Con trưởng của đinh tiên hoàng là ai

Các tài liệu lịch sử, kể cả sử sách trong nước và sử sách Trung Quốc đều nói về nguồn gốc của Đinh Bộ Lĩnh có đôi nét khác nhau, cộng thêm với hàng loạt truyền thuyết, những câu chuyện dân gian lưu truyền, kể cả những truyền thuyết hoang đường làm cho việc xác định nguồn gốc nhân vật gặp không ít khó khăn... 

Huyền tích rái cá gắn với Vua Đinh Tiên Hoàng

Tương truyền ở động Hoa Lư quê hương của Đinh Bộ Lĩnh có một cái đầm rất sâu. Ở đầm có con rái cá to lớn sống lâu đã thành tinh. Bà Đàm Thị [vợ của Đinh Công Trứ, mẫu thân Đinh Bộ Lĩnh] lại vẫn thường vào trong đầm tắm giặt. Cho đến một hôm, bà bị con rái cá ấy phạm vào thân thể rồi về thụ thai.

Đến kỳ mãn nguyệt khai hoa, bà Đàm Thị sinh hạ một cậu con trai khôi ngô tuấn tú đặt tên là Đinh Bộ Lĩnh. Ít lâu sau, chồng bà là Đinh Công Trứ qua đời, con rái cá cũng bị người dân bắt được đem làm thịt, bỏ xương vào một xó. Hay tin ấy bà vội đến, nhặt xương và gói ghém để trên gác bếp, bảo với Đinh Bộ Lĩnh đấy là hài cốt của cha. 

Tượng Vua Đinh Tiên Hoàng  

Ngay cả Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cũng chỉ giới thiệu về thân thế Đinh Tiên Hoàng rất đơn giản: Đinh Bộ Lĩnh sinh năm Giáp Thân [924]. Về hoàn cảnh xuất thân của Đinh Bộ Lĩnh: Xưa, cha của vua là Đinh Công Trứ làm nha tướng của Dương Đình Nghệ, được Nghệ giao giữ chức quyền Thứ Sử châu Hoan, sau theo về với Ngô Vương, vẫn được giữ chức cũ, rồi mất. Vua mồ côi cha từ bé, mẹ là họ Đàm đưa gia thuộc vào ở cạnh đền sơn thần trong động. Vào tuổi nhi đồng, vua thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng.  

Ông Nguyễn Văn Son [Hội viên Hội di sản Văn hóa Việt Nam] cho rằng, chúng ta cần xem lại chi tiết này trong cuốn chính sử của nước Việt. Ông Son lý giải: Đinh Bộ Lĩnh sinh năm 924, Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán rồi lên ngôi năm 938, khi đó Bộ Lĩnh đã 14 tuổi. Cha của Bộ Lĩnh theo Ngô Vương, có nghĩa là ít nhất đến năm 16 tuổi cha mới mất, không thể coi rằng Vua mồ côi cha từ bé.

Cuốn truyện lịch sử "Ngọn cờ lau" có nhiều kiến giải rõ ràng về thân thế Vua Đinh Tiên Hoàng 

Trong cuốn truyện Ngọn cờ lau lịch sử, tác giả Nguyễn Như [viết năm 1920] kể rằng, Công Trứ và Đàm Thị sánh duyên đã trên dưới chục năm mà chưa có con. Là người học rộng tài cao, có tư chất nên Công Trứ được trọng dụng giao chức Thứ Sử, cai quản vùng Châu Hoan.

Sau 6 năm nhậm chức, người vợ Đàm Thị ở quê nhà mới có điều kiện để vào thăm chồng. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng, tủi tủi. Nào ngờ tai họa lại giáng xuống giữa đêm đó…

Một tướng tinh [Sao Băng] trên trời cao sa xuống dinh quan Thứ Sử. Hào quang của ngôi sao mạnh và tỏa rộng, cùng với nắng nóng ban ngày đã làm khô mọi vật, nên đã xảy ra hỏa hoạn, làm cho tất cả kho tàng, trại lính và dinh thự của quan Thứ Sử đều bị thiêu rụi. 

Cũng từ lúc đó, Công Trứ bỗng dưng bị ốm liệt giường, cấm khẩu. Đàm Thị cùng gia nhân và những người tâm phúc lo lắng cho rằng: “Đằng nào thì Công Trứ cũng không sống được nữa, bởi không chết vì triều đình trách tội thì cũng chết vì căn bệnh này” nên mọi người liền đưa Công Trứ về quê.

Về Đại Hữu được một thời gian thì Công Trứ khuất núi, cũng là lúc Đàm Thị phát hiện mình đã có thai. Một thời gian sau quan quân triều đình về, truy xét Công Trứ vì tội làm cháy nhà cửa, kho tàng và dinh thự ở Hoan châu nên tuyên phạt “lưu đày biệt tích và tịch thu toàn bộ gia tư, điền thổ. Nhưng Công Trứ không còn, quan triều đình lại hỏi đến con của Công Trứ và phán rằng: “Sau này nếu sinh con trai, khi đứa con đó đủ mười tám tuổi sẽ phải chịu tội thay cha”.

Vợ chồng Đinh Thúc Dự [là em ruột của Đinh Công Trứ] lo lắng, bàn bạc quyết bảo vệ cháu, nên đã bịa ra câu chuyện rằng Đàm Thị đã bị con rái cá thành tinh hiếp. Nếu có sinh ra con trai thì cũng là “tạp chủng” chứ không phải là con của Công Trứ.  Đó là cái cớ để Đàm Thị sang nương nhờ bên ngoại là Đàm Gia Trang. Đủ chín tháng mười ngày, đêm rằm tháng ba năm 924, Bộ Lĩnh đã cất tiếng khóc chào đời.

Sự thật về thân thế Đinh Tiên Hoàng

Lọt lòng mẹ Bộ Lĩnh đã có tướng mạo phi phàm, mắt nhanh như chớp, sáng như sao, mặt to tai lớn, hàm én mày ngài. Càng lớn Bộ Lĩnh càng giống Công Trứ, nên nỗi lo trong lòng người chú ruột cũng tăng theo năm tháng. Một hôm Thúc Dự bàn với Đàm Thị là đưa đàn trâu cùng Bộ Lĩnh qua sông Đại Hoàng [sông Hoàng Long hiện nay], đến khu núi non thung lũng để chơi với trẻ chăn trâu bên đó. 

Bề ngoài Thúc Dự tỏ ra ích kỷ, lạnh lùng, đầy đọa Bộ Lĩnh, mang tiếng đuổi cháu vào rừng chăn trâu cắt cỏ, không được bén mảng về nhà, suốt ngày mò cá mà ăn vì là “Con rái cá, giống tạp chủng”. Nhưng bên trong, Thúc Dự bí mật rước một thầy dạy thật giỏi, cả văn lẫn võ tên là Lưu Phúc, cung cấp tiền của, nhờ Thầy giữ kín không cho Bộ Lĩnh cùng mọi người xung quanh biết, quyết cho Bộ Lĩnh học văn, luyện võ. 

Đèn dầu ngày xưa Đinh Bộ Lĩnh đã dùng, được khai quật tại vùng lõi cố đô Hoa Lư [Ninh Bình]

Việc quan lưu tại án văn, nên vài năm sau, quan quân triều đình lại rầm rập kéo về gặp Thúc Dự, vì có tin ngầm báo Bộ Lĩnh đã lớn, là con ruột của Đinh Công Trứ. Hai vợ chồng Thúc Dự cùng nhau vẽ ra một câu chuyện khiến quan quân triều đình tin rằng, Bộ Lĩnh đúng là con của một rái cá như: “Nó đen trũi, lặn ngụp dưới sông Sào Khê, mò cá ăn sống, mắt nó bây giờ đỏ lòm và lông lá mọc đầy người” hoặc “Khi nó 9-10 tuổi, đã rất giỏi bơi lặn".

Ai cần mua một con ba ba to bằng nào, chỉ cần lấy que vẽ khoanh xuống đất. Nó nhìn một lượt rồi nhảy tùm xuống nước, chỉ một loáng là nó đã nắm cổ một con ba ba đúng như hình vẽ. Nó như một con ma rái cá vậy” để có thể qua mặt được quan quân triều đình. 

Lý giải trong cuốn truyện này cũng đồng nhất với nhiều tài liệu sau này của các nhà nghiên cứu lịch sử. Theo đó, Đinh Bộ Lĩnh sinh trưởng trong một gia đình quan chức, cha là Tiết độ sứ ở vùng Châu Hoan.

Khi cha mất, ông cùng với mẹ và toàn bộ gia nhân về quê sinh sống. Với lứa tuổi đang độ trưởng thành, cộng với trí thông minh, tài năng bẩm sinh và ý chí mạnh mẽ của chàng thanh niên con quan có học, Đinh Bộ Lĩnh dễ dàng chiếm được lòng mến phục của lớp trai trẻ châu Đại Hoàng. 

Ông đã tập hợp quanh mình nhiều bạn bè cùng trang lứa và còn thu phục được sự tin tưởng nể vì của các bậc bô lão trong vùng, dần dần ông đã trở thành người cầm đầu của cả châu Đại Hoàng thời ấy. Cùng với đội ngũ bạn bè thời niên thiếu như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp loạn 12 sứ quân, lập nên nhà nước Đại Cồ Việt sau 1.000 năm Bắc thuộc, đồng thời cho đúc tiền để khẳng định nền độc lập tự chủ.

[Còn nữa] 

Nhật Thu

Chủ nhật, 19/02/2012 22:48

Tiểu sử vua Đinh Tiên Hoàng

Đinh Tiên Hoàng vốn họ Đinh, tên Hoàn. Bộ lĩnh là tước quan của sứ quân Trần Lâm phong cho, nên còn gọi là Đinh Bộ Lĩnh. Ông sinh năm 923, quê ở Hoa Lư, châu Đại Hoàng [nay là xã Gia Phương, Huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình], ông là con của thứ sử Châu Hoan Đinh Công Trứ.

Cha mất sớm, ông theo mẹ là Đàm Thị về quê nương nhờ chú ruột là Đinh Dự. Hàng ngày, lúc chăn trâu, ông thường cùng trẻ chăn trâu chia phe tập trận. Ông có tài chỉ huy nên được bọn trẻ mến phục. Chúng khoanh tay làm kiệu để rước và cầm lau đi hai bên như "Rước thiên tử".

Vua Đinh Tiên Hoàng.

Lớn lên, ông đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Lâm. Do dũng cảm, mưu lược nên được phong làm Bộ Lĩnh. Trần lâm chết, ông đem quân về giữ Hoa Lư chiêu mộ hào kiệt hùng cứ một phương chống giặc Ngô và các sứ quân khác.

Năm 965, Triều đình phong kiến suy yếu, các sứ quan phong kiến nổi dậy đánh chiếm, tranh giành đất đai, bóc lột nhân dân. Nhờ "tài năng sáng suốt hơn người, mưu lược nhất đời" lại được nhân dân ủng hộ chỉ một năm Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp tan loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước. Được xưng tụng là Vạn Thắng Vương.

Năm Mậu Thìn [968] ông mở nước, dựng đô xưng làm hoàng đế - Tôn hiệu là Đại Thắng Minh và đặt tên nước là Đại Cổ Việt. Đến năm Canh Ngọ [970] ông bắt đầu đặt hiệu nước là "Thái Bình" và cho đúc tiền đồng "Thái bình" – tiền cổ nhất nước ta. Nhờ công lao của ông mà đất nước được thống nhất độc lập và giàu mạnh.

Ở ngôi được 12 năm [968 – 979] ông mất năm Kỷ Mão [979] thọ 56 tuổi.

Ngày nay ở Hoa Lư - Ninh Bình và nhiều nơi khác, nhân dân ta lập đền thờ để tưởng nhớ công ơn của ông. Nhiều trường học, đường phố được vinh dự mang tên ông – Đinh Tiên Hoàng.

Nguồn thdinhtienhoang.vn

Đinh Tiên Hoàng [924 - 979] tên húy Đinh Bộ Lĩnh là vị vua sáng lập triều đại nhà Đinh trong lịch sử phong kiến. Ông sớm mồ côi cha. Thuở bé, ông theo mẹ vào động bên cạnh đền thờ sơn thần sinh sống.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Vua lúc còn nhỏ chơi cùng với lũ trẻ chăn trâu ngoài đồng, lũ trẻ tự biết kiến thức không bằng vua nên cùng nhau tôn làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, vua bắt chúng khoanh tay làm kiệu để khiêng và lấy hoa lau đi hai bên để rước như là nghi vệ thiên tử.

Ngày rỗi sang đánh trẻ con thôn khác, đến đâu chúng đều sợ phục, rủ nhau hàng ngày đến kiếm củi thổi cơm để phục dịch. Bà mẹ thấy thế mừng lắm, mổ lợn của nhà cho chúng ăn. Phụ lão bảo nhau rằng đứa trẻ này khí độ như thế, tất sẽ làm nên việc, bọn chúng ta nếu không theo về, ngày sau hối không kịp”.

Dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế

Năm 944, khi Đinh Bộ Lĩnh tròn 20 tuổi, vua Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha chiếm ngôi và xưng là Bình Vương. Lúc bấy giờ con trai Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập chạy về Nam Sách [Hải Dương] tạo nên cuộc tranh chấp ngôi báu giữa nhà Ngô và ngoại tộc.

Tranh vẽ tuổi thơ của Đinh Bộ Lĩnh.

Kết quả, Dương Tam Kha bại trận, Ngô Xương Ngập cùng em trai là Ngô Xương Văn nắm lại quyền lực. Do cả hai cùng nắm quyền nên triều đình ngày càng trở nên rối ren, các sứ quân cát cứ bắt đầu hình thành và nổi dậy.

Trước tình hình đó, Đinh Bộ Lĩnh đã tập hợp lực lượng để trở thành thủ lĩnh, lấy động Hoa Lư làm căn cứ ban đầu, thực hiện sự nghiệp thống nhất đất nước. Lúc này triều đình nhà Ngô đang rệu rã đã cho quân đến đánh dẹp. Đinh Bộ Lĩnh liền cho con mình là Đinh Liễn đến triều đình Cổ Loa làm con tin để hòa hoãn.

Biết được ý định tạm hòa hoãn để xây dựng lực lượng, hai vương nhà họ Ngô đã cho quân tiến đánh động Hoa Lư nhưng bị chống trả quyết liệt, liền treo Đinh Liễn lên cây dọa giết. Đinh Bộ Lĩnh đanh thép nói: “Đại trượng phu chỉ mong lập được công danh, há lại bắt chước thói đàn bà xót con hay sao”, sau đó sai hơn chục người cầm cung nỏ nhằm bắn vào Đinh Liễn khiến hai vương nhà Ngô phải cho quân rút lui. Đinh Liễn thoát chết.

Nhờ đó, thế lực của Đinh Bộ Lĩnh ngày càng lớn mạnh với nhiều tướng lĩnh tài ba và các tráng đinh từ vùng Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa ngày nay.

Năm 954, Ngô Xương Ngập bị bệnh và chết. Hơn 10 năm sau, Ngô Xương Văn đem quân đi đánh các thế lực chống đối và chết trận. Không còn chính quyền trung ương, đất nước càng thêm rối loạn rồi bị chia rẽ sâu sắc bởi sự nổi lên của 12 sứ quân. Cùng lúc đó, triều đình phương Bắc nhăm nhe khôi phục ách đô hộ. Vì thế, Đinh Bộ Lĩnh đã đứng lên dẹp loạn.

Động Hoa Lư - căn cứ đầu tiên của Đinh Bộ Lĩnh.

Suốt hai năm, Đinh Bộ Lĩnh thuyết phục, vận động, liên kết, hàng phục và dùng sức mạnh quân sự để đánh dẹp các thế lực cát cứ. Cuối cùng ông đã lần lượt thu phục các sứ quân, chấm dứt tình trạng phân chia cát cứ, thống nhất đất nước, được gọi là Vạn Thắng Vương. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Đinh Tiên Hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt và cho định đô ở Hoa Lư.

Lấy mẹ của kẻ địch làm vợ, gả con gái cho kẻ địch

Lên ngôi sau khi dép “loạn 12 sứ quân”, vua Đinh Tiên Hoàng luôn tìm cách khống chế tầm ảnh hưởng của các sứ quân và hậu duệ của họ, trong đó có cả biện pháp dùng hôn nhân. Cụ thể, ông đã lấy mẹ của Ngô Nhật Khánh – 1 trong 12 loạn sứ quân, con cháu của Ngô Quyền làm vợ rồi phong hoàng hậu, đồng thời gả con gái là công chúa Phất Kim cho Nhật Khánh; cho em gái của Nhật Khánh lấy con mình là Nam Việt Vương Đinh Liễn.

Dã sử không ghi mẹ của Ngô Nhật Khánh tên là gì, chỉ ghi là Ngô phu nhân. Có thuyết cho rằng bà sinh với Đinh Tiên Hoàng một hoàng tử là Đinh Hạng Lang.

Tượng vua Đinh Tiên Hoàng.

Về phía Ngô Nhật Khánh, tuy được đưa vào các mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhà Đinh nhưng lúc nào cũng nuôi chí phục thù, mong dựng lại cơ đồ nhà Ngô... Hắn tìm mọi cách để chống lại vua Đinh, liên hệ với vua Chiêm Thành để mưu đồ phản nghịch.

Thậm chí, trước khi chạy vào theo Chiêm Thành, Ngô Nhật Khánh xẻo má vợ để làm nhục. Nhưng trong cuộc hành quân của quân Chiêm định đánh Đại Cồ Việt, Ngô Nhật Khánh đã bị chết đuối.

Sau biến cố đau lòng trên, Ngô phu nhân chẳng còn lòng dạ nào ở lại hoàng cung nữa. Dã sử chép, sau khi Đinh Tiên Hoàng mất, bà lập một ngôi chùa ở ngoại thành Hoa Lư để tu hành, ngôi chùa có tên là Đàm Lư nhưng dân gian vẫn quen gọi là chùa Bà Ngô.

Sai lầm khiến con trai trưởng sát hại con út

Đinh Tiên Hoàng có ba người con trai là Đinh Liễn, Đinh Toàn và Đinh Hạng Lang. Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Đầu năm 978, Đinh Tiên Hoàng lập con nhỏ Hạng Lang làm hoàng thái tử, phong con thứ là Toàn làm Vệ vương. Việc này gây mâu thuẫn trong nội tộc khi Đinh Liễn – con trai trưởng từng trải qua nhiều gian khổ với vua lại không được lập làm hoàng thái tử”.

Mùa xuân năm 979, Đinh Liễn giết Hạng Lang. Nhân cơ hội đó, các thế lực muốn chiếm đoạt ngai vàng tìm cách lật đổ vương triều Đinh. Đến tháng 10, cháu của Đỗ Cảnh Thạc – người đứng đầu một sứ quân từng bị Đinh Tiên Hoàng tiêu diệt, đã giết vua Đinh Tiên Hoàng ở sân cung đình và giết luôn cả Đinh Liễn. Vua được an tang ở Sơn Lăng trên núi Mã Yên thuộc Trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình.

Nguồn: //thoidaiplus.suckhoedoisong.vn/hoang-de-viet-dep-loan-12-su-quan-va-chuyen-lay-me...Nguồn: //thoidaiplus.suckhoedoisong.vn/hoang-de-viet-dep-loan-12-su-quan-va-chuyen-lay-me-cua-ke-thu-lam-hoang-hau-d258265.html

Theo K.T [Tổng hợp] [thoidaiplus.suckhoedoisong.vn]

Video liên quan

Chủ Đề