Clip về nhạc sĩ cao văn lầu tiểu sử năm 2024

Phim "Tơ đồng vương vấn" của đạo diễn Xuân Phước tái hiện một cách chân thực cuộc đời của tác giả vở cải lương nổi tiếng "Dạ cổ hoài lang".

Sinh thời, Cao Văn Lầu được biết đến là nhạc sĩ của nhiều vở cải lương độc đáo và có tiếng. Ông sinh trưởng trong một gia đình nông dân miền Tây nghèo khó, với tuổi thơ là những tháng ngày lênh đênh trên ghe cùng gia đình đi khai hoang những vùng đất mới. Cao Văn Lầu từng phải bỏ dở việc học giữa chừng để làm việc, gánh vác gia đình ở tuổi 17.

Năm 18 tuổi, cố nhạc sĩ theo học nhạc với thầy Hai Khị. Nhờ yêu thích và siêng năng, ông mau chóng sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ như đàn tranh, cò, kìm, trống lễ và trở thành một nhạc sĩ nòng cốt trong ban cổ nhạc của thầy. Cao Văn Lầu lấy vợ năm 21 tuổi. Vì lao động cực nhọc để trả nợ tiền vay mượn cho lễ cưới, vợ ông sau ba năm vẫn chưa thể sinh nở. Cũng từ đây, vợ chồng bị chia cắt do quan niệm của lễ giáo phong kiến. Thương nhớ vợ, nhạc sĩ đi tìm bà khắp nơi, gặp nhiều trắc trở trên đường đi. Những tủi hờn và nỗi nhớ thương khôn nguôi thời gian này khiến Cao Văn Lầu viết lên bài Dạ cổ hoài lang - trở thành tác phẩm nổi tiếng in dấu tên tuổi của ông.

Clip về nhạc sĩ cao văn lầu tiểu sử năm 2024

Quán quân "Chuông vàng vọng cổ" mùa đầu tiên - Võ Minh Lâm - trong vai Cao Văn Lầu.

Cuộc đời chìm nổi và số phận éo le của ông, từ ấu thơ cho đến thời điểm sáng tác Dạ cổ hoài lang, được đạo diễn Xuân Phước tái hiện trong bộ phim truyền hình mới, dài 20 tập. Với bộ phim này, nam đạo diễn tự nhận đang làm khó bản thân khi chọn đề tài lịch sử khá kén người xem."Tôi nhận kịch bản này vì yêu thích nhân vật Cao Văn Lầu - nhân vật có nhiều đóng góp trong lịch sử hình thành và phát triển cải lương Nam Bộ", đạo diễn Xuân Phước nói.

Vai Cao Văn Lầu được giao cho Quán quân "Chuông vàng vọng cổ 2006" Võ Minh Lâm. Đây là vai chính thứ hai kể từ khi nam diễn viên bén duyên với truyền hình. Lợi thế về khả năng ca vọng cổ cùng những hiểu biết trong lĩnh vực này là lý do giúp anh nhận được vai. Nam diễn viên thừa nhận, đây là vai diễn phức tạp với anh khi phải lột tả một cách chân thực cuộc đời nhiều bất hạnh của người nhạc sĩ tài hoa.

"Vai diễn chính kéo dài trong nhiều phân đoạn, được quay dưới tiết trời nắng nóng miền Tây. Trong những phân đoạn mô tả Cao Văn Lầu bị đánh đập, tôi phải chịu những cú đánh mạnh tay của bạn diễn. Cảnh té sông, lội bùn... cũng không mấy dễ dàng", Minh Lâm kể. Tuy cực, nam diễn viên cho biết anh rất hạnh phúc khi được hóa thân vào nhân vật. Anh xem đây là cơ hội để thắp nén tâm nhang tri ân một tiền bối trong nghệ thuật cải lương, người đã để lại cho các thế hệ nghệ sĩ sau này một tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao.

Đạo diễn Xuân Phước dành lời khen ngợi cho Minh Lâm: "Lâm làm việc hết mình, rất đúng giờ, chịu khó để hoàn thành phân đoạn. Sự cố gắng của Lâm dần xóa đi nghi ngại ban đầu của tôi”.

Clip về nhạc sĩ cao văn lầu tiểu sử năm 2024

Hóa thân vào nhân vật Cao Văn Lầu, diễn viên Minh Lâm chịu nhiều cảnh đánh đập trong phim.

Đóng cặp với Minh Lâm, ngoài diễn viên Lê Bê La, còn có sự góp mặt của diễn viên gạo cội Công Ninh. Anh vào vai thầy đồn Hai Khị, một ông già mù, có ngón đàn điêu luyện và là người thầy âm nhạc đầu tiên của nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Vai diễn nhiều nội tâm được cho là phù hợp với sở trường diễn xuất cũng như ngoại hình khắc khổ của Công Ninh.

Cao Văn Lầu thường gọi Sáu Lầu, (22 tháng 12 năm 1890 - 13 tháng 8 năm 1976) là một nhạc sĩ và là tác giả bài "Dạ cổ hoài lang", một bài ca độc đáo và nổi tiếng nhất trong nghệ thuật cải lương Việt Nam.

Cuộc đời[sửa | sửa mã nguồn]

Clip về nhạc sĩ cao văn lầu tiểu sử năm 2024
Tượng Cao Văn Lầu trong Khu lưu niệm nghệ thuật Đờn ca tài tử và nhạc sĩ Cao Văn Lầu ở thành phố Bạc Liêu.

Cao Văn Lầu sinh ra tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, sau sáp nhập với làng Thuận Lễ trở thành xã Thuận Mỹ, Châu Thành, Long An.

Khi Cao Văn Lầu vừa tròn sáu tuổi (năm 1896), cha là Chín Giỏi (tên thật là Cao Văn Giỏi, 1860-1938) vì nghèo và bị áp bức nên đã cùng vợ và 6 đứa con nhỏ xuống ghe, tìm đất khác sinh sống.

Buổi đầu, ông Chín Giỏi đến tá túc trên đất của một người bà con ở Gia Hội (Bạc Liêu). Sau 9 tháng đi làm mướn cật lực mà không đủ ăn, gia đình ông lại phải dời sang xã Xà Phiên, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang, khẩn hoang làm ruộng.

Khoảng một năm sau, hơn 40 công đất, nhờ khó nhọc mới có được, bị địa chủ chiếm lấy. Nhờ người giới thiệu, gia đình ông Chín Giỏi dọn về Họng Chàng Bè (Giá Rai, Bạc Liêu) để tiếp tục khẩn hoang, nhưng rồi số đất này về sau cũng về tay người khác.

Xót cảnh trắng tay của ông Giỏi, hương sư Chơn ở làng Vĩnh Lợi tổng Thạnh Hòa, cho ông cất một căn chòi lá ở trên đất công điền gần chùa Vĩnh Phước An (nay thuộc phường 2, thành phố Bạc Liêu). Ở đó, vợ chồng ông và các con phải đi làm thuê, đi câu để chạy ăn từng bữa.

Hòa thượng Minh Bảo (? - 1912), trụ trì chùa Vĩnh Phước An, thấy gia đình ông Chín Giỏi vất vả quá mà không đủ ăn, nên đề nghị cho Cao Văn Lầu, lúc đó mới 8 tuổi, vào chùa ở để chia sẻ gánh nặng. Kể từ đó chú bé Lầu, vừa kinh kệ, vừa được nhà sư dạy chữ Nho.

Năm 1903, nhờ cha đến xin, Cao Văn Lầu được phép trở về nhà để học chữ Quốc ngữ. Nhưng chỉ học đến "lớp nhì năm thứ hai" (Cours moyen 2e année) tức lớp 4 ngày nay, thì ông Lầu phải thôi học vì nhà gặp thêm cảnh khó: anh đi ở rể, chị lấy chồng, cha già yếu... Vậy là, năm 17 tuổi, Cao Văn Lầu phải thay cha và anh chị đi làm những việc nặng nhọc để nuôi gia đình.

Lúc bấy giờ tại xóm Rạch Ông Bổn có một thầy đàn nổi tiếng tên Lê Tài Khí, tục gọi Hai Khị hay Nhạc Khị. Ông thầy này bị mù cả 2 mắt thêm có tật ở chân , nhưng ngón đàn của ông thật điêu luyện.

Năm 1908, Cao Văn Lầu nhờ cha dẫn đến thầy Hai Khị để xin học đàn mỗi đêm. Nhờ yêu thích và siêng năng, ông mau chóng sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ như đàn tranh, cò, kìm, trống lễ; và trở thành một nhạc sĩ nòng cốt trong ban cổ nhạc của thầy.

Năm 1912, ông bắt đầu đi hát với Sáu Thìn và cô Phấn với bài Tứ đại oán Bùi Kiệm thi rớt.

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Clip về nhạc sĩ cao văn lầu tiểu sử năm 2024

Năm 23 tuổi (1913), Cao Văn Lầu vâng lệnh cha mẹ đi cưới vợ, đó là cô Trần Thị Tấn (1899-1967), một cô gái nết na ở điền Tư Ô (Chung Bá Khánh).

Khoảng thời gian này, ông sáng tác được một bản ngắn mang tên Bá điểu, sau đổi lại Thu phong, gồm 8 câu nhịp 4. Sau nữa, bản nhạc này được soạn giả Trịnh Thiên Tư đặt thêm lời ca và có tên mới là Mừng khi gặp bạn.

Vợ ông đã 3 năm mà vẫn chưa có dấu hiệu thai nghén, theo tục xưa, cha mẹ buộc ông phải trả vợ về nhà cha mẹ ruột.

Không thể trái lời, ông đành trả vợ về bên ngoại nhưng hễ có dịp chơi đờn ở đám tiệc là ông ghé về thăm vợ, có bao nhiêu tiền ông đưa cho bà hết. Tiễn ông về, bà phải nhìn cho đến khi bóng ông khuất dạng mới thôi. Thời gian đó, mỗi đêm người ta lại thấy ông Sáu Lầu ngồi ôm đờn thẫn thờ và không lâu sau Dạ cổ hoài lang ra đời.

Do quá nhớ thương, thi thoảng vợ chồng ông vẫn lén lút gặp nhau. Sau, vợ ông thụ thai, 2 người lại được xum họp. Sau đó 2 ông bà sinh được 7 người con (5 trai, 2 gái).

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Clip về nhạc sĩ cao văn lầu tiểu sử năm 2024
Bàn thờ Cao Văn Lầu trong khu lưu niệm ông

Năm 1917, ông sáng tác thêm một khúc gồm 22 câu, theo một chủ đề của thầy Nhạc Khị đề xướng là "Chinh phụ vọng chinh phu" (chủ đề được rút ra từ bản Nam ai "Tô Huệ chức cẩm hồi văn") nhưng chưa kịp sửa chữa và trình thầy thì gặp nghịch cảnh đau lòng. Khoảng một năm sau, trong tâm trạng nhớ thương vợ, bản nhạc trên được đem ra soạn lại. Nghe bạn đồng môn tên Ba Chột góp ý, ông bỏ bớt 2 câu trùng lắp, bài nhạc còn chẵn 20 câu nhịp đôi. Tết Trung thu năm Mậu Ngọ (nhằm ngày 19 tháng 9 năm 1918), ông cùng các bạn đến thăm thầy, luôn tiện trình bày bản nhạc chưa có tên trên. Nghe xong, thầy Nhạc Khị hết sức khen ngợi. Đêm đó có nhà sư Nguyệt Chiếu cùng tham dự, thầy Nhạc Khị liền nhờ nhà sư đặt tên cho bản nhạc. Nhà sư nói:"... tuy nhạc và lời ca còn vài điểm bất nhất, nhưng cái chung vẫn diễn tả được tâm tư của nàng Tô Huệ . Vậy cứ theo tích này mà đặt tên cho bài là "Dạ cổ hoài lang" (Nghe tiếng trống đêm nhớ chồng). Kể từ đêm đó, bài ca này được loan truyền nhanh chóng.

Năm 1919, ông Lầu làm nhạc công trong gánh hát cải lương của Ba Xú (Bạc Liêu).

Cách mạng Tháng Tám thành công, ông tham gia Mặt trận Liên Việt ở xã Vĩnh Phước, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.

Năm 1947, ông nhận nhiệm vụ đặc biệt là cứu một số cán bộ bị thực dân Pháp bắt, và đã cứu được.

Từ 1918 đến năm 1974, ngoài bản "Dạ cổ hoài lang", mà sau này phát triển thành bản "vọng cổ", làm thay đổi một phần bộ mặt cải lương; ông Cao Văn Lầu còn sáng tác thêm 10 bản nữa, nhưng đa phần chỉ lưu hành ở Bạc Liêu.

Ông mất lúc 13 giờ ngày 13 tháng 8 năm 1976 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Một vài hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Dưới đây là một vài hình ảnh ở trong Khu lưu niệm nghệ thuật Đờn ca tài tử và nhạc sĩ Cao Văn Lầu ở thành phố Bạc Liêu:

  • Clip về nhạc sĩ cao văn lầu tiểu sử năm 2024
    Mộ Cao Văn Lầu và vợ.
  • Clip về nhạc sĩ cao văn lầu tiểu sử năm 2024
    Góc trưng bày Cuộc đời và sự nghiệp Cao Văn Lầu.
  • Clip về nhạc sĩ cao văn lầu tiểu sử năm 2024

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  • Ghi theo bia mộ (ảnh). Có nguồn như: Từ điển nhân vật lịch sử (tr. 74), [1], ghi ông sinh năm 1892.
  • Theo Trần Đức Thuận. Học giả Vương Hồng Sển nói ông có tật ở tay (sách ghi ở mục tài liệu).
  • Trong Hồi ký 50 năm mê hát, Ông Vương Hồng Sển cho biết: "Nếu phải kể công đầu, đáng làm hậu tổ cải lương, đó là ông Hai Khị ở Bạc Liêu. Nghe đâu ông sống lối năm 1915... Ông đau cổ xạ, ngón tay co rút và ngo ngoe rất khó. Thế mà ông có tài riêng, không ai bắt chước được. Ai muốn thử tài cứ đến nhà, ban đầu ông giở mùng cho xem, chỉ trống, kèn, chụp chõa trơ trơ ở trong ấy. Thế rồi khách ra ngồi salon, ông Khị chun vô mùng, một "mình ên", rồi bỗng nghe trọn bộ cổ nhạc khua động có tiết tấu nhịp nhàng y như có cả bốn năm người hòa tấu: trống xổ, kèn thổi, đờn kéo ò e, chụp chõa lùng tùng xòa... Không ai biết ông làm cách nào mà được vậy, quả là diệu thuật" (sách ghi ở mục tài liệu, tr. 46).
  • “Con trai cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu kể chuyện về bản 'Dạ cổ hoài lang'”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2022.
  • Ghi theo Bàn về thời điểm ra đời và nguồn gốc của bản Dạ cổ hoài lang của Trần Phước Thuận và Từ điển nhân vật lịch sử. Có nguồn ghi khác, xem thêm Dạ cổ hoài lang). Tô Huệ 蘇惠, tự Nhược Lan, người đất Thần Châu đời nhà Tấn (265-419). Nàng dung nhan kiều mị, tài đức song toàn, văn chương xuất chúng. Khi Tô được 20 tuổi cha mẹ đính gả cho hàn sĩ Đậu Thao, người cùng quê. Sau Đậu Thao đỗ đạt làm quan, may mắn được nhậm chức tại Thần Châu, không phải đi xa. Đang yên ấm, nhưng rồi vì công vụ cần thiết, nhà vua truyền Đậu Thao ra trấn nhậm đất Lưu Sa. Ba năm xa cách với nỗi thương nhớ triền miên, nàng lấy gấm vuông độ chừng một thước, dùng chỉ ngũ sắc thêu 10 bài tứ tuyệt do mình làm. Nàng thêu theo hình trôn ốc, từ ngoài xoáy tròn vào trung tâm bức gấm. Xong nàng tự tay dâng lên nhà vua, nhưng cả triều đình không ai đọc được. Được vua cho phép, nàng Tô Huệ đứng giữa triều cất tiếng ngâm với một giọng bi thiết bài Chức cẩm hồi văn. Nhà vua quá cảm động, vội hạ chiếu cho gọi Đậu Thao về ngay.