Con trai đầu của ông cao văn lầu tên gì

Mặc dù Ban tổ chức và cả Ban chỉ Festival đờn ca tài tử quốc gia lần thứ nhất – Bạc Liêu 2014 thống nhất đề tên năm sinh của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu vào năm 1892. Nhưng tại nhiều nơi ở Bạc Liêu vẫn đề năm 1890.

Cổng chào mừng trước Khu di tích lịch sử Văn hóa quốc gia Cao Văn Lầu, đề năm sinh 1890.

Cụ thể, tại Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu, Phường 2, Thanh phố Bạc Liêu – nơi vừa được Bộ VHTTDL công nhận là di tích quốc gia, hiện Bảo tàng Bạc Liêu đang quản lý vẫn đề năm 1890.

Ngày 20.4, thạc sĩ Lâm Thành Đắc - Phó chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học tỉnh Bạc Liêu, người có nhiều công trình nghiên cứu về Cao Văn Lầu - cho biết, Cao Văn Lầu, sinh ngày mùng 4 thánh 11 năm Nhâm Thìn [ 22.12.1892] tại xóm Rạch Cây Cui, thôn Thuận Lễ, tổng Thạnh Hội Hạ, huyện Tân Thạnh, phủ Tân An, tỉnh Gia Định [nay là xã Thuận Mỹ, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An].

Điều này đã được xác định từ rất lâu thông qua nhiều cuộc hội thảo. Hiện tại các sách viết về Cao Văn Lầu đều ghi năm sinh 1892, không ai viết 1890 cả.

Con trai ông là Cao Kiến Thiết, khi lập mộ cũng đề năm sinh 1892. Kể cả trong bản khai người hoạt động khánh chiến do ông Cao Văn Oai [con trai Cao Văn Lầu] cũng khai năm sinh của Cao Văn Lầu là 1892.

Hầu hết các tài liệu do tiểu ban tuyên truyền Festival công bố đều đề năm sinh của Cao Văn Lầu là 1892, riêng Khu mộ của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, do Bảo tàng Bạc Liêu quản lý vẫn đề năm sinh 1890!

Sự không thống nhất năm sinh của một nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn đối với Bạc Liêu như nhạc sĩ Cao Văn Lầu tại Festival cho thấy khâu tổ chức vẫn chưa thật sự thống nhất, chu đáo.

Tối 22-11, trong chương trình giao lưu với khán giả truyền hình HTV, NSND Ngọc Giàu đã tâm sự về người sáng tác bài "Dạ cổ hoài lang" - nhạc sĩ Cao Văn Lầu.

NSND Ngọc Giàu và nhạc sĩ Cao Văn Lầu

"Từ lúc còn nhỏ, tôi đã nghe bài hát này do các nghệ sĩ tiền bối ca như cô Năm Phỉ, cô Sáu Bê… Bài hát nói về tâm sự người vợ nhớ chồng lúc canh thâu. Từ bản "Dạ cổ hoài lang" mỗi câu 2 nhịp, các nghệ sĩ sau này chuyển lên 4 nhịp rồi 8 nhịp và thành bài vọng cổ đầu tiên" - NSND Ngọc Giàu cho biết.

Theo NSND Ngọc Giàu, 10 năm trước, khi tỉnh Bạc Liêu tổ chức hội thảo 90 năm bài "Dạ cổ hoài lang", bà gặp ông Cao Văn Bỉnh, con trai út của nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bày tỏ: "Giới cổ nhạc và nghệ sĩ sân khấu cải lương cả nước nhớ ơn bác Sáu Lầu. Không có "Dạ cổ hoài lang" của bác Sáu thì không có bài vọng cổ ngày nay".

Nỗi niềm của người nghệ sĩ nhớ ơn tiền nhân đã nhiều lần được bà thổ lộ khi giao lưu với sinh viên, học sinh, trước khi ca bài "Dạ cổ hoài lang".

Nhạc sĩ Cao Văn Lầu

NSND Ngọc Giàu kể hồi đó, nhạc sĩ Cao Văn Lầu cưới vợ được 3 năm mà không có con. "Tiếng ra, tiếng vào của gia đình buộc ông phải thôi vợ nhưng ông không đành. Ông gởi vợ đến một gia đình có tấm lòng nhân hậu, xót thương cho vợ chồng gặp phải cảnh đau lòng mà cho ở đậu qua ngày" – NSND Ngọc Giàu nhớ lại.

NSND Ngọc Giàu trong vở "Tình mẫu tử" của soạn giả Viễn Châu

Theo NSND Ngọc Giàu, bài "Dạ cổ hoài lang" khởi điểm từ nhịp 2. Song, khi hòa nhập đời sống sân khấu cải lương, bản nhạc được chuyển dần thành nhiều nhịp: Năm 1924 tăng lên nhịp 4, từ 1934 - 1944 lên nhịp 8, từ 1944 - 1954 lên nhịp 16, từ 1955 - 1964 tăng lên nhịp 32 rồi 64 nhịp từ năm 1965 đến nay.

Nhiều soạn giả, nhạc sĩ lấy cảm hứng từ bản nhạc này để sáng tác như: NSND Viễn Châu [tân cổ giao duyên], Vũ Đức Sao Biển ["Đêm Gành Hào nghe điệu Hoài Lang"]...

""Dạ cổ hoài lang" thực sự trở thành một di sản mang tính cộng đồng và chúng ta mang ơn bác Sáu Lầu" – NSND Ngọc Giàu nhận định.

Người yêu mến nghệ thuật đờn ca tài tử, cải lương ở Nam bộ hẳn là ai cũng biết bản Dạ cổ hoài lang và nhạc sĩ Cao Văn Lầu - người đặt nền tảng đầu tiên cho bản vọng cổ ngày nay. Nhắc đến nhạc sĩ Cao Văn Lầu, mọi người thường nhớ đến Bạc Liêu, nơi ông sinh sống gần trọn cuộc đời và có nhiều hoạt động nghệ thuật nổi bật. Tuy nhiên, ít người biết rằng, nhạc sĩ được sinh ra tại huyện Châu Thành, tỉnh Long An. Những người thân trong dòng họ của ông hiện vẫn sinh sống tại Châu Thành và TP.Tân An.

Ông Cao Văn Soi [anh ruột ông Chín Giỏi - cha nhạc sĩ Cao Văn Lầu] hiện được thờ phụng tại nhà ông Cao Văn Khai ở TP.Tân An

Theo bài phát biểu của nhà nghiên cứu Võ Trường Kỳ trong Hội thảo về Cao Văn Lầu nhân 70 năm ra đời bản vọng cổ tại Bạc Liêu, “Năm 1861, đại đồn Kỳ Hòa thất thủ, quân triều đình lui về Biên Hòa, còn Trương Định và Nguyễn Trung Trực về Tân An tiếp tục kháng chiến. Cùng đi với nghĩa quân còn có đông đảo dân chúng, vì không muốn sống trong vòng kiểm soát của giặc Tây dương đã lần lượt lớp trước, lớp sau kéo nhau lui về lục tỉnh. Trong số này có một dòng họ đã dừng chân phá rừng, lập ấp, định cư ở rạch Cây Cui của thôn Thuận Lễ, tổng Thạnh Hội Hạ, huyện Tân Thạnh, phủ Tân An, tỉnh Gia Định. Cái địa danh đó ngày nay là xã Thuận Mỹ, huyện Vàm Cỏ [nay tách thành huyện Châu Thành và Tân Trụ, xã Thuận Mỹ thuộc huyện Châu Thành - PV], tỉnh Long An”. Dòng họ được nhắc đến trong phát biểu đó chính là dòng họ của cụ Cao Văn Lầu. Một trong những gia đình rời đi thời điểm đó là gia đình ông Cao Văn Giỏi [Chín Giỏi], gồm hai vợ chồng ông và 6 đứa con mà nhạc sĩ Cao Văn Lầu là người con thứ sáu. Thời điểm đó, ông chỉ mới 4 tuổi, theo cha mẹ cùng các anh, chị em xuôi về lục tỉnh và gắn bó cuộc đời, sự nghiệp với vùng đất Bạc Liêu.

Tính đến nay đã 160 năm trôi qua, từ ngày gia đình ông Cao Văn Lầu rời Long An về Bạc Liêu. Những người còn lại trong dòng họ tại Long An đã không còn biết rõ về sự việc năm xưa. Tuy nhiên, 2 dòng họ Cao tại Long An và Bạc Liêu vẫn giữ mối dây kết nối sau nhiều năm xa cách. Ông Cao Văn Khai [phường 1, TP.Tân An] kể: “Ông Cao Văn Giỏi [cha của nhạc sĩ Cao Văn Lầu] là em ruột của ông cố tôi là ông Cao Văn Soi. Gia đình nhạc sĩ Cao Văn Lầu rời đi đã lâu nên tôi không biết rõ về sự việc. Nhưng những năm gần đây, nhờ có sự kết nối của ngành văn hóa, 2 dòng họ gặp lại nhau và vẫn giữ liên lạc khi cần thiết. Tại xã Thuận Mỹ, huyện Châu Thành hiện vẫn còn phần mộ của ông Cao Văn Mới là ông sơ của tôi và là ông nội của nhạc sĩ Cao Văn Lầu”.

.jpg]

Tượng nhạc sĩ Cao Văn Lầu tại Bạc Liêu

Được biết, dòng họ Cao tại Châu Thành, Long An và tại Bạc Liêu nhận ra nhau là do người trong dòng họ tại Châu Thành nhận ra bức ảnh ông Cao Văn Lầu được treo tại cuộc thi tuyển chọn giọng ca cải lương năm 1988 là người trong dòng họ của mình. Nhờ vậy, 2 dòng họ có chút “manh mối” để tìm và nhận nhau. Ông Cao Văn Khai kể, hiện tại, gia đình ông vẫn còn lưu giữ bản gia phả dòng họ gồm 2 nhánh Long An và Bạc Liêu. Đây là bản gia phả do ông Cao Kiến Thiết [con trai ông Cao Văn Lầu] phối hợp dòng họ tại Long An ghi chép lại.

Gia đình ông Cao Văn Khai hiện là nơi thờ phụng ông Cao Văn Soi [anh ruột ông Chín Giỏi - cha của nhạc sĩ Cao Văn Lầu] và ông nội của nhạc sĩ Cao Văn Lầu là ông Cao Văn Mới. Ở xã Thuận Mỹ, huyện Châu Thành vẫn còn một số con, cháu của dòng họ đang sinh sống và chăm sóc phần mộ ông Cao Văn Mới. Các gia đình sống tại Tân An và Bạc Liêu hàng năm vẫn cố gắng sắp xếp về tảo mộ.

Cho đến thời điểm hiện tại, khi tìm hiểu về tiểu sử cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, chúng ta đã thấy ghi chép về việc ông được sinh ra tại xã Thuận Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Long An. Tuy nhiên, điều đó dường như vẫn ít người ghi nhớ bởi có vẻ khá mờ nhạt so với cuộc đời hoạt động nghệ thuật lừng lẫy của ông tại Bạc Liêu. Thiết nghĩ, người dân Long An nói chung và Châu Thành nói riêng cần được biết rõ và có quyền tự hào rằng vùng đất này là nơi chôn nhau cắt rốn của một cố nhạc sĩ tài hoa.

Cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu sinh ngày 22/12/1892, ở xóm Cây Cui, thôn Thuận Lễ, tổng Thạnh Hội Hạ, huyện Tân Thạnh, phủ Tân An [nay là xã Thuận Mỹ, huyện Châu Thành]. Năm 4 tuổi, ông theo cha mẹ đến Bạc Liêu sinh sống và mất ngày 13-8-1976. Ông từng học đờn do thầy Nhạc Khị dạy và trở thành học trò giỏi của thầy. Ông cưới vợ là bà Trần Thị Tấn - một người con gái ngoan hiền. Nhưng vì muộn con, do áp lực từ phía gia đình, ông bà phải xa nhau một thời gian. Đó là lúc nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác bản Dạ cổ hoài lang để bày tỏ nỗi lòng thương nhớ người vợ của mình, vì hoàn cảnh phải chia xa. Sau đó, ông bà đã được tương phùng và có với nhau 7 người con./.

Chủ Đề