chí khoa học, sách và kỷ yếu hội thảo.

Đối với tạp chí, hiện nay [2020] dữ liệu trích dẫn bao gồm khoảng 22.000 tạp chí của hơn 250 ngành khoa học, phân thành 04 nhóm [thường gọi là danh mục]:

– Science Citation Index Expanded[SCIE] với hơn 9.200 tạp chí của khoảng 150 ngành, xuất bản từ 1990 đến nay.

– Social Sciences Citation Index [SSCI] với hơn 3.400 tạp chí của các ngành khoa học xã hội, xuất bản từ 1900 đến nay.

– Arts & Humanities Citation Index[AHCI hay A&HCI] với hơn 1.800 tạp chí các ngành nhân văn và nghệ thuật, xuất bản từ 1975.

– Emerging Sources Citation Index[ESCI] với hơn 7.800 tạp chí của tất cả các ngành khoa học [đây là các tạp chí “dự bị” để xét chọn vào 3 danh mục trên khi đủ điều kiện về chất lượng].

Chú ý:

– Thời gian đầu, ISI chỉ gồm các tạp chí khoa học tự nhiên và kỹ thuật [danh mục SCI, SCIE], sau này WoS đã bổ sung thêm các danh mục tạp chí khoa học xã hội và nhân văn, nghệ thuật.

– Ban đầu ISI và sau này WoS phân biệt 2 danh mục SCI và SCIE [SCI là một phần trong SCIE]. Chất lượng tạp chí trong 2 danh mục này là như nhau, chỉ khác là các tạp chí SCI chưa có dữ liệu trực tuyến mà chỉ có dữ liệu lưu trên đĩa CD, DVD. Tuy nhiên, từ 2019, do tất cả tạp chí đã có dữ liệu trực tuyến và để trành sự hiểu nhầm nên Clarivate chỉ giữ lại tên SCIE mà không còn dùng tên SCI nữa.

[Nguồn://clarivate.com/webofsciencegroup/solutions/web-of-science-core-collection/]

Hỏi:Danh mục Scopus là gì?

Trả lời:Danh mục Scopus là CSDL trích dẫn và tóm tắt các ấn phẩm khoa học được tuyển chọn và quản lý bởi Elsevier [Hà Lan], được thành lập từ năm 2004 [muộn hơn ISI/WoS].

CSDL Scopus bao gồm các loại ấn phẩm xuất bản nhiều kỳ [serial publications] có ISSN như tạp chí, chuỗi sách, chuỗi kỷ yếu và các ấn phẩm không xuất bản nhiều kỳ [non-serial publications] có chỉ số ISBN như sách hay kỷ yếu ra một lần.

Tính đến 1/2020, Scopus bao gồm trên 25.100 đầu ấn phẩm nhiều kỳ, trong đó khoảng 23.500 tạp chí có phản biện và hơn 850 chuỗi sách. Tổng số bản ghi là trên 77 triệu, trong đó 67,5% xuât bản sau năm 1996 và 32,5% xuất bản trước 1995.

Scopus không tách riêng các nhóm danh mục như WoS, nhưng phân loại các ấn phẩm theo 4 nhóm lĩnh vực gồm: Khoa học sự sống [Life sciences], Khoa học vật lý [Physical sciences], Khoa học sức khỏe [Health sciences] và Khoa học xã hội & nhân văn [Social sciences & Humanities]. Dưới nữa, các ấn phẩm lại được phân thành 27 ngành và hơn 300 chuyên ngành. Trong số 25.100 đầu ấn phẩm có đến 1/2020, tỷ lệ phân bố theo các nhóm lĩnh vực đã nêu theo thứ tự là 15,4%; 28%; 30,4% và 26,2%.

Ngoài việc bao gồm nhiều ấn phẩm thuộc các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn hơn WoS, Scopus còn có ưu điểm cung cấp nhiều chức năng tra cứu rất tiện cho người dùng cho nhiều mục đích khác nhau, từ tra cứu tài liệu đến đánh giá công bố khoa học của cá nhân và các cơ sở giáo dục đại học. Trong khi WoS rất hạn chế tra cứu miễn phí thì Scopus cho tra cứu miễn phí khá nhiều thông tin.

[Nguồn://www.elsevier.com/?a=69451].

Hỏi:Làm thế nào để biết một tạp chí khoa học có thuộc danh mục Scopus hoặc WoS không?

Trả lời:Cách đơn giản và tin cậy nhất là tra cứu trực tiếp trên các website sau đây:

– Đối với WoS://mjl.clarivate.com/

– Đối với Scopus://www.scimagojr.com/

Ở ô tìm kiếm, nhập thông tintạp chí hoặc là chỉ số ISSN hoặc đầy đủ của tên tạp chí.

Chú ý:

– Khi tra cứu đối với WoS, kết quả hiển thị ban đầu chỉ mới gồm thông tin thuộc nhóm danh mục nào [SCIE, SSCI, AHCI, ESCI]. Muốn biết thêm chi tiết như chỉ số IF thì phải chọn View profile page và đăng nhập bằng tài khoản cá nhân [tạo miễn phí].

– Với Scopus, khi tra trên trang SCImago, kết quả ban đều chỉ hiển thị tên tạp chí, khi click vào tên sẽ hiện đầy đủ thông tin khác [H-index, CiteScore, Q,…]. Đặc biệt, cần chú ý mục “Coverage”, vì thông tin này cho biết liệu tạp chí có còn nằm trong danh mục Scopus nữa hay không hay đã bị đưa ra từ năm nào.

Trường hợp muốn có danh mục sẵn trong máy tính đề tra cứu, có thể tải về các danh mục từ các webssite:

– Đối với WoS://mjl.clarivate.com/collection-list-downloads[cần đăng nhập với tài khoản cá nahan]

– Đới với Scopus://www.scopus.com/home.uri[Mục Scopus content >> Scopus source list]

Hỏi:Một tạp chí khoa học có thể vừa thuộc danh mục Scopus, vừa thuộc danh mục WoS không?

Trả lời:Dĩ nhiên là có thể. Theo một thống kê năm 2019, tính trên toàn bộ CSDL, có 49% số tạp chí vừa thuộc Scopus vừa thuộc WoS. Số còn lại, hoặc chỉ thuộc Scopus mà không thuộc WoS và ngược lại. Tỷ lệ trùng nhau và biệt lập giữa 2 danh mục khác nhau tùy theo lĩnh vực khoa học, ví dụ:

Nhóm lĩnh vựcChỉ thuộc ScopusThuộc cả Scopus và WoSChỉ thuộc WoS
Natural Sciences & Engineering35%49%16%
Biomedical Research49%43%8%
Social Sciences27%50%23%
Arts & Humanities22%49%29%

[Nguồn: Simona Tabacaru, April, 2019:

//oaktrust.library.tamu.edu/bitstream/handle/1969.1/175137/Web%20of%20Science%20versus%20Scopus%20Report%202019.pdf?sequence=4&isAllowed=y]

Hỏi:Các tạp chí trong danh mục WoS và Scopus chỉ xuất bản bằng tiếng Anh hay còn có ngôn ngữ nào khác?

Trả lời:Cả trong danh mục WoS và Scopus, ngoài tiếng Anh thì vẫn có các tạp chí xuất bản bằng ngôn ngữ khác như tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nga, tiếng Trung,… Một thống kê tháng 4/2029 [Simona Tabacaru, nguồn theo link có ở trên]cho thấy Scopus có khoảng 22% tạp chí không phải tiếng Anh. Tuy nhiên, khi xuất bản bằng tiếng khác thì tóm tắt buộc phải bằng tiếng Anh.

Một ví dụ, tạp chí “Chinese as a Second Language Research” [e-ISSN: 2193-2271, p-ISSN: 2193-2263] đăng cả bài viết bằng tiếng Anh và bằng tiếng Trung. Tạp chí này thuộc Scopus từ 2017 đến nay.

Hỏi:Chỉ số ISSN, ISBN là gì?

Trả lời:ISSN [International Standard Serial Number] là mã số tiêu chuẩn quốc tế, dưới dạng một dãy số gồm tám chữ số được dùng để nhận dạng một ấn phẩm xuất bản nhiều kỳ như tạp chí, báo, bản tin, chuỗi sách, chuỗi kỷ yếu hội thảo, ….Nhiều xuất bản phẩm có ở cả hai dạng in và điện tử nên được ISSN cũng có hai loại làISSN in[ISSN, p-ISSN] vàISSN điện tử[e-ISSNhayeISSN]. Ví dụ, Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Khoa học Tự nhiên có ISSN 1859-1388 và e-ISSN 2615-9678. Hệ thống ISSN được xây dựng như mộttiêu chuẩn quốc tếISO vào năm 1971 và được ấn hành với tên gọi ISO 3297 vào năm 1975, do Tiểu ban ISOTC 46/SC 9 quản lý.

ISBN [International Standard Book Number] là mã số chuẩn quốc tế để nhận dạng một cuốn sách. Hệ thống ISBN được tạo ở Anh năm1966, sau đó được công nhận quốc tế theo tiêu chuẩnISO 2108năm1970. ISBN có thể có 10 ký tự sô [kiểu cũ] hoặc 13 ký tự số [kiểu mới, áp dụng vớimã vạch]. Ví dụ, một cuốn sách của Nhà xuất bản Đại học Huế có mã ISBN 978-604-974-342-9.

ISSN vàISBNgiống nhau về mặt ý tưởng, chỉ khác ở đối tượng nhận diện. Đi kèm với ISSN áp dụng cho toàn bộ xuất bản phẩm nhiều kỳ thì ISBN cũng có thể được cấp cho một kỳ cụ thể của xuất bản phẩm đó.

Chỉ số ISSN của một tạp chí, chỉ số ISBN của một cuốn sách chỉ là mã nhận dạng cho tạp chí hay cuốn sách mà không liên quan và phản ánh chất lượng khoa học của tạp chí hay cuốn sách.

Hỏi:Chỉ số IF và CiteScore là gì, giống nhau và khác nhau thế nào?

Trả lời:Cả WoS và Scopus đều đánh giá và xếp loại chất lượng tạp chí khoa học thông qua số lượng trích dẫn của các bài báo đăng trên tạp chí. WoS sử dụng chỉ số IF [Impact factor, chỉ số ảnh hưởng] còn Scopus thì dùng chỉ số CiteScore [điểm trích dẫn].Như vậy IF và CiteScore đều là 2 chỉ số có bản chất như nhau để đo mức độ ảnh hưởng của tạp chí thông qua trích dẫn; là số trích dẫn trung bình tính trên 1 bài báo của tạp chí trong 1 khoảng thời gian xác định [lấy tổng số trích dẫn của các bài báo của tạp chí chia cho tổng số bài báo trong khoảng thời gian tính]. Đúng ra đơn vị của IF và CiteScore là số trích dẫn/bài báo. Khi so giữa các tạp chí trong cùng danh mục, tạp chí nào có IF hay CiteScore càng lớn thì ảnh hưởng hay uy tín càng cao.

Tuy nhiên, IF và CiteScore khác nhau ở một số điểm:

+ IF được tính từ CSDL tạp chí Web of Science [WoS] của Clarivate Analytics còn CiteScore được tính từ CSDL tạp chí Scopus của Elsevier. Hai dữ liệu này khác nhau về quy mô. Do đó, có tạp chí có CiteScore nhưng không có IF [do có tên trong Scopus nhưng không có trong WoS] và ngược lại.

+ IF có từ 1975 nhưng CiteScore thì mới có từ năm 2016.

+ IF tính trung bình cho khoảng thời gian 2 năm trong khi CiteScore [trước đây] thì tính trung bình cho thời gian 3 năm, đặc biệt CiteScore 2019 lại tính cho 4 năm [2016-2019].

+ Giá trị IF và CiteScore của một tạp chí [có tên trong cả WoS và Scopus] sẽ không giống nhau. Khi so sánh giữa các tạp chí thì chỉ được so sánh hoặc theo IF hoặc theo CiteScore mà không thể so sánh ngang giữa IF và CiteScore được [thậm chí có trường hợp cho kết quả ngược nhau]. Ví dụ:

Tạp chíNew England Journal of MedicineNature Reviews Materials
IF năm 201974,69971,189
CiteScore 201966,1123,7

Trên trang Clarivate [//mjl.clarivate.com/home] muốn tra IF phải đăng nhập bằng tài khoản, còn trên trang Scopus [//www.scopus.com/sources] có thể tra CiteScore trực tiếp không cần đăng nhập tài khoản. Tuy nhiên, thường trên trang chủ các tạp chí có cả thông tin IF và CiteScore, hoặc có nhiều trang tra cứu cho phép tra đồng thời cả IF và CiteScore.

Hỏi:Phân hạng tạp chí Q1, Q2, Q3, Q4 là gì?

Trả lời:Số trích dẫn, và theo đó là IF của WoS hay CiteScore của Scopus, rất khác biệt giữa các lĩnh vực, các ngành khoa học. Ví dụ, một thống kê cho thấy bài báo ngành toán có được trích dẫn mười lần là tương đương một bài trong ngành vật lý được trích dẫn khoảng ba chục lần hay một bài trong ngành khoa học sự sống được trích dẫn khoảng sáu chục lần. Do đó, việc so sánh IF hay CiteScore giữa các tạp chí chỉ có ý nghĩa trong từng ngành, từng lĩnh vực khoa học.

Nếu xếp các tạp chí thuộc cùng một ngành/lĩnh vực trong danh mục WoS [hay Scopus] theo chỉ số IF [hay CiteScore] từ cao xuống thấp, thì ứng với các tứ phân vị [quartile] sẽ phân thành 4 hạng:

– Q1: các tạp chí có IF [hay CiteScore] thuộc top 25%

– Q2: các tạp chí có IF [hay CiteScore] thuộc nhóm 25 – 50%

– Q3: các tạp chí có IF [hay CiteScore] thuộc nhóm 50 – 75%

– Q4: các tạp chí có IF [hay CiteScore] thuộc nhóm 75 – 100%.

Các tạp chí khoa học danh tiếng trong một ngành/lĩnh vực chiếm hầu hết hạng Q1.

Do IF và CiteScore khác nhau, nên hạng Q của một tạp chí ở WoS không nhất thiết trùng với hạng Q của tạp chí đó ở Scopus.

Đối với WoS, không thể tra được hạng Q của tạp chí trên trang//mjl.clarivate.com/bằng tài khoản miễn phí, nhưng với Scopus thì hoàn toàn có thể tra cứu trực tiếp không cần tài khoản từ trang SCImago//www.scimagojr.com/.

Hỏi:Thế nào là tạp chí khoa học dỏm và cách nhận biết?

Trả lời:Trước nhu cầu công bố khoa học quốc tế gia tăng mạnh, lợi nhuận hấp dẫn của việc xuất bản tạp chí khoa học và xu thế xuất bản trực tuyến, đã xuất hiện các tạp chí khoa học với danh nghĩa “quốc tế” có phí xuất bản rẻ, thời gian xuất bản ngắn nhưng chất lượng thấp. Cộng đồng khoa học gọi các tạp chí này là “predatory journal” – tạm dịch là tạp chí dỏm hay tạp chí ngụy tạo.

Theo GS. Nguyễn Văn Tuấn từ Úc [xemtại đây], các dấu hiệu để nhận diện tạp chí khoa học dỏm là:

[1]. Không có cơ quản chủ quản [thường là các hiệp hội chuyên ngành hoặc trường đại học, viện nghiên cứu].

[2]. Tên tạp chí thường chung chung, nghe rất “kêu” hoặc nhái theo tên các tạp chí nổi tiếng [Ví dụ: “Journal of Engineering and Medicine”, “International Journal of Engineering Technology and Scientific Innovation”,…]

[3]. Không có tên trong các danh mục WoS, Scopus [GS. Tuấn cho rằng vẫn có một số tạp chí hạng Q3, Q4 của Scopus là tạp chí dỏm].

[4]. Tổng Biên tập, thành viên Ban biên tập không có thành tích khoa học tốt, không có tiếng tăm trong lĩnh vực chuyên môn, thường là từ các nước Trung Đông, Ấn Độ, Châu Phi,…

[4]. Chất lượng bài báo kém, giá trị khoa học rất thấp, nhiều sai sót do không có phản biện hay có thì rất qua loa để xuất bản nhanh.

[5]. Tiếng Anh có nhiều sai sót.

Một số tổ chức, cá nhân đã nỗ lực lập danh sách các tạp chí dỏm để cảnh báo các nhà khoa học. Một trong số đó là “danh sách của Beall” [Beall’s list]. Jeffrey Beall là một quản trị viên thư viện tại ĐH Colorado Denver, năm 2010 ông đã thống kê hàng nghìn tạp chí và nhà xuất bản mà ông cho rằng đang lừa dối các tác giả bằng cách thu phí xuất bản nhưng không đi kèm với các quy trình phản biện, biên tập thông thường. Mặc dù năm 2017 Beall đã đóng cửa blog gây tranh cãi của mình do có “sức ép”, nhưng những người khác vẫn tiếp tục duy trì và cập nhật “danh sách của Beall”.

Website “danh sách của Beall” các nhà xuất bản và tạp chí có tiềm năng là dỏm://beallslist.net/

[Theo hueuni.edu.vn://cdgs.hueuni.edu.vn/news/tim-hieu-ve-cong-bo-khoa-hoc-quoc-te.html]

Tin liên quan

24/02/2022

Học bổng sau đại học từ Đại học Quốc gia Chung Cheng, Đài Loan

Xem thêm

DCIM101MEDIADJI_0381.JPG

10/02/2022

Viện Công nghệ sinh học, Đại học Huế phát động Tết trồng cây Xuân Nhâm Dần 2022

Xem thêm

09/02/2022

Viện Công nghệ sinh học, Đại học Huế tổ chức gặp mặt đầu xuân Nhâm Dần 2022

Xem thêm

Định nghĩa ISSN theo Wiki

Mã số tiêu chuẩn quốc tế cho xuất bản phẩm nhiều kỳ hay viết tắt là ISSN [tiếng Anh: International Standard Serial Number] là một dãy số độc nhất gồm tám chữ số, được dùng để nhận dạng một xuất bản phẩm nhiều kỳ dạng giấy in hoặc điện tử như tạp chí định kỳ, tạp chí chuyên khảo, báo, bản tin, xuất bản phẩm thông tin, niên giám, báo cáo thường niên, kỷ yếu hội nghị hay hội thảo, phụ trương hay phụ bản của các xuất bản phẩm nhiều kỳ. Nhiều xuất bản phẩm có ở cả hai dạng in và điện tử nên được ISSN xếp vào hai loại là: ISSN in [p-ISSN] và ISSN điện tử [e-ISSN hay eISSN]. Hệ thống ISSN được phác thảo như một tiêu chuẩn quốc tế ISO vào năm 1971 và được ấn hành với tên gọi ISO 3297 vào năm 1975. Tiểu ban ISO TC 46/SC 9 là cơ quan quản lý tiêu chuẩn này.

Chỉ số ISSN là gì ?

Một tiêu chuẩn quốc tế Serial Number [ ISSN ] là một tám chữ số số serial sử dụng để nhận diện một ấn phẩm nối tiếp , chẳng hạn như một tạp chí. ISSN đặc biệt hữu ích trong việc phân biệt giữa các sê-ri có cùng tiêu đề. ISSN được sử dụng trong việc đặt hàng, lập danh mục, mượn liên thư viện và các thực tiễn khác liên quan đến tài liệu nối tiếp.

Hệ thống ISSN lần đầu tiên được soạn thảo như một International Organization for Standardization [ISO] tiêu chuẩn quốc tế vào năm 1971 và xuất bản như ISO 3297 vào năm 1975. ISO tiểu ban TC 46 / SC 9 là trách nhiệm duy trì tiêu chuẩn.

Khi một sê-ri có cùng nội dung được xuất bản ở nhiều loại phương tiện , một ISSN khác nhau được gán cho từng loại phương tiện. Ví dụ, nhiều sê-ri được xuất bản cả trên báo in và báo điện tử . Hệ thống ISSN gọi các loại này lần lượt là ISSN in [ p-ISSN ] và ISSN điện tử [ e-ISSN ]. Do đó, như được định nghĩa trong ISO 3297: 2007, mọi nối tiếp trong hệ thống ISSN cũng được gán một ISSN liên kết [ ISSN-L], thường giống như ISSN được gán cho serial trong phương tiện được xuất bản đầu tiên của nó, liên kết với nhau tất cả các ISSN được gán cho serial trong mọi phương tiện.

Video liên quan

Chủ Đề