Dầu mỏ Việt Nam đứng thứ máy thế giới

Đó là nghịch lý gây bức xúc dư luận suốt mấy tháng nay, khi giá xăng dầu thế giới liên tục tăng cao. Giá xăng trong nước đang ở mức gần 30.000 đồng/lít sau 7 lần tăng giá liên tiếp. Mỗi lần xăng chuẩn bị tăng giá là tình trạng khan hiếm xảy ra trên diện rộng. Nhiều cửa hàng xăng treo biển hết hàng, hoặc bán định mức.

Xăng dầu tăng cũng khiến cho hàng loạt tàu cá nằm bờ vì ra khơi cầm chắc lỗ. Trên thị trường, hàng hóa tiêu dùng, cước vận tải đều được điều chỉnh theo mức giá mới. Đáng nói, tình cảnh này xảy ra khi VN có nguồn dầu thô, có 2 nhà máy lọc dầu Nghi Sơn và Dung Quất, chiếm tới khoảng 70% thị phần xăng dầu trong nước. Thế nhưng, cuối năm 2021, Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn giảm công suất vì vấn đề tài chính, dẫn đến nguồn cung bị thiết hụt. Đây cũng chính là khởi nguồn cho tình trạng khan hiếm xăng dầu kéo dài cho đến hiện nay.

Câu chuyện xăng dầu trong nước căng thẳng nguồn cung nóng suốt 2 tháng qua

Tại cuộc họp với PVN mới đây, đặt vấn đề về tình trạng phải nhập khẩu dầu thô để lọc hóa trong khi lại xuất khẩu dầu thô, Phó thủ tướng Lê Văn Thành đề nghị các bộ, ngành có biện pháp tháo gỡ vướng mắc này, “dứt khoát phải đổi mới, nếu vướng ở cơ chế, chính sách thì sửa cơ chế, chính sách”.

Theo Phó thủ tướng, hiện giá dầu thô đang ở mức cao trong khi VN vẫn đang xuất khẩu phần lớn dầu thô, nhưng lại phải nhập khẩu chủng loại khác để chế biến, và tổng công suất của cả hai nhà máy lọc dầu cũng chỉ đáp ứng 70% nhu cầu thị trường trong nước. “Trữ lượng dầu khí của nước ta đứng thứ 26 thế giới [khoảng 1,5 tỉ m3], nhưng sản lượng khai thác hiện nay chỉ đứng thứ 34 thế giới. Như vậy, tốc độ hiện thực hóa tiềm năng dầu khí chưa cao. Vì vậy, cần phải đưa được nguồn tài nguyên này vào phục vụ nền kinh tế hiệu quả nhất, phải chế biến sâu hiệu quả nhất”, Phó thủ tướng chỉ ra và nhấn mạnh: “Không thể có chuyện trong cùng tập đoàn mà vừa khai thác, xuất khẩu dầu thô, trong khi đơn vị khác lại phải đi nhập khẩu dầu thô để chế biến”.

Do đó, Phó thủ tướng yêu cầu PVN khẩn trương đầu tư xây dựng dự án tại Khu công nghiệp Long Sơn để đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu xăng dầu trong nước.

Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn đang nhập khẩu dầu trong khi VN xuất khẩu dầu thô cũng là vấn đề gây chú ý

Từ đầu xác định dùng dầu loại khác?

Số liệu của Tổng cục Hải quan cho thấy năm 2021, VN xuất khẩu hơn 3,1 triệu tấn dầu thô, với giá trị xuất khẩu là trên 1,76 tỉ USD. Song cũng trong năm này, chúng ta nhập khẩu hơn 9,9 triệu tấn dầu thô với giá trị nhập khẩu là trên 5,15 tỉ USD. Lượng dầu thô nhập khẩu chủ yếu phục vụ cho 2 nhà máy lọc hóa dầu là Nghi Sơn và Dung Quất.

Theo tìm hiểu, dù Nhà máy lọc dầu Dung Quất có công suất lọc 6,5 triệu tấn dầu thô mỗi năm, trong khi sản lượng dầu PVN khai thác hằng năm hơn 10 triệu tấn, song nhà máy này vẫn nhập khẩu khoảng 20% nhu cầu dầu thô về để chế biến.

Xác nhận với Thanh Niên, một cán bộ thuộc PVN thừa nhận trong 5 năm lại đây, lượng nhập khẩu dầu thô của Nhà máy Dung Quất trung bình khoảng 20% năm, còn lại 80% là từ nguồn trong nước. “Mấy năm gần đây, việc thăm dò, khai thác dầu của PVN khó khăn hơn, nếu cứ phải phụ thuộc vào một nguồn trong nước thì nhà máy rất dễ bị động”, vị này phân tích.

Trong “kế hoạch xuất khẩu than” năm nay, Tập đoàn than khoáng sản được xuất khẩu tối đa 2 triệu tấn, gồm 800.000 tấn than cám loại 1, 2, 3 và than cục là 1,2 triệu tấn. Còn Tổng công ty Đông Bắc được xuất tối đa 30.000 tấn than cục.

Lãnh đạo Nhà máy Dung Quất cũng chia sẻ khi thị trường thuận lợi thì việc vừa mua trong nước lẫn thế giới là bình thường. Song trong bối cảnh khủng hoảng nguồn cung hiện nay, Nhà máy Dung Quất không phải lúc nào muốn mua là có ngay nên đã thảo luận với tập đoàn về việc có cơ chế ưu tiên cho nhà máy mua dầu trong nước, nhằm làm sao tối ưu việc sử dụng nguồn tài nguyên trong nước.

“Cũng như giống như than đá có loại trong nước dùng không hết thì ta xuất khẩu, bán được giá. Còn than dùng cho nhiệt điện thì vẫn nhập, tức là vừa xuất vừa nhập vẫn bình thường. Vấn đề là làm sao tăng chế biến sâu cho hiệu quả, cho nên Dung Quất đang có kế hoạch nâng cấp để tăng chế biến sâu cũng như nâng công suất nhằm tận dụng nguồn dầu trong nước là vì vậy”, vị này so sánh.

Trả lời Thanh Niên, chuyên gia kinh tế Ngô Văn Tuyển cũng nhấn mạnh khai thác dầu thô của VN 5 năm qua đều dao động quanh ngưỡng hơn 10 triệu tấn/năm. Trong khi công suất của Nhà máy lọc dầu Dung Quất là 6,5 triệu tấn dầu thô/năm còn Lọc hóa dầu Nghi Sơn dù công suất 10 triệu tấn/năm, nhưng từ đầu xác định dùng dầu nhập khẩu loại khác thì “ta xuất khẩu dầu thô là đương nhiên”.

TS Bùi Đức Thụ, nguyên Ủy viên thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, cho biết vấn đề sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên là đề bài rất lớn và Quốc hội luôn đặt ra cho Chính phủ. Tuy nhiên, tính kinh tế và kỹ thuật cũng cần được phân tích một cách kỹ lưỡng.

“Ví dụ tôi biết từ chỗ thiết kế ban đầu là Nhà máy Dung Quất dùng dầu mỏ Bạch Hổ, nhưng trong bối cảnh nguồn từ mỏ này giảm nhanh thì nhà máy đã cải tiến kỹ thuật để lọc thêm một số chủng dầu ngọt tương tự. Nhưng cũng chỉ là thêm 2 - 3 loại chứ không thể quá nhiều loại vì như thế sẽ rất tốn kém cho đầu tư. Hay việc lọc các loại dầu nặng, nhiều lưu huỳnh còn đi kèm câu chuyện đầu tư xử lý môi trường”, ông Thụ nói.

Trong khi đó, phân tích về việc xuất và nhập trong bối cảnh hiện tại, ông Thụ cho hay do tính chất các chủ thể kinh tế khác nhau chứ không phải “hoàn toàn chỉ là PVN” nên rất khó để rạch ròi. “Bên khai thác cũng là liên danh với nước ngoài theo các cam kết chứ không đơn thuần chỉ phía VN. Còn bên nhập ngay như Dung Quất cũng là công ty cổ phần nên việc mua bán cũng có quy định”, ông Thụ nói.

Theo nhu cầu của nền kinh tế

Lấy biểu đồ của ngành dầu khí, ông Tuyển cho hay năm 2013 là năm Nhà máy Dung Quất nhập khẩu nhiều nhất, còn từ năm 2015 đến nay thì lượng nhập chiếm tỷ lệ nhỏ hơn.

“Trong cơ chế thị trường kinh doanh dầu thô, nếu bán được lúc giá cao và mua lại được lúc giá tốt thì cứ luôn là tốt. Hoặc là lúc dư thừa mà không sử dụng được thì phải bán đi. Hoặc là việc khai thác có trục trặc không đủ sản lượng cần thiết thì phải mua vào”, ông Tuyển nói.

Tương tự, với ngành than, Bộ Công thương cho hay năm 2021 xuất khẩu than của VN đạt 1,9 triệu tấn [vượt gần 4% kế hoạch năm]. Ở chiều ngược lại, năm ngoái VN cũng nhập khẩu gần 1,4 triệu tấn, chỉ đạt 36,5% kế hoạch năm bởi các nhà máy điện than bị giảm huy động, nhường chỗ cho năng lượng tái tạo tăng nhanh.

Trả lời Thanh Niên ngày 14.3, TS Nguyễn Thành Sơn, chuyên gia năng lượng, cũng khẳng định hằng năm, Chính phủ, Bộ Công thương đều có chủ trương chấp thuận cho 2 doanh nghiệp nhà nước được xuất khẩu than, với sản lượng từ 1 - 2 triệu tấn trong khi Tập đoàn điện lực VN [EVN] và các nhà máy điện vẫn nhập nhiều.

“Việc xuất - nhập là theo nhu cầu của nền kinh tế, của các ngành kinh tế và giá cả để làm sao cho hiệu quả. Ví dụ ta nhiệt điện nhiều, mà nhiệt điện thì lò hơi cao, cần những loại than đốt phải có ngọn lửa bốc. Trong khi than của mình thì thành phần chất bốc thấp, thành phần carbon nhiều hơn nên khó đốt, song đó lại là than tốt, nhiệt lượng cao. Cho nên khi bán than đó thì giá cao hơn, dùng cho luyện thép, còn than cho điện ta có thể nhập với giá rẻ hơn. Chỉ khi nào cùng một loại mà ta xuất thấp, còn doanh nghiệp trong nước phải nhập cao hay xuất đi chủng loại khiến sản xuất trong nước thiếu nguyên liệu thì mới có vấn đề”, ông Sơn phân tích.

Thế nhưng, theo nhiều chuyên gia, trong khi trữ lượng của than không thể tái tạo. Ngành than cũng bất cập trong việc cân đối cung cầu, nên mới xảy ra chuyện vừa xuất khẩu vừa nhập khẩu.

Tin liên quan

Trong điều kiện thông thường có bốn alkan nhẹ nhất là CH4 [mêtan], C2H6 [êtan], C3H8 [prôpan] và C4H10[butan], có nhiệt độ sôi tương ứng -161.6°C,-88.6°C , -42°C, và -0.5°C - ở dạng khí.

Tất cả các sản phẩm của các chuổi từ C5 đến C20 ở điều kiện nhiệt độ trong phòng là chất lỏng, gọi là dầu thô. Các chuỗi trong khoảng C5-7 là các sản phẩm dầu nhẹ, dễ bay hơi. Các chuỗi từ C6H14 đến C12H26 bị pha trộn lẫn với nhau được sử dụng trong đời sống với tên gọi là xăng. Dầu hỏa là hỗn hợp của các chuỗi từ C10 đến C15, tiếp theo là dầu điêzen/dầu sưởi [C10 đến C20] và các nhiên liệu nặng hơn được sử dụng cho động cơ tàu thủy. Các loại dầu bôi trơn và mỡ [dầu nhờn] nằm trong khoảng từ C16 đến C20. Các chuỗi trên C20 bắt đầu là sáp parafin, sau đó là hắc ín và nhựa đường bitum ở trạng thái rắn.

Trong điều kiện áp suất khí quyển, các thành phần hóa học của dầu mỏ được chia tách bằng phương pháp chưng cất phân đoạn bao gồm: xăng ête [40 - 70°C], xăng nhẹ [60 - 100°C], xăng nặng [100 - 150°C], dầu hỏa nhẹ [120 - 150°C], dầu hỏa [150 - 300°C], dầu điêzen [250 - 350°C], dầu bôi trơn [> 300°C] và các thành phần khác như hắc ín, nhựa đường …[ở nhiệt độ cao hơn].

Hiện nay dầu mỏ chủ yếu dùng để sản xuất dầu hỏa, diezen và xăng nhiên liệu. Ngoài ra, dầu thô cũng là nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất ra các sản phẩm của ngành hóa dầu như dung môi, phân bón hóa học, nhựa, thuốc trừ sâu, nhựa đường... Khoảng 88% dầu thô dùng để sản xuất nhiên liệu, 12% còn lại dùng cho hóa dầu. Do dầu thô là nguồn năng lượng không tái tạo nên nhiều người lo ngại về khả năng cạn kiệt dầu trong một tương lai không xa.
 

Dầu khí là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Nó là nguồn cung cấp năng lượng vô cùng quan trọng phục vụ cho các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Dầu mỏ, khí đốt, kể từ khi mới phát hiện tới nay đã trở thành loại tài nguyên vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Dầu mỏ, khí đốt càng được hiểu biết bao nhiêu thì nhu cầu dầu, khí đối với mọi hoạt động kinh tế, kỹ thuật, đời sống dân sinh càng lớn bấy nhiêu. Đối với những quốc gia được thiên nhiên ưu đãi về nguồn dầu khí thì việc phát triển ngành công nghiệp dầu khí là một yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế chung của đất nước. Bởi công nghiệp dầu khí ngày nay là một ngành công nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân, đi đầu trong việc áp dụng những công nghệ tiên tiến, hiện đại nhất của thế giới.  Việt Nam là một trong những nước may mắn được thiên nhiên ưu đãi về nguồn tài nguyên này. Là một nước có trữ lượng dầu mỏ đứng thứ 28 trên thế giới, Việt Nam đã không ngừng nổ lực nghiên cứu các công nghệ mới để khai thác hiệu quả và tìm kiếm nguồn tài nguyên này. Nhìn chung, tiềm năng dầu khí Việt Nam là khá lớn.  Việc đánh giá tài nguyên và trữ lượng dầu khí thềm lục địa Việt Nam được các tổ chức Quốc tế và Việt Nam đánh giá vào thời điểm khác nhau và rất khác nhau, đặc biệt là vùng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Trước năm 1975 tiềm năng tài nguyên dầu khí thềm lục địa Nam Việt Nam được dự báo theo chủ quan của người đánh giá với nhiều mục đích khác nhau. 

Theo số liệu được công bố trong công trình “Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam” thì trữ lượng và tiềm năng dầu khí bể Sông Hồng có thể đạt 1,1 tỷ m3 quy dầu; tiềm năng tài nguyên thu hồi bể Phú Khánh có khoảng 400 triệu m3 quy dầu; trữ lượng tiềm năng có thể thu hồi bể Cửu Long có khoảng 2,6 – 3,0 tỷ m3 quy dầu; tài nguyên có thể thu hồi bể Nam Côn Sơn có khoảng 900 triệu m3 quy dầu; tiềm năng tài nguyên dầu khí bể Mã Lai - Thổ Chu có khoảng 350 triệu tấn quy dầu; tiềm năng tài nguyên bể Tư Chính – Vũng Mây có khoảng 800 – 900 triệu tấn quy dầu. Tuy nhiên, công ty CONOCO năm 2000 đánh giá chỉ 3 cấu tạo triển vọng nhất của các lô 133, 134 thuộc phạm vi bể Tư Chính – Vũng Mây đã cho con số tiềm năng từ 600 đến 1.600 triệu tấn nếu là dầu hoặc từ 10 TCF [286 tỷ m3] đến 30 TCF [857 tỷ m3] nếu là  khí.

Cho đến nay đã xác định được trong phạm vi thềm lục địa Việt Nam hiện diện 8 bể trầm tích Đệ tam là bể Sông Hồng, Hoàng Sa, Phú Khánh, Cửu Long,  Nam Côn Sơn, Tư Chính- Vũng Mây, Trường Sa và  Mã lai -Thổ Chu.

Các mỏ dầu khí ở nước ta được phát hiện và khai thác từ lòng đất dưới đáy biển khu vực thềm lục địa phía Nam, nơi có độ sâu 50 - 200m nước và trong tầng cấu trúc địa chất sâu trên 1000m đến trên 5000m.

Tính đến cuối năm 2013, trong nước có 9 lô hợp đồng có hoạt động phát triển mỏ và 13 hợp đồng có hoạt động khai thác dầu khí [từ 14 mỏ/cụm mỏ dầu và 6 mỏ/cụm mỏ khí]. Toàn Ngành đã khai thác được 268,31 triệu tấn dầu thô; trong đó, sản lượng khai thác từ Vietsopetro đạt 189,9 triệu tấn, sản lượng khai thác từ PVEP đạt 78,3 triệu tấn. Riêng năm 2013, sản lượng khai thác dầu thô là 15,25 triệu tấn, khí là 9,75 tỷ m3; năm 2014 sản lượng khai thác dầu thô đạt 17,39 triệu tấn, khí đạt 10,21 tỷ m3. Đặc biệt trong năm 2015, mức sản lượng vẫn tiếp tục tăng và duy trì ở mức cao, dầu thô đạt 18,75 triệu tấn, khí 10,67 tỷ m3 đẩy mạnh công tác tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ. Quá trình tìm kiếm thăm dò trong giai đoạn 2011 - 2015 đã đưa được 36 mỏ và công trình dầu khí mới vào khai thác. Trong đó, năm 2011 có 3 mỏ trong nước: Đại Hùng pha 2, Tê Giác Trắng, Chim Sáo và 2 mỏ nước ngoài: Visovoi, Dana. Năm 2012 có 7 mỏ/công trình được đưa vào khai thác bao gồm 4 mỏ/công trình trong nước: giàn H4 mỏ Tê Giác Trắng, mỏ Gấu Trắng, Sư Tử Trắng, Lan Đỏ và 3 mỏ ở nước ngoài: mỏ Tây Khosedayu, mỏ Junin 2, mỏ Nagumanov. Năm 2013 và 2014 số lượng mỏ đưa vào khai thác tăng mạnh và đạt 9 mỏ mỗi năm. Năm 2015 chỉ có 4 mỏ mới được đưa vào khai thác, đó là mỏ khí Thái Bình, mỏ Bir Seba Lô 433a-416b, giàn H5 Tê Giác Trắng và giàn Thỏ Trắng 2. Bên cạnh quá trình tìm kiếm thăm dò này còn triển khai công tác phát triển mỏ đối với các mỏ Sư Tử Trắng, giai đoạn 2 phát triển mỏ Đại Hùng, mỏ Hải Thạch - Mộc Tinh - Lô 05-2 và 05-3, mỏ Tê Giác Trắng - Lô 16-1, mỏ Hải Sư Trắng và Hải Sư Đen - Lô 15-2/01, mỏ Chim Sáo, Dừa - Lô 12W. Tuy nhiên các mỏ dầu này đều có trữ lượng nhỏ [mỏ dầu lớn nhất trong số các mỏ mới phát hiện là mỏ Sư Tử Đen với trữ lượng khoảng 100 triệu tấn, chỉ bằng 1/3 mỏ Bạch Hổ].

Theo kết quả đánh giả trữ lượng các mỏ dầu của Việt Nam thì tổng trữ lượng dầu tiềm năng của nước ta khoảng 7,5 tỉ m3 quy dầu. Việt Nam bắt đầu khai thác khí từ năm 1981 [mỏ khí Tiền Hải C - Thái Bình] và khai thác dầu cùng với khí đồng hành từ năm 1986 [mỏ Bạch Hổ ở thềm lục địa phía Nam]. Từ đó, Việt Nam bắt đầu có tên trong danh sách các nước khai thác, xuất khẩu dầu thô trên thế giới. Tính đến ngày 31/12/2015 toàn Ngành Dầu khí đã khai thác được 352,68 triệu tấn dầu và 114,03 tỷ m3 khí cộng dồn. Năm 2015, mức sản lượng vẫn tiếp tục tăng và duy trì ở mức cao, dầu thô đạt 18,75 triệu tấn, khí 10,67 tỷ m3 .

Với năng suất khai thác dầu khí như hiện nay thì dự đoán sau thời gian 380 năm nữa dầu sẽ hết. Và để có dầu khí khai thác phát triển kinh tế chúng ta phải tiếp tục tìm kiếm các mỏ dầu khác hoặc phải mua dầu của thế giới. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những con số dự báo, và mức dự báo có thể thấp hơn thực tế nhưng cũng thấp hơn thực tế. Hiện nay các ông chủ dầu lớn của thế giới đã được cảnh báo về nguy cơ cạn kiệt nguồn tài nguyên quý giá này. Theo báo Rossiyskaya Gazeta dẫn lời Bộ trưởng Tài nguyên Nga Sergei Donskoi cảnh báo nước này sẽ cạn kiệt dầu mỏ sau 28 năm nữa và sự suy giảm sản lượng khai thác tại các mỏ dầu truyền thống sẽ bắt đầu vào năm 2020. Ông Donskoi tính rằng trữ lượng dầu có thể khai thác của Nga vào khoảng 29 tỷ tấn. Sản lượng khai thác dầu thô không có khí ngưng tụ năm 2015 là gần 505 triệu tấn. Nếu tính “kịch trần” theo các số liệu này, trữ lượng dầu của Nga sẽ đủ để khai thác trong 57 năm. Theo Hãng nghiên cứu Rystad Energy, có trụ sở ở Oslo, Na Uy, với mức sản xuất hiện nay trên thế giới nói chung, khoảng 30 tỉ thùng dầu thô mỗi năm, thế giới sẽ hết dầu trong 27 năm nữa. Do đó để đảm bảo khai thác bền vững nguồn tài nguyên mang tên “vàng đen” này chúng ta phải không ngừng nâng cao hiệu quả khai thác và không ngừng tìm kiếm, phát hiện mới các mỏ dầu. Đồng thời trong việc tiêu thụ cần có sự hợp lý, hiệu quả và tiết kiệm.

Nguyễn T. Mỹ Xuân

Video liên quan

Chủ Đề