Đặc điểm các mùa ở Việt Nam là gì
Show
Từ trước đến nay, chúng ta vẫn luôn quan niệm một năm có 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa xuân thường mùa cây cối xanh tốt, muôn hoa đua nở. Mùa hè thì gắn liền với những ngày nắng gắt, mùa thu lại dịu nhẹ với tiết trời mát mẻ và mùa đông thì lạnh buốt mỗi khi gió mùa về. Bạn đang xem: Các mùa ở việt nam Bạn đang xem: Bốn mùa trong năm ở việt nam Vậy tiêu chuẩn để phân chia mùa ở nước ta như thế nào? Và đặc điểm khí hậu của từng mùa ở Việt Nam là gì? Hãy cùng khám phá thông qua bài viết dưới đây nhé! Khái niệm về mùa? Cách phân chia các mùa như thế nào?Mùa là gì?Mùa là thuật ngữ chỉ sự phân chia các khoảng thời gian trong một năm dựa theo chu kỳ và sự thay đổi của khí hậu thời tiết. Đối với các nước ở khu vực Ôn đới và Vùng cực sẽ có sự phân chia 4 mùa rõ rệt là xuân, hạ, thu, đông. Các nước ở trong khu vực Nhiệt đới và Cận nhiệt đới thì một năm sẽ được chia làm hai mùa là mùa mưa và mùa khô. Tại các khu vực khác của vùng Nhiệt đới thì mỗi năm sẽ được chia thành ba mùa: mùa nóng, mùa mưa và mùa lạnh. 4 mùa trong năm bắt đầu từ tháng nào? Mùatính theo khí tượng dựa vào nhiệt độ,mùaxuântừ1/3 đến 31/5,mùahètừ1/6 đến 31/8,mùathutừ1/9 đến 31/11 vàmùađôngtừ1/12 đến hếttháng2 Phương pháp phân chia thời gian theo mùaCó hai cách chia mùa được sử dụng phổ biến, đó là chia cố định theo các tháng trong năm và chia dựa theo nhiệt độ khí hậu: Cách 1: Chia cố định theo các tháng trong một nămCách phân chia các mùa cố định theo các tháng này tương đối dễ nhớ, tuy nhiên nó sẽ không phản ánh được những điểm khác biệt giữa các mùa. Dựa trên từng vĩ độ địa lý, khoảng cách xa - gần hay độ cao so với mặt nước biển mà mỗi mùa sẽ có những đặc trưng riêng. Theo cách chia này, mùa xuân sẽ bắt đầu từ tháng 3 và kết thúc vào tháng 5. Mùa hè/hạ bắt đầu từ tháng 6 và kết thúc vào tháng 8, mùa thu bắt đầu từ tháng 9 và kết thúc vào tháng 11, mùa đông bắt đầu từ tháng 12 và kết thúc vào tháng 2 năm sau. Cách 2: Chia mùa theo nhiệt độ khí hậuChia mùa theo cách này sẽ phản ánh được rõ rệt sự khác biệt của các mùa trong năm, tuy nhiên cách chia này lại tương đối phức tạp. Dựa theo cách chia này ta sẽ có mùa xuân là các tháng có nhiệt độ dao động từ 10 đến 12 độ C, mùa hè là những tháng có nhiệt độ cao hơn 22 độ C, mùa thu là các tháng có nhiệt độ từ 10 đến 12 độ C và mùa đông là những tháng có khí hậu dưới 10 độ C. Xem thêm: Vé Máy Bay Đi Phuket Giá Rẻ, Nhiều Khuyến Mãi 2021, Săn Vé Máy Bay Đi Phuket Thái Lan Khứ Hồi Câu hỏi: Nước ta có mấy mùa khí hậu? Nêu đặc trưng khí hậu từng mùa ở nước ta Lời giải: - Nước ta có hai mùa khí hậu:mùa gió Đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 4 và mùa gió Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 10. - Mùa gió Đông Bắc tạo nên mùa đông lạnh, mưa phùn ở miền Bắc và khô nóng kéo dài ở miền Nam. - Mùa gió Tây Nam tạo nên mùa hạ nóng ẩm có mưa to, gió lớn và dông bão, diễn ra phổ biến trên cả nước. Các mùa gió ở Việt NamKiến thức mở rộng về Các mùa khí hậu và thời tiết ở nước ta 1. Mùa gió đông bắc từ tháng 11 đến tháng 4 (mùa đông)- Gió mùa Đông Bắc được hình thành từ trung tâm áp caoXibiadi chuyển ngang di chuyển xuống khu vực có khối không khí ấm tạiViệt Nam, gây ra gió đông bắc mạnh, thời tiết xấu, thời gian đặc trưng là vào thời kỳ từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau tạiBắc BộvàBắc Trung bộ. - Gió mùa Đông Bắc là hiện tượng thời tiết đặc biệt nguy hiểm, vì khi nó tràn về ngoài khơivịnh Bắc Bộvới độ mạnh đến cấp 6 - 7, có thể đánh đắm tàu thuyền, đất liềngiócấp 4 - 5... Đặc biệt những đợt mạnh thậm chí còn gây radông,tốlốcvà cảmưa đá.Ngoài ra nó còn tác động lớn tới sức khỏe người dân các nước có gió mùa. - Vào đầu mùa đông (từ tháng 11- tháng 2), gió mùa đông bắc từ cao áp Xibia di chuyển về nước ta với tính chất lạnh khô và gây nên một mùa đông lạnh cho miền Bắc. Vào nữa cuối mùa Đông (tháng 2-4), áp cao Xibia dịch chuyển ra biển, ở đây, khối khí nhận được lượng nhiệt, ẩm lớn và bắt đầu tràn vào nước ta, gây mưa phùn ở vùng ven biển Đông Bắc nước ta. 2. Mùa gió tây nam từ tháng 5 đến tháng 10 (mùa hạ)- Thời gian: từ tháng 5 đến tháng 10. - Đây là mùa thịnh hành của hướng gió tây nam. Ngoài ra, Tín phong nửa cầu Bắc vẫn hoạt động xen kẽ và thổi theo hướng đông nam. - Trong mùa này, nhiệt độ cao đều trên toàn quốc và đạt trên 25°c ở các vùng thấp. Lượng mưa trong mùa cũng rất lớn, chiếm trên 80% lượng mưa cả năm, riêng vùng duyên hải Trung Bộ mùa này ít mưa. - Các kiểu thời tiết đặc biệt trong mùa này là gió tây, mưa ngâu và bão,… 3. Những thuận lợi và khó khăn do khí hậu mang lạia) Thuận lợi Khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm là môi trường sống thuận lợi cho sinh vật phát triển, cây cối quanh năm ra hoa kết quả. Đó là cơ sở tự nhiên giúp cho nền nông nghiệp nhiệt đới nước ta vươn lên mạnh mẽ theo hướng sản xuất lớn, chuyên canh và đa canh. b) Khó khăn Bên cạnh những mặt thuận lợi, khí hậu nước ta cũng lắm thiên tai, bất trắc, thời tiết diễn biến phức tạp. Vì vậy, chúng ta phải luôn sẵn sàng, tích cực và chủ động phòng chống thiên tai, bảo vệ đời sống và sản xuất. Thiên nhiên nhiệt đới gió mùa cũng in đậm nét trong đời sống văn hóa - xã hội của
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. Tuy lãnh thổ Việt Nam nằm trọn trong vùng nhiệt đới nhưng khí hậu Việt Nam phân bố thành 3 vùng theo phân loại khí hậu Köppen với miền Bắc là khí hậu cận nhiệt đới ẩm. Miền Bắc gồm 2 mùa: mùa Hạ và mùa Đông. Miền Bắc Trung Bộ, Trung và Nam Trung bộ là khí hậu nhiệt đới gió mùa, miền cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ mang đặc điểm nhiệt đới xavan. Đồng thời, do nằm ở rìa phía Đông Nam của phần châu Á lục địa, giáp với Biển Đông (một phần của Thái Bình Dương), nên còn chịu ảnh hưởng trực tiếp của kiểu khí hậu gió mùa mậu dịch, thường thổi ở các vùng vĩ độ thấp. Miền Nam thường có 2 mùa: mùa mưa và mùa khô. Cần phân biệt vùng khí hậu ôn đới và nhiệt đới, vùng khí hậu ôn đới có 4 mùa là xuân, hạ, thu, đông còn vùng khí hậu nhiệt đới chỉ hai mùa là mùa nắng và mùa mưa. Ở Việt Nam, miền Bắc có 2 mùa (mùa xuân, thu ngắn là giai đoạn chuyển tiếp) nên nó không hoàn toàn trong vùng ôn đới, miền Nam 2 mùa nên hoàn toàn trong vùng nhiệt đới. [1][2][3][4][5][6] Hoàn lưu khí quyển ảnh hưởng đến Việt Nam là một phần của hoàn lưu gió mùa Đông Nam Á được đặc trưng bởi 3 đặc điểm riêng biệt:[7] Hai áp suất khí quyển thường trực ảnh hưởng đến hoàn lưu khí quyển Việt Nam là áp thấp xích đạo và áp cao cận nhiệt đới.[7] Các trung tâm khí áp theo mùa ảnh hưởng đến Việt Nam bao gồm áp cao lục địa châu Á, vùng áp thấp Aleutia, trung tâm áp thấp lục địa Nam Á và trung tâm áp cao lục địa đại dương.[7] Trên khắp Đông Á, frông vùng cực di chuyển về phía nam vào mùa đông, đạt tới 8°B vào tháng Giêng là giới hạn phía Nam trong khi giới hạn phía Bắc của nó là 25–27°B vào tháng Bảy. [7] Do toàn bộ Việt Nam nằm giữa giới hạn phía nam và phía bắc của mặt cực nên khí hậu Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của không khí vùng cực và không khí nhiệt đới (từ đới hội tụ nhiệt đới).[7] Ở Việt Nam, hoàn lưu gió mùa là tổng hòa của cả hai hệ thống gió mùa Nam Á và Đông Bắc Á.[7] Điều này dẫn đến bốn mùa rõ rệt, trong đó mùa đông (tháng 11 - tháng 3) và mùa hè (tháng 5 - tháng 9) là chính trong khi mùa xuân (tháng 4) và mùa thu (tháng 10) là mùa chuyển tiếp.[7] Mùa đông thường kéo dài từ tháng mười một cho đến tháng ba.[8] Trong suốt mùa đông, không khí vùng cực bắt nguồn từ Cao nguyên Xibia xâm nhập sâu vào các vĩ độ thấp, tạo điều kiện cho Cao nguyên phía đông Tây Tạng thổi luồng không khí xuống phía nam theo hướng đông bắc (không khí mát là gió đến từ đông bắc).[7] Đồng thời, một hệ thống áp suất thấp trên khắp nước Úc mạnh lên tạo ra một dải áp suất làm tăng cường các đợt gió đông bắc lạnh giá.[8] Nhiều đợt rét có thể xâm nhập vào Việt Nam trong suốt mùa đông, trong đó có 3-4 đợt xuất hiện hàng tháng ở miền Bắc.[8] Điều này dẫn đến nhiệt độ lạnh, nơi nhiệt độ giảm từ 4 đến 5°C (7 đến 9°F).[7] Thời tiết lạnh, đôi khi cực lạnh có thể tồn tại trong một thời gian dài, được đặc trưng bởi một khoảng thời gian dài những ngày không có mây hoặc một phần mây vào nửa đầu mùa đông hoặc một thời gian dài có mây và mưa phùn vào nửa sau của mùa đông.[7] Thời tiết lạnh xảy ra ở miền Bắc thường xuyên hơn ở miền Nam do các mặt trận lạnh xâm nhập vào miền Bắc thường xuyên hơn.[7] Mùa mưa bắt đầu từ cuối tháng 4 / đầu tháng 5 và kéo dài đến tháng 10.[8] Vào mùa hè, hình thái gió chung là gió Tây Nam ở các vùng phía Nam của Việt Nam và gió Đông Nam ở phía Bắc.[7] Các khối khí chủ yếu ở Việt Nam là khối xích đạo và khối nhiệt đới bắt nguồn từ hệ thống áp cao ở Nam bán cầu, và khối nhiệt đới biển bắt nguồn từ hệ thống áp cao cận nhiệt đới ở Thái Bình Dương (áp cao cận nhiệt đới Thái Bình Dương).[7] Ngoài ra, trong mùa hè, Việt Nam chịu ảnh hưởng của không khí nhiệt đới từ Vịnh Bengal xuất hiện khi một áp thấp lục địa xuất phát từ Nam Á (áp thấp lục địa Nam Á) di chuyển theo hướng Đông về phía Việt Nam, bao trùm hầu hết Việt Nam và nam Trung Quốc; Điều này gây ra thời tiết khô, nóng ở Bắc Trung Bộ do gió Tây thổi xuống và ấm áp trên sườn đông của dãy Trường Sơn.[7] Trung bình có 11 cơn bão và áp thấp nhiệt đới phát triển trên Biển Đông trong suốt mùa hè, trong đó một nửa là xoáy thuận nhiệt đới bắt nguồn từ Tây Thái Bình Dương.[7] Sau đó các cơn bão và xoáy thuận này di chuyển theo hướng Tây về phía Việt Nam.[7] Trung bình, Việt Nam chịu ảnh hưởng của 6-8 cơn bão hoặc xoáy thuận nhiệt đới mỗi năm.[3] Mùa Xuân và mùa Thu là mùa chuyển tiếp.[7] Hoàn lưu khí quyển trong những mùa này thể hiện sự chuyển tiếp giữa mùa đông - mùa hè & mùa hè -mùa đông tương ứng.[7] Nhìn chung, miền Bắc đất nước có bốn mùa đông, xuân, hạ, thu.[9] Ở miền Nam chỉ có hai mùa: mùa khô và mùa ẩm.[9] Nhiệt độ trung bình hàng năm trong cả nước, dựa trên dữ liệu khí tượng từ các trạm thời tiết nằm trong khoảng từ 12,8 đến 27,7°C (55 đến 82°F) ở Hoàng Liên Sơn.[7][3] Ở độ cao lớn nhất trong dãy Hoàng Liên Sơn, nhiệt độ trung bình hàng năm chỉ là 8°C (46°F)[7] Khi nhiệt độ thay đổi theo độ cao, nhiệt độ giảm 0,5°C (1°F) cho mỗi lần tăng độ cao 100 mét (328 ft).[7] Nhiệt độ trung bình hàng năm thấp nhất được tìm thấy ở các khu vực miền núi, nơi có cao hơn và ở các khu vực phía bắc, do vĩ độ cao hơn của chúng.[7] Do chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của gió mùa nên nhiệt độ trung bình của Việt Nam thấp hơn so với các nước cùng vĩ độ ở Châu Á.[4][6] Vào mùa đông, nhiệt độ trung bình nằm trong khoảng từ 2 đến 26°C (36 đến 79°F), giảm dần từ nam lên bắc và/hoặc khi một người leo lên núi và ngược lại.[7] Trong tháng mát mẻ nhất, nhiệt độ trung bình dao động từ 10 đến 16°C (50 đến 61°F) ở vùng cao phía bắc đến 20 đến 24°C (68 đến 75°F) ở vùng cao phía nam.[3] Nói chung, nhiệt độ mùa đông trung bình là dưới 20°C (68°F) ở nhiều địa điểm phía bắc.[7] Ngoài việc giảm nhiệt độ vào mùa đông, Gió mùa Đông Bắc góp phần làm cho điều kiện lạnh hơn.[7] Nhiều vùng núi ở phía bắc đã trải qua điều kiện cận nhiệt.[7] Ngược lại, nhiệt độ ở quần đảo Trường Sa không bao giờ xuống dưới 21°C (70°F).[7] Vào mùa hè, nhiệt độ trung bình dao động trong khoảng 25 đến 30°C (77 đến 86°F)[3] Nhiệt độ cao nhất thường xảy ra vào tháng 3 - tháng 5 ở miền nam và tháng 5 - tháng 7 ở miền bắc.[7] Điều này là do ở miền Bắc, mưa phùn chiếm ưu thế dẫn đến nhiệt độ tăng nhẹ vào tháng 2 và tháng 3 trước khi tăng từ tháng 4 đến tháng 8 trong khi ở miền Nam, mức tăng nhiệt độ (từ tháng 12 - tháng 2 / tháng 3) lớn hơn nhiều.[7] Do đó, phía nam đạt nhiệt độ cao nhất vào cuối mùa đông trong khi ở phía bắc, nhiệt độ xảy ra vào tháng 7 và tháng 8 do điều này.[7] Nhiệt độ vào mùa hè tương đối bằng nhau giữa các vùng phía bắc và phía nam của đất nước với sự khác biệt chủ yếu là do độ cao (sự giảm nhiệt độ chủ yếu là do độ cao). [7] Lượng mưa trung bình hàng năm trong cả nước dao động từ 700 đến 5.000 mm (28 đến 197 in) mặc dù hầu hết các nơi ở Việt Nam nhận được từ 1.400 đến 2.400 mm (55 đến 94 in).[7] Phần lớn lượng mưa xảy ra trong mùa mưa, chiếm 80% –90% lượng mưa hàng năm.[3] Nhìn chung, các vùng phía bắc của đất nước nhận được nhiều mưa hơn các vùng phía nam của đất nước.[7] Các đảo nằm ở phía bắc nói chung nhận được lượng mưa ít hơn so với đất liền liền kề trong khi ở phía nam, điều này ngược lại khi các đảo như Phú Quốc nhận được nhiều mưa hơn so với đất liền liền kề.[7] Số ngày mưa trung bình hàng năm từ 60 đến 200 ngày, trong đó hầu hết các ngày có lượng mưa trung bình dưới 5 mm (0,20 in).[7] Lượng ngày mưa trong tháng thường tương ứng với lượng mưa trung bình tháng mặc dù ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, mùa đông thường có mưa phùn (mặc dù là mùa khô hơn), dẫn đến lượng ngày mưa nhiều hơn.[7] Ví dụ, số ngày mưa vào mùa khô hơn trong mùa đông ở tỉnh Yên Bái do mưa phùn nhiều hơn số ngày mưa trong mùa mưa chính.[7] Mưa phùn là hiện tượng thời tiết đặc trưng cho thời tiết mùa đông ở bắc bộ và bắc trung bộ.[7] Số ngày có dông xảy ra 20–80 ngày mỗi năm, phổ biến ở phía Nam và phía Bắc, vùng núi nhiều hơn vùng đồng bằng ven biển.[7] Giông có thể xảy ra quanh năm mặc dù chúng phổ biến nhất vào mùa mưa. [7] Ở các đỉnh núi cao nhất phía Bắc như Sa Pa, Tam Đảo, Hoàng Liên Sơn có thể xảy ra tuyết rơi.[4] Tùy thuộc vào khu vực, thời điểm bắt đầu mùa mưa (được định nghĩa là khi lượng mưa trung bình hàng tháng vượt quá 100 mm (3,9 in)) khác nhau: Ở Tây Bắc và Đông Bắc, mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 4 - tháng 5 với đỉnh điểm vào tháng 7 - tháng 8 và kết thúc vào tháng 9 và tháng 10.[7] Ở đồng bằng sông Hồng (đồng bằng Bắc Bộ), mùa mưa bắt đầu từ tháng 4-5, cao điểm vào tháng 7-8 và kết thúc vào tháng 10.[7] Ở Bắc Trung Bộ, mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 - tháng 8 (ở phần phía bắc đèo Ngang mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 - 6, phần phía Nam đèo Ngang mùa mưa đến muộn hơn vào khoảng tháng 8, đạt cực đại vào tháng 10 và tháng 11 trước khi kết thúc vào tháng 11 và tháng 12.[7] Đối với vùng duyên hải Nam Trung Bộ, mùa mưa bắt đầu vào tháng 8 và tháng 9, đạt cực đại vào tháng 10 và tháng 11 trước khi kết thúc vào tháng 12.[7] Ở Tây Nguyên, mùa mưa bắt đầu vào tháng 4 và tháng 5, đạt đỉnh vào tháng 8 trước khi kết thúc vào tháng 10 và tháng 11.[7] Cuối cùng, miền Nam có mùa mưa bắt đầu từ tháng 5, đạt đỉnh vào tháng 9 trước khi kết thúc vào tháng 11.[7] Việt Nam có bốn miền khí hậu chủ yếu, bao gồm: miền khí hậu phía Bắc, miền khí hậu phía Nam, miền khí hậu Trường Sơn, và miền khí hậu Biển Đông. Miền khí hậu phía BắcBao gồm phần lãnh thổ phía Bắc (tả ngạn) sông Lam. Miền này có khí hậu cận nhiệt đới ẩm. Tuy nhiên, miền khí hậu này có đặc điểm là mất ổn định vời thời gian bắt đầu-kết thúc các mùa và về nhiệt độ.
Miền khí hậu Trường SơnGồm phần lãnh thổ phía Đông dãy Trường Sơn, kéo dài từ phía Nam (hữu ngạn) sông Lam tới Mũi Dinh. Miền này mang đậm tính chất của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Miền này lại có thể chia làm hai vùng:
Một đặc điểm quan trọng của miền khí hậu này là mùa mưa và mùa khô không cùng lúc với mùa mưa và khô của hai miến khí hậu còn lại. Mùa hè, trong khi cả nước có lượng mưa lớn nhất, thì miền khí hậu này lại đang ở thời kỳ khô nhất. Miền khí hậu phía NamGồm phần lãnh thổ thuộc Tây Nguyên và Nam Bộ. Miền này có khí hậu nhiệt đới xavan với hai mùa: mùa khô và mùa mưa (từ tháng 4-5 đến tháng 10-11). Quanh năm, nhiệt độ của miền này cao, biên nhiệt độ nhỏ hơn đáng kể so với khu vực Bắc Bạch Mã. Nơi đây có một mùa khô kéo dài, đặc biệt sâu sắc. Khí hậu miền này ít biến động nhiều trong năm.
Miền khí hậu Biển ĐôngBiển Đông Việt Nam mang đặc tính nhiệt đới mùa hải dương và tương đối đồng nhất. Tại đây thường xuyên có xoáy lốc đi từ Thái Bình Dương vào, tạo thành các cơn bão lớn. Do ở Bắc Bán cầu, nên bão và áp thấp nhiệt đới vào Việt Nam xoáy ngược chiều kim đồng hồ. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam sẽ dẫn đến một thực trạng, trong những thập kỷ tới, Việt Nam sẽ nằm trong số các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu toàn cầu.[10] Một số lượng lớn các nghiên cứu cho thấy Việt Nam đang trải qua biến đổi khí hậu và sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng trong những thập kỷ tới. Những tác động tiêu cực này bao gồm nước biển dâng, xâm nhập mặn và các vấn đề thủy văn khác như lũ lụt, diễn biến cửa sông, bồi lắng cũng như tần suất gia tăng của các thiên tai như sóng lạnh, triều cường đều sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển và kinh tế của đất nước bao gồm nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng đường bộ, v.v. Một số vấn đề như sụt lún đất (do khai thác nước ngầm quá mức) làm trầm trọng thêm một số tác động mà biến đổi khí hậu sẽ mang lại (nước biển dâng), đặc biệt là ở các khu vực như Đồng bằng sông Cửu Long.[11] Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và người dân đã thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để giảm thiểu và thích ứng với tác động.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Khí_hậu_Việt_Nam&oldid=68570391” |