Chức năng, nhiệm vụ của giám đốc ngân hàng

Cùng với sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế–xã hội của đất nước. Hệ thống ngân hàng nước ta đã có những bước tiến đáng kể trong hoạt động của mình để đáp ứng những yêu cầu của nền kinh tế. Từ những yêu cầu của hệ thống ngân hàng, nước ta đã có những đổi mới căn bản về cơ cấu tổ chức cũng như công nghệ của ngân hàng. Nét nổi bật của những đổi mới đó là sự phân chia thành hai cấp của hệ thống ngân hàng, trong đó Ngân hàng Thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, còn Ngân hàng Nhà nước với vai trò quản lý toàn bộ hệ thống ngân hàng.

* Căn cứ pháp lý:

– Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010;

– Luật ngân hàng năm 2010.

1. Ngân hàng là gì?

Ngân hàng là một tổ chức tài chính và trung gian tài chính chấp nhận tiền gửi và định kênh những tiền gửi đó vào các hoạt động cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các thị trường vốn. Ngân hàng là kết nối giữa khách hàng có thâm hụt vốn và khách hàng có thặng dư vốn.

Do ảnh hưởng của chúng trong hệ thống tài chính và nền kinh tế, các ngân hàng bị quy định cao tại hầu hết các nước. Hầu hết các ngân hàng hoạt động theo một hệ thống được gọi là hoạt động ngân hàng dự trữ phân đoạn mà họ chỉ nắm giữ một dự trữ nhỏ của các khoản tiền gửi và cho vay phần còn lại để kiếm lời. Điều này nói chung là tùy thuộc vào các yêu cầu vốn tối thiểu được dựa trên một bộ tiêu chuẩn quốc tế về vốn, được gọi là Hiệp ước vốn Basel.

Hoạt động ngân hàng theo nghĩa hiện đại của nó đã phát triển từ thế kỷ 14 tại các thành phố giàu có của Ý thời Phục hưng nhưng trong nhiều cách là một sự tiếp nối của những ý tưởng và khái niệm của tín dụng và cho vay bắt nguồn từ thế giới cổ đại. Trong lịch sử hoạt động ngân hàng, một số triều đại ngân hàng đã đóng một vai trò trung tâm trong nhiều thế kỷ.

Ngân hàng tiếng Anh là Bank.

2. Chức năng của ngân hàng:

– Phát hành tiền, trong các hình thức tiền giấy và các tài khoản vãng lai cho séc hoặc thanh toán theo lệnh của khách hàng. Những yêu cầu này trên các ngân hàng có thể hoạt động như tiền bạc bởi vì chúng có thể thỏa thuận hoặc có thể chi trả theo yêu cầu, và do đó có ngang giá trị. Chúng là có thể chuyển nhượng một cách hiệu quả chỉ bởi việc giao đi, trong trường hợp của tiền giấy, hoặc bằng cách rút một tấm séc mà ngân hàng có thể nhận thanh toán hoặc trả tiền mặt.

– Hoạt động mạng lưới và giải quyết thanh toán – các ngân hàng hoạt động như các đại lý thu thập và trả tiền cho khách hàng, tham gia thanh toán bù trừ liên ngân hàng và các hệ thống giải quyết thanh toán để thu thập, trình bày, được trình bày với, và chi trả các công cụ thanh toán. Điều này cho phép các ngân hàng tiết kiệm các dự trữ được nắm giữ để giải quyết các khoản thanh toán, do các thanh toán tiền đi và về bù trừ cho nhau. Nó cũng cho phép bù trừ của các dòng thanh toán giữa các khu vực địa lý, giảm chi phí giải quyết giữa chúng.

– Trung gian tín dụng – các ngân hàng vay và cho vay back-to-back trên tài khoản của mình như những người đàn ông trung niên.

– Cải thiện chất lượng tín dụng – các ngân hàng cho vay tiền đối với các người vay thương mại và cá nhân thông thường [chất lượng tín dụng thông thường], nhưng là những người vay chất lượng cao. Cải thiện đến từ sự đa dạng hóa tài sản và vốn của ngân hàng mà cung cấp một bộ đệm để hấp thụ thua lỗ mà không vỡ nợ về các nghĩa vụ của nó. Tuy nhiên, tiền giấy và tiền gửi nói chung không có bảo đảm; nếu các ngân hàng gặp khó khăn và cam kết các tài sản là bảo đảm, nâng cao kinh phí nó cần thiết để tiếp tục hoạt động, điều này đặt người nắm giữ tiền và người gửi tiền ở một vị trí trực thuộc kinh tế.

– Không phù hợp trách nhiệm tài sản/Chuyển đổi đáo hạn – các ngân hàng vay nhiều hơn trên nợ nhu cầu và nợ ngắn hạn, nhưng cung cấp các khoản vay dài hạn hơn. Nói cách khác, họ vay ngắn và cho vay dài. Với chất lượng tín dụng mạnh hơn hầu hết người đi vay khác, các ngân hàng có thể làm điều này bằng cách tập hợp các phát hành [ví dụ như nhận tiền gửi và phát hành tiền giấy] và các chuộc lại [ví dụ như các rút tiền và chuộc lại tiền giấy], duy trì dự trữ tiền mặt, đầu tư vào các chứng khoán có thể trao đổi trên thị trường mà có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt nếu cần thiết, và nâng cao kinh phí thay thế khi cần thiết từ nhiều nguồn khác nhau [ví dụ như thị trường tiền mặt bán buôn và thị trường chứng khoán].

– Sáng tạo tiền – bất cứ khi nào một ngân hàng cho ra một khoản vay trong một hệ thống hoạt động ngân hàng dự trữ phân đoạn, một tổng số tiền ảo mới được tạo ra

3. Nhiệm vụ của ngân hàng:

– Huy động vốn:

+ Khai thác và nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và tổ chức tín dụng khác trong nước và nước ngoài dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ.

+ Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của Ngân hàng Nông nghiệp.

+Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn ủy thác của Chính phủ, chính quyền địa phương và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của Ngân hàng Nông nghiệp.

+ Vay vốn các tổ chức tài chính, tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và tổ chức tín dụng nước ngoài khi được Tổng giám đốc cho phép bằng văn bản.

+ Các hình thức huy động vốn khác theo quy định.

+ Việc huy động vốn có thể bằng vàng và các công cụ khác theo quy định.

– Cho vay: Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn và các loại cho vay khác theo quy định.

– Kinh doanh ngoại hối: Huy động vốn và cho vay, mua, bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế, bảo lãnh, tái bảo lãnh, chiết khấu, tái chiết khấu bộ chứng từ và các dịch vụ khác về ngoại hối theo chính sách quản lý ngoại hối của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước.

– Cung ứng các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ gồm: Cung ứng các phương tiện thanh toán; Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng; Thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ; Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng; Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

– Kinh doanh các dịch vụ ngân hàng khác: Kinh doanh các dịch vụ ngân hàng bao gồm: Thu, phát tiền mặt; mua bán vàng bạc, tiền tệ; máy rút tiền tự động, dịch vụ thẻ; két sắt, nhận bảo quản, cất giữ, chiết khấu thương phiếu và các loại giấy tờ có giá khác, thẻ thanh toán; nhận uỷ thác cho vay của các tổ chức tài chính, tín dụng, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; đại lý cho thuê tài chính, chứng khoán, bảo hiểm… và các dịch vụ ngân hàng khác được Nhà nước cho phép.

– Cầm cố, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo quy định.

– Thực hiện dịch vụ cầm đồ theo quy định của pháp luật và của.

-Thực hiện đồng tài trợ, đầu mối đồng tài trợ cấp tín dụng theo quy định và thực hiện các nghiệp vụ tài trợ thương mại khác theo quy định.

– Bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản thanh, bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh đối ứng và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác cho các tổ chức, cá nhân trong nước theo quy định.

– Kinh doanh vàng bạc theo quy định.

-Tư vấn tài chính, tín dụng cho khách hàng.

– Tư vấn khách hàng xây dựng dự án.

– Cân đối, điều hoà vốn kinh doanh đối với các chi nhánh loại 3 phụ thuộc [nếu có].

– Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định .

– Thực hiện kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ việc chấp hành thể lệ, chế độ nghiệp vụ trong phạm vi quản lý theo quy định .

– Tổ chức phổ biến, hướng dẫn và triển khai thực hiện các cơ chế, quy chế nghiệp vụ và văn bản pháp luật của Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước  liên quan đến hoạt động của các chi nhánh.

– Nghiên cứu, phân tích kinh tế liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng và đề ra kế hoạch kinh doanh phù hợp với kế hoạch kinh doanh và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội địa phương.

– Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, quảng cáo, tiếp thị lưu trữ các hình ảnh làm tư liệu phục vụ cho việc trực tiếp kinh doanh của chi nhánh cũng như việc quảng bá thương hiệu.

– Quản lý nhà khách, nhà nghỉ và cơ sở đào tạo trên địa bàn..

– Thực hiện công tác tổ chức, cán bộ, đào tạo, lao động, tiền lương, thi đua, khen thưởng theo phân cấp, uỷ quyền.

– Chấp hành đầy đủ các báo cáo, thống kê theo chế độ quy định và theo yêu cầu đột xuất của Tổng giám đốc.

– Thực hiện các nhiệm vụ khác do Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc giao.

4. Các loại hình ngân hàng:

Hoạt động của các ngân hàng có thể được chia thành hoạt động ngân hàng bán lẻ, làm việc trực tiếp với các cá nhân và doanh nghiệp nhỏ; hoạt động ngân hàng doanh nghiệp, cung cấp dịch vụ cho các kinh doanh thị trường giữa; hoạt động ngân hàng công ty, hướng vào các doanh nghiệp lớn; hoạt động ngân hàng tư nhân, cung cấp dịch vụ quản lý của cải cho các cá nhân và các cá nhân giá trị ròng cao; và hoạt động ngân hàng đầu tư, liên quan đến các hoạt động trên các thị trường tài chính. Hầu hết các ngân hàng là các xí nghiệp tư nhân tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, một số ngằn hàng thuộc sở hữu của chính phủ, hoặc là các tổ chức phi lợi nhuận.

4.1. Các loại ngân hàng bán lẻ:

– Ngân hàng thương mại: thuật ngữ được sử dụng cho một ngân hàng bình thường để phân biệt với một ngân hàng đầu tư. Sau Đại khủng hoảng, Quốc hội Mỹ yêu cầu các ngân hàng thương mại chỉ được tham gia trong các hoạt động ngân hàng, trong khi các ngân hàng đầu tư bị giới hạn trong các hoạt động tại thị trường vốn. Vì hai loại ngân hàng này theo các hình thức sở hữu riêng biệt, một số người sử dụng thuật ngữ “ngân hàng thương mại” để chỉ một ngân hàng hoặc một bộ phận của ngân hàng mà chủ yếu là giao dịch với tiền gửi và khoản vay từ các đại công ty và doanh nghiệp lớn.

– Ngân hàng cộng đồng: Các ngân hàng hoạt động tại địa phương trao quyền cho nhân viên đưa ra các quyết định cục bộ để phục vụ các khách hàng và đối tác.

– Ngân hàng phát triển cộng đồng: các ngân hàng được quy định cung cấp các dịch vụ tài chính và tín dụng cho các thị trường hoặc cộng đồng dân cư ít được phục vụ.

– Liên minh tín dụng: các hợp tác xã tín dụng phi lợi nhuận được sở hữu bởi những người gửi tiền và thường cung cấp lãi suất dễ chịu hơn các ngân hàng vị lợi nhuận. Thông thường, quan hệ thành viên bị giới hạn trong phạm vi nhân viên của một công ty cụ thể, cư dân của một khu phố xác định, thành viên của một công đoàn lao động hoặc tổ chức tôn giáo nhất định, và gia đình của họ.

– Ngân hàng tiết kiệm Bưu chính: các ngân hàng tiết kiệm liên quan đến hệ thống bưu chính quốc gia.

– Hoạt động ngân hàng tư nhân: các ngân hàng quản lý tài sản của các cá nhân giá trị ròng cao. Theo lịch sử, yêu cầu tối thiểu là có 1 triệu USD để được mở một tài khoản. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều ngân hàng tư nhân đã giảm rào cản gia nhập xuống còn 250.000 USD cho các khách hàng.

– Ngân hàng hải ngoại: các ngân hàng nằm tại các nước có mức đánh thuế và rào cản quy định thấp. Nhiều ngân hàng hải ngoại về cơ bản là các ngân hàng tư nhân.

– Ngân hàng tiết kiệm: ở châu Âu, các ngân hàng tiết kiệm có lịch sử của chúng từ thế kỷ 19 hoặc đôi khi ngay từ thế kỷ 18. Mục tiêu ban đầu của chúng là cung cấp các sản phẩm tiết kiệm dễ dàng tiếp cận đến tất cả các tầng lớp dân cư. Ở một số nước, các ngân hàng tiết kiệm được tạo ra theo sáng kiến ​​công chúng; tại những nước khác, các cá nhân cam kết xã hội tạo ra các quỹ từ thiện để đưa ra cơ sở hạ tầng cần thiết.

Ngày nay, các ngân hàng tiết kiệm châu Âu tiếp tục tập trung vào hoạt động của ngân hàng bán lẻ: thanh toán, các sản phẩm tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm cho các cá nhân hoặc các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngoài việc tập trung bán lẻ này, chúng cũng khác với các ngân hàng thương mại bởi mạng lưới phân phối được phi tập trung hóa cao, cung cấp các tiếp cận cục bộ, khu vực và theo phương pháp tiếp cận trách nhiệm xã hội đối với kinh doanh và xã hội.

– Ngân hàng Hiệp hội xây dựng và Ngân hàng đất đai: các ngân hàng tiến hành các hoạt động ngân hàng bán lẻ liên quan bất động sản.

– Ngân hàng đạo đức: các ngân hàng ưu tiên tính minh bạch cho tất cả các hoạt động và chỉ làm những gì mà chúng cho là các đầu tư có trách nhiệm xã hội.

– Ngân hàng trực tiếp hoặc ngân hàng chỉ trên Internet là ngân hàng không cần bất kỳ chi nhánh ngân hàng vật lý nào, các giao dịch của chúng được hình thành và thực hiện hoàn toàn với các máy tính nối mạng.

4.2. Các loại ngân hàng đầu tư:

– Ngân hàng đầu tư: các ngân hàng “bảo lãnh” [đảm bảo cho việc bán] phát hành cổ phiếu và trái phiếu, trao đổi cho các tài khoản riêng của chúng, tạo dựng thị trường, cung cấp quản lý đầu tư và tư vấn cho các công ty trên các hoạt động thị trường vốn như sáp nhập và mua lại.

– Ngân hàng bán buôn: theo truyền thống là các ngân hàng tham gia vào tài trợ trao đổi. Tuy nhiên, theo định nghĩa hiện đại, lại đề cập đến các ngân hàng cung cấp vốn cho các doanh nghiệp theo hình thức cổ phần chứ không phải là các khoản vay. Không giống như các hãng vốn mạo hiểm, chúng có xu hướng không đầu tư vào các công ty mới.

4.3. Kết hợp hai loại ngân hàng trên:

Ngân hàng vạn năng, thường được gọi là các công ty dịch vụ tài chính, tham gia vào một số hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng lớn này là các nhóm rất đa dạng, trong số các dịch vụ khác, cũng phân phối bảo hiểm do đó thuật ngữ ngân hàng bảo hiểm, một từ ghép kết hợp “ngân hàng” và “bảo hiểm”, có nghĩa rằng cả hai dịch vụ ngân hàng và bảo hiểm được cung cấp bởi cùng một tổ chức doanh nghiệp như vậy.

4.4. Các loại ngân hàng khác:

– Ngân hàng trung ương thường do chính phủ sở hữu và chịu trách nhiệm, chẳng hạn như giám sát các ngân hàng thương mại hoặc kiểm soát lãi suất tiền mặt. Chúng thường cung cấp thanh khoản cho hệ thống ngân hàng và hoạt động như người cho vay cuối cùng trong trường hợp xảy ra khủng hoảng.

– Ngân hàng Hồi giáo tuân thủ các khái niệm của luật Hồi giáo. Đây là hình thức ngân hàng xoay quanh một số nguyên tắc cũng như được thành lập dựa trên giáo luật Hồi giáo. Tất cả các hành vi hoạt động ngân hàng phải tránh tiền lãi, một khái niệm bị cấm trong đạo Hồi. Thay vào đó, các ngân hàng kiếm được lợi nhuận [mark-up] và các khoản phí cho các tạo điều kiện tài chính mà nó mở rộng cho khách hàng.

Video liên quan

Chủ Đề