Giao dịch ngoại bảng là gì

Phân loại nợ và cam kết ngoại bảng là một trong các cách thức dự phòng rủi ro mà tổ chức tín dụng cần áp dụng. Vậy phân loại nợ và cam kết ngoại bảng là gì?

Cam kết ngoại bảng là chỉ các khoản như cam kết thanh toán, trả nợ, cấp tín dụng… hay các hợp đồng phát sinh tỷ giá của ngân hàng với khách hàng trong tương lai nằm ngoài bảng cân đối kế toán.

Căn cứ pháp lý:

– Luật các tổ chức tín dụng năm 2010

– Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi, bổ sung năm 2017

– Thông tư 02/2013/TT-NHNN

– Thông tư 09/2014/TT-NHNN

1.Phương pháp và nguyên tắc phân loại

– Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tự thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng  phải sử dụng kết quả phân loại nhóm nợ đối với khách hàng do Trung tâm Thông tin tín dụng [CIC] cung cấp tại thời điểm phân loại để điều chỉnh kết quả tự phân loại nợ, cam kết ngoại bảng.

– Toàn bộ số dư nợ và giá trị các cam kết ngoại bảng của một khách hàng tại một tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải được phân loại vào cùng một nhóm nợ. 

– Đối với khoản cấp tín dụng hợp vốn, từng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tham gia cấp tín dụng hợp vốn phải thực hiện việc phân loại độc lập và có trách nhiệm thông báo ngay cho nhau kết quả phân loại. 

– Đối với khoản ủy thác cấp tín dụng mà bên nhận ủy thác chưa giải ngân theo hợp đồng ủy thác, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ủy thác phải phân loại các khoản ủy thác này như là một khoản cho vay đối với bên nhận ủy thác.

– Đối với nợ đã bán nhưng chưa thu được tiền, nợ đã bán nhưng bên mua có quyền truy đòi người bán thì số tiền chưa thu được, số dư nợ đã bán có quyền truy đòi người bán phải được phân loại, trích lập dự phòng rủi ro như trước khi bán nợ.

– Đối với các khoản nợ được mua, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phân loại số tiền đã thanh toán để mua nợ vào nhóm có mức độ rủi ro không thấp hơn nhóm mà khoản nợ đó đã được phân loại trước khi mua.

– Đối với số tiền mua, ủy thác cho tổ chức khác [bao gồm cả tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài] mua trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải phân loại số tiền mua trái phiếu như là một khoản cho vay không có bảo đảm đối với bên phát hành trái phiếu, trừ trường hợp trái phiếu doanh nghiệp được bảo đảm thanh toán bằng tài sản.

– Đối với khoản chiết khấu dưới hình thức mua có kỳ hạn các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phân loại khoản chiết khấu như là một khoản cho vay đối với người thụ hưởng.

2.Phân loại nợ và cam kết ngoại bảng theo phương pháp định lượng

 -Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện phân loại nợ [trừ các khoản trả thay theo cam kết ngoại bảng] theo 05 nhóm như sau:

a] Nhóm 1 [Nợ đủ tiêu chuẩn]

b] Nhóm 2 [Nợ cần chú ý]

c] Nhóm 3 [Nợ dưới tiêu chuẩn] bao gồm:

d] Nhóm 4 [Nợ nghi ngờ]

đ] Nhóm 5 [Nợ có khả năng mất vốn]

– Phân loại cam kết ngoại bảng và khoản trả thay theo cam kết ngoại bảng:

a] Phân loại cam kết ngoại bảng:

[i] Phân loại vào nhóm 1 nếu tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá khách hàng có khả năng thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo cam kết.

[ii] Phân loại vào nhóm 2 trở lên nếu tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá khách hàng không có khả năng thực hiện các nghĩa vụ theo cam kết.

[iii] Phân loại vào nhóm 3 trở lên đối với cam kết ngoại bảng thuộc một trong các trường hợp thuộc nhóm nợ dưới tiêu chuẩn.

b] Phân loại khoản trả thay theo cam kết ngoại bảng:

[i] Ngày quá hạn được tính ngay từ ngày tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện nghĩa vụ theo cam kết.

[ii] Khoản trả thay theo cam kết ngoại bảng được phân loại như sau:

– Phân loại vào nhóm 3 nếu quá hạn dưới 30 ngày;

– Phân loại vào nhóm 4 nếu quá hạn từ 30 ngày đến dưới 90 ngày;

– Phân loại vào nhóm 5 nếu quá hạn từ 90 ngày trở lên.

3. Phân loại nợ và cam kết ngoại bảng theo phương pháp định tính

Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phân loại nợ, cam kết ngoại bảng theo 05 nhóm như sau:

a] Nhóm 1 [Nợ đủ tiêu chuẩn] bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.

Các cam kết ngoại bảng được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là khách hàng có khả năng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo cam kết.

b] Nhóm 2 [Nợ cần chú ý] bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.

Các cam kết ngoại bảng được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là khách hàng có khả năng thực hiện nghĩa vụ theo cam kết nhưng có dấu hiệu suy giảm khả năng thực hiện cam kết.

c] Nhóm 3 [Nợ dưới tiêu chuẩn] bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là có khả năng tổn thất.

Các cam kết ngoại bảng được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là khách hàng không có khả năng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo cam kết.

d] Nhóm 4 [Nợ nghi ngờ] bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là có khả năng tổn thất cao.

Các cam kết ngoại bảng mà khả năng khách hàng không thực hiện cam kết là rất cao.

đ] Nhóm 5 [Nợ có khả năng mất vốn] bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.

Các cam kết ngoại bảng mà khách hàng không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ cam kết.

>>>Xem thêm Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của tổ chức tín dụng là gì?

  1. Các khoản cam kết ngoại bảng là gì?

Cam kết ngoại bảng là chỉ các khoản như cam kết thanh toán, trả nợ, cấp tín dụng… hay các hợp đồng phát sinh tỷ giá của ngân hàng với khách hàng trong tương lai nằm ngoài bảng cân đối kế toán. Bởi mới cam kết chứ chưa thực hiện nên chúng chỉ được ghi nhận ở ngoại bảng [off-balance sheet].

Cam kết ngoại bảng được xem là rủi ro tiềm ẩn của ngân hàng thương mại

Các chỉ tiêu ngoại bảng được chia làm nghĩa vụ nợ tiềm ẩn và các cam kết giao dịch hối đoái ở các ngân hàng thương mại.

Theo các chuyên gia đánh giá thì rủi ro tiềm ẩn của ngân hàng đến từ nghĩa vụ trả nợ tiềm ẩn bởi các cam kết giao dịch hối đoái chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng cam kết ngoại bảng.

Những rủi ro cụ thể là cam kết bảo lãnh vay vốn [vay thấu chi], cam kết trong nghiệp vụ L/C và cam kết bảo lãnh khác [bảo lãnh thanh toán, thực hiện hợp đồng, dự thầu…].

  1. Thực trạng tại các ngân hàng thương mại hiện nay ra sao?

Theo báo cáo tài chính năm 2015 cho thấy nếu có rủi ro xảy ra các NHTM sẽ phải thanh toán một khoản nợ khá lớn bởi nghĩa vụ nợ tiềm ẩn lên tới 360.932 tỷ đồng, tỉ lệ nợ tiềm ẩn/dư nợ tín dụng là 16%.

Bảng số liệu tổng hợp cho thấy, phần lớn nghĩa vụ nợ tiềm ẩn là các cam kết trong nghiệp vụ L/C [chiếm xấp xỉ 40%] và cam kết bảo lãnh khác [chiếm gần 59%]. Cam kết bảo lãnh vay vốn chỉ chiểm tỷ trọng nhỏ trong nghĩa vụ nợ tiềm ẩn của các ngân hàng thương mại. Trong các nghiệp vụ, mặc dù L/C vẫn có thể coi là nghiệp vụ bảo lãnh, tuy nhiên, hình thức này là bảo lãnh qua thư tín dụng và có độ rủi ro thấp hơn so với các cam kết bảo lãnh khác.

Theo bảng số liệu khảo sát 9 ngân hàng thương mại cho thấy

Ngân hàng BIDV có nghĩa vụ nợ tiềm ẩn lớn nhất là 134.570 tỉ đồng và nó đồng thời cũng là ngân hàng có phí bảo lãnh cao nhất 1.282 tỉ đồng.

Ngân hàng MB xếp vị trí thứ 2, nghĩa vụ nợ tìm ẩn là 70.423 tỉ đồng và phí bảo lãnh là 615 tỉ đồng. Trong đó, các cam kết trong nghiệp vụ L/C chiếm 51,9%, cam kết bảo lãnh vay vốn chiếm 0,2% và các cam kết bảo lãnh khác chiếm 47,9%. Tổng nghĩa vụ nợ tiềm ẩn của MB chiếm đến 58,5% dư nợ tín dụng [cao nhất trong nhóm ngân hàng so sánh].

Hai ngân hàng có vẻ còn ở trong mức độ an toàn là ACB và STB bởi nợ tiềm ẩn chủ yếu là các cam kết L/C [chiếm trên 62%] và tỷ lệ nợ tiềm ẩn/dư nợ cho vay khách hàng chỉ chiếm 4,5% đối với ACB và 5,7% đối với STB.

Điểm đáng chú ý từ bảng biểu trên là tỷ lệ phí bảo lãnh/nợ tiềm ẩn chỉ chiểm 1 tỷ lệ rất nhỏ, từ 0,6-3,5%. Điều này có nghĩa là rủi ro tiềm ẩn lớn nhưng mức độ lợi nhuận lại không tỷ lệ thuận với rủi ro.

Có rất nhiều vụ án hình sự đã xảy ra giữa ngân hàng và khách hàng về vấn đề nghĩa vụ bảo lãnh là hồi chuông cảnh báo cho các NHTM. Ví dụ như Ngân hàng Agribank đã phải trả cho công ty TNHH Cao Trường Sơn số tiền 38,5 tỷ vì bên nhận bảo lãnh không thanh toán tiền, hay vụ án giữa SeABank và Công ty Tài chính Vinaconex – Viettel [VVF] về thương vụ bảo lãnh thanh toán trị giá 150 tỷ đồng cho Công ty cổ phần Tập đoàn Vina Megastar đối với lượng trái phiếu công ty này bán cho VVF đã gây ra nhiều tranh cãi giữa các bên liên quan.

  1. Các khoản ngoại bảng cần được chú trọng hơn

Theo TT02/2013-NHNN quy định đối với các cam kết ngoại bảng, các ngân hàng thương mại chỉ thực hiện phân loại nợ để quản lý, giám sát chất lượng tín dụng, không thực hiện trích lập dự phòng rủi ro. Ngân hàng chỉ phải trích lập dự phòng khi rủi ro xảy ra. Điều này càng làm gia tăng các rủi ro tiềm ẩn trong tương lai và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, lợi nhuận của các ngân hàng.

Có nhiều doanh nghiệp đã vi phạm việc thỏa thuận nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán do hoàn cảnh kinh doanh khó khăn. Do đó ngân hàng sẽ phải đứng ra thực hiện nghĩa vụ với các bên được bảo lãnh và các nghĩa vụ nợ tiềm ẩn sẽ trở thành nghĩa vụ nợ thực sư. Và các khoản nợ này có nguy cơ trở thành nợ xấu rất cao.

Mặc dù các khoản bảo lãnh có thể yêu cầu tỷ lệ ký quỹ nhất định để giảm thiểu tổn thất khi rủi ro xảy ra. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của tác giả, đối với những doanh nghiệp lớn, uy tín thì ít ngân hàng yêu cầu ký quỹ hoặc ký quỹ 1 tỷ lệ rất nhỏ vì dòng tiền gửi của những doanh nghiệp này mở ở tài khoản ngân hàng lớn hơn nhiều so với hạn mức cam kết bảo lãnh.


Video liên quan

Chủ Đề