Công tác kế hoạch hóa gia đình trên thế giới

“Kế hoạch hóa gia đình: Nâng cao vị thế con người và phát triển đất nước phồn vinh” - chủ đề của ngày Dân số thế giới năm nay thêm một lần nữa khẳng định, đầu tư vào công tác KHHGĐ chính là đầu tư nhằm cải thiện sức khỏe, góp phần thực hiện các quyền cho phụ nữ, các cặp vợ chồng trên toàn thế giới. Sự đầu tư này góp phần tạo động lực thúc đẩy quá trình phát triển.

“Kế hoạch hóa gia đình: Nâng cao vị thế con người và phát triển đất nước phồn vinh” - chủ đề của ngày Dân số thế giới năm nay thêm một lần nữa khẳng định, đầu tư vào công tác KHHGĐ chính là đầu tư nhằm cải thiện sức khỏe, góp phần thực hiện các quyền cho phụ nữ, các cặp vợ chồng trên toàn thế giới. Sự đầu tư này góp phần tạo động lực thúc đẩy quá trình phát triển.

Tuyên truyền thực hiện chăm sóc sức khỏe sinh sản/KHHGĐ góp phần cải thiện sức khỏe phụ nữ.

Nâng cao vị thế con người

Công tác DS-KHHGĐ luôn được xác định là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước. Chính vì thế, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, luật pháp quan tâm toàn diện đến công tác DS-KHHGĐ. Tại Hà Tĩnh, với sự tham mưu của ngành dân số, công tác DS-KHHGĐ đã được cụ thể hóa bằng những văn bản, nghị quyết phù hợp với tình hình ở địa phương.

Ông Đường Công Lự - Chi cục trưởng Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh cho biết: “Nguồn kinh phí trung ương bị cắt giảm và chậm trễ khiến công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn gặp nhiều khó khăn. Nhưng, bám sát nghị quyết của tỉnh trong tham mưu bố trí kinh phí, chủ động thời gian nên công tác DS-KHHGĐ, cụ thể là chiến dịch chăm sóc sức khỏe sinh sản/KHHGĐ và các chương trình, đề án đã được triển khai ở khắp các xã, phường trên địa bàn Hà Tĩnh. Đây cũng là hoạt động thúc đẩy việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người dân về công tác KHHGĐ”.

Người dân trên địa bàn được đảm bảo các quyền lợi như: Quyền được chăm sóc sức khỏe sinh sản, cung cấp các dịch vụ, thông tin, kiến thức về DS-KHHGĐ; quyền được lựa chọn các biện pháp tránh thai phù hợp; được quyết định thời gian, khoảng cách giữa các lần sinh. Phương pháp tiếp cận dựa vào quyền của người dân đã giúp Hà Tĩnh đạt được những kết quả ban đầu trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh sản/KHHGĐ. Việc trao quyền và nâng cao vị thế là cơ sở giúp hàng trăm ngàn phụ nữ trên địa bàn có thể ra quyết định thực hiện quy mô gia đình có 1 hoặc 2 con; thời gian sinh con phù hợp để đảm bảo việc học tập, làm việc.

Cải thiện chất lượng cuộc sống

Mặc dù còn nhiều khó khăn trong công tác giảm sinh, nhưng thực tế cho thấy, sự kiên trì của ngành dân số và việc đầu tư vào công tác KHHGĐ của tỉnh đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng dân số, tăng tiềm năng kinh tế của từng địa phương. Hà Tĩnh đang trong thời kỳ dân số vàng - tỷ lệ dân số phụ thuộc [dân số trẻ em và người cao tuổi] nhỏ hơn dân số trong độ tuổi lao động, đã tạo ra một lợi thế về kinh tế. Sự kết hợp giữa tăng số lượng người lao động tạo ra thu nhập và giảm tỷ lệ dân số phụ thuộc, cộng thêm các chính sách phù hợp là cơ sở thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của địa phương.

Mức độ xã hội hóa các KHHGĐ ngày càng cao làm cho việc thực hiện chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản/KHHGĐ phủ kín trong toàn dân. Hàng ngàn cặp vợ chồng đã tự nguyện lựa chọn phấn đấu thực hiện mô hình gia đình 2 con để nâng cao chất lượng cuộc sống. Tỷ suất sinh thô giảm xuống còn 15,58‰, tỷ lệ sinh trên 2 con hơn 22%; tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ thực hiện các biện pháp tránh thai hiện đại gần 65%... Đó thực sự là những con số có ý nghĩa lớn, thể hiện công tác DS-KHHGĐ từ bị động chuyển sang chủ động, từ số lượng nhiều, chất lượng thấp sang số lượng ít, chất lượng cao.

Anh Phạm Bá Quyền - Giám đốc Trung tâm DS-KHHGĐ Thạch Hà cho biết: “Từ tình hình thực tế của địa phương cho thấy, thành tựu trong công tác KHHGĐ đang tác động theo hướng tích cực, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Đó là trẻ em được nuôi dạy tốt hơn, các bậc cha mẹ, đặc biệt là chị em phụ nữ ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa có cơ hội nâng cao sức khỏe, tham gia các hoạt động kinh tế, chính trị - xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo và áp lực dân số lên hệ thống giáo dục, y tế… giảm đáng kể”.

Hà Tĩnh đang từng bước chuyển đổi trọng tâm chính sách dân số từ KHHGĐ sang dân số và phát triển, từ quá trình ổn định quy mô đến nâng cao chất lượng dân số. Bức tranh mang màu sắc tươi vui ấy đã được thể hiện rõ nét ở chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của người dân.

Kế hoạch hoá gia đình là việc lập kế hoạch khi nào có trẻ em, và việc sử dụng kiểm soát sinh sản và các kỹ thuật khác để thực hiện các kế hoạch đó. Các kỹ thuật khác thường được sử dụng gồm giáo dục giới tính, ngăn chặn và quản lý các bệnh lây truyền qua đường tình dục, tư vấn trước khi mang thai và , và quản lý vô sinh.

Kế hoạch hoá gia đình thỉnh thoảng được sử dụng như một thuật ngữ đồng nghĩa với kiểm soát sinh sản, dù nó thường có nội hàm lớn hơn. Nó chủ yếu được áp dụng với một cặp nữ – nam muốn hạn chế số lượng trẻ em họ có và/hay kiểm soát thời gian mang thai [cũng được gọi là giãn cách sinh sản].

Các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình được định nghĩa là "giáo dục, y tế toàn diện hay các hoạt động xã hội cho phép các cá nhân, gồm cả người chưa thành niên, tự do quyết định số lượng và thời gian giãn cách giữa những đứa trẻ và lựa chọn các biện pháp để thực hiện điều đó."

Mục đích[sửa | sửa mã nguồn]

Nuôi dưỡng một đứa trẻ đòi hỏi khá nhiều nguồn tài nguyên: thời gian, xã hội, tài chính, môi trường. Kế hoạch hoá có thể giúp đảm bảo có được các nguồn tài nguyên đó.

Sức khoẻ[sửa | sửa mã nguồn]

Chờ ít nhất tới khi bà mẹ đủ 18 tuổi trước khi tìm cách có thai là cách để cải thiện sức khoẻ bà mẹ và trẻ em. Tương tự, nếu mong muốn có thêm con sau đứa con thứ nhất, bà mẹ và trẻ sơ sinh sẽ có sức khoẻ tốt hơn nếu đợi ít nhất hai năm sau lần sinh trước [nhưng không hơn 5 năm]. Sau một lần sảy thai hay phá thai, nên chờ ít nhất 6 tháng.

Tài chính[sửa | sửa mã nguồn]

Sinh đẻ và chăm sóc sức khoẻ trước khi sinh mất khoảng $7,090 nếu sinh bình thường tại Hoa Kỳ năm 1996. Bộ nông nghiệp Mỹ ước tính cho việc sinh một đứa trẻ năm 2007, một gia đình Mỹ sẽ tiêu trung bình khoảng $11,000 tới $23,000 mỗi năm trong 17 năm đầu tiên của đứa trẻ. [Tổng ước tính đã bù trừ lạm phát: $196,000 tới $393,000, tuỳ thuộc vào thu nhập hộ.]

Chính sách[sửa | sửa mã nguồn]

Một cơ sở kế hoạch hoá gia đình tại Kuala Terengganu, Malaysia.

Quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn cung cấp tài chính lớn nhất của quốc tế về dân số và sức khoẻ sinh sản là Quỹ dân số Liên hiệp quốc [UNFPA]. Các mục tiêu chính của Chương trình Hành động của Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển gồm:

  • Tiếp cận phổ quát tới các dịch vụ sức khoẻ sinh sản vào năm 2015
  • Giáo dục phổ cập cấp một và lấp đầy l là khoảng cách giới tính trong giáo dục vào năm 2015
  • Giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ 75% vào năm 2015
  • Giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh
  • Tăng tuổi thọ
  • Giảm tỷ lệ mắc HIV trong nhóm người độ tuổi 15 – 24 25% tại những quốc gia bị ảnh hưởng mạnh nhất năm 2005, và 25% trên toàn cầu năm 2010

Tổ chức Y tế Thế giới [WHO] và Ngân hàng Thế giới ước tính rằng chỉ với $3.00 trên người trên năm là đủ cho nhu cầu căn bản về kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ sơ sinh tại các quốc gia đang phát triển. Nó sẽ bao gồm tránh thai, chăm sóc sớc khoẻ trước khi sinh, khi sinh và sau khi sinh ngoài việc tuyên truyền kế hoạch hoá gia đình và khuyến khích sử dụng bao cao su để ngăn bệnh lây truyền qua đường tình dục.

Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Chính sách một con của Trung Quốc khuyến khích các cặp vợ chồng không có quá một con. Chính sách dân số của Trung Quốc được cho là đã góp phần hạ thấp đáng kể tỷ lệ tăng dân số từng rất cao trước khi chính sách này được áp dụng. Nó đã bị chỉ trích rằng việc áp dụng chính sách đã dẫn tới những trường hợp bắt buộc phá thai và bắt buộc triệt sản. Tuy nhiên, vì hình thức phạt khi mang thai "ngoài kế hoạch" chỉ là một khoản phạt, cả việc bắt buộc phá thai và bắt buộc triệt sản đều có thể bị kết tội tấn công có chủ đích, có thể bị kết án tới 10 năm tù.

Hồng Kông[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Hồng Kông, Eugenics League được thành lập năm 1936, nó trở thành Hội kế hoạch hoá gia đình Hồng Kông năm 1950. Tổ chức này cung cấp tư vấn về kế hoạch hoá gia đình, giáo dục giới tính, các dịch vụ kiểm soát sinh sản cho người dân Hồng Kông. Trong thập niên 1970, vì sự gia tăng dân số nhanh chóng, tổ chức đã tung ra chiến dịch "Hai là đủ", giúp làm giảm bớt tỷ lệ sinh thông qua các biện pháp giáo dục.

Hội kế hoạch hoá gia đình Hồng Kông, đã thành lập International Planned Parenthood Federation với các đối tác ở bảy quốc gia khác.

Iran[sửa | sửa mã nguồn]

Iran là một quốc gia khác đã thành công trong việc giảm mạnh tỷ lệ sinh trong những năm gần đây.

Hoa Kỳ[sửa | sửa mã nguồn]

Title X của Public Health Service Act, là một chương trình của chính phủ Hoa Kỳ để cung cấp dịch vụ kế hoạch hoá gia đình cho những người có nhu cầu. Nhưng nguồn vốn cho Title X theo phần trăm tổng nguồn vốn cho các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình công đã giảm liên tục từ 44% tổng chi năm 1980 xuống còn 12% năm 2006. Medicaid đã tăng từ 20% lên 71% trong cùng thời gian đó. Năm 2006, Medicaid góp $1.3 tỷ cho kế hoạch hoá gia đình công cộng.

Ấn Độ[sửa | sửa mã nguồn]

Chính phủ Ấn Độ đã chú trọng tới các biện pháp kiểm soát dân số và gia tăng nhận thức về những lợi ích khi giảm tăng trưởng dân số, gồm cả một cuộc sống tốt hơn, giáo dục, môi trường và sức khoẻ cho mọi cá nhân. Dù có những nỗ lực đó, các cặp vợ chồng[ai nói?] thường cho rằng các con họ cần có nhiều anh em.[cần dẫn nguồn] Các cặp vợ chồng[ai nói?] cảm thấy rằng họ có khả năng nuôi nấng hơn một đứa trẻ và không nhận ra rằng cần phải có một môi trường bền vững để có khả năng hỗ trợ cho một dân số đang gia tăng. Các chiến dịch tăng cường nhận thức gồm "We two, our's one", "Girl or Boy, let there just be one child".[cần dẫn nguồn]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Gia đình
  • Lập kế hoạch cuộc sống
  • Chi phí nuôi dạy một đứa trẻ
  • natalism và antinatalism
  • Parental leave
  • POPLINE: Dữ liệu sức khoẻ sinh sản lớn nhất thế giới, một phần của The INFO Project
  • Lựa chọn giới tính

Các tổ chức[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc tế

  • International Planned Parenthood Federation
  • Marie Stopes International
  • Centre for Development and Population Activities

Quốc gia

  • British Pregnancy Advisory Service
  • Family Planning Association [UK]
  • Family Planning Association India
  • Family Planning Association of Hong Kong
  • German Foundation for World Population [DSW]
  • National Alliance for Optional Parenthood [USA]
  • Tổ chức kế hoạch hóa gia đình Hoa Kỳ [Planned Parenthood]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • “Mission Statement”. US Dept. of Health and Human Services, Office of Population Affairs.
  • ^ Family planning - WHO
  • ^ “What services do family planning clinics provide? — Health Questions — NHS Direct”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2009.
  • ^ US Dept. of Health, Administration for children and families
  • ^ “Expenditures on Children by Families, 2007; Miscellaneous Publication Number 1528-2007”. United States Department of Agriculture, Center for Nutrition Policy and Promotion. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2009.
  • MsMoney.com - Marriage, Kids & College - Family Planning
  • ^ “Healthy Timing and Spacing of Pregnancy: HTSP Messages”. USAID. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2008.
  • Mushinski, M. [1998]. “Average charges for uncomplicated vaginal, cesarean and VBAC deliveries: Regional variations, United States, 1996”. Statistical Bulletin. 79 [3]: 17–28.
  • “Promises to Keep: The Toll of Unintended Pregnancies on Women's Lives in the Developing World”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2009.
  • ^ “History of the Family Planning Association of Hong Kong”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2021.
  • ^ “History of International Planned Parenthood Federation”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2009.
  • US Office of Population Affairs - Legislation Sonfield A, Alrich C and Gold RB, Public funding for family planning, sterilization and abortion services, FY 1980–2006, Occasional Report, New York: Guttmacher Institute, 2008, No. 38. //guttmacher.org/pubs/2008/01/28/or38.pdf

Chủ Đề