Cảm nhận vẻ đẹp phẩm hạnh của nhân vật Thị

Tham khảo Top 5 Dàn ý cảm nhận về nhân vật Thị trong Vợ nhặt, tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn cảm nhận ngắn gọn, hay nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về vấn đề cần nghị luận, cùng tham khảo nhé!

Dàn ý cảm nhận về nhân vật Thị trong Vợ nhặt - Mẫu số 1

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả: là cây bút chuyên viết Truyện ngắn, ông am hiểu sâu sắc đời sống của người nông dân và thường tập trung viết về họ.

- Giới thiệu về tác phẩm Vợ nhặt là một trong số những truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân của ông. Nhân vật đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm này chính là người vợ nhặt.

2. Thân bài

* Nói về lai lịch của Thị

- Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.

- Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.

* Nói về chân dung của Thị

- Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.

* Tình huống khi Thị gặp Tràng

- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.

- Lần thứ hai:

    + Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.

    + Khi nghe ràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ ... cùng về”, thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.

- Nhận xét: cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.

* Phẩm chất

- Có khát vọng sống mãnh liệt:

    + Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.

    + Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.

- Thị là người ý tứ và nết na:

    + Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.

    + Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong giá đình.

    + Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.

    + Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.

    + Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.

- Nhận xét: cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.

- Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.

- Nêu cả nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.

3. Kết bài

- Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, xây dựng hình tượng nhân vật thành công, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, ...

- Tác phẩm chứa đựng giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc: người đọc hiểu và cảm thông với cảnh ngộ thương tâm, rẻ rúng của người lao động trong nạn đói, tố cáo thực dân, phát xít, ngợi ca khát vọng sống trong cảnh cơ cực.

Dàn ý cảm nhận về nhân vật Thị trong Vợ nhặt - Mẫu số 2

1. Mở bài:

- Giới thiệu về tác phẩm và dẫn dắt các nhân vật trong truyện

2. Thân bài

– Lai lịch – xuất thân của Thị: 5 không: không tên [thị, ả, người đàn bà], không nhà, không gia đình, không quê hương, không của cải [nghèo đói]: ngồi vêu ở nhà kho nhặt hạt rơi, hạt vãi hay ai có việc gì thì gọi đến làm.

– Ngoại hình: Gầy yếu, xanh xao “trên khuôn lưỡi cày mặt xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, quần áo thì “rách tả tơi như tổ đĩa”

– Phẩm chất, tính cách: hai mặt đối lập.

+ Trơ trẽn, thiếu lòng tự trọng: Trong lần đầu tiên gặp Tràng, nghe câu hò vu vơ của Tràng “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì” thị cong cớn, vùng dậy, chạy theo Tràng. Lần thứ hai gặp Tràng, thị sưng sỉa. Được Tràng gợi ý cho ăn, thị không hề ý tứ, ngượng ngùng mà “đôi mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi ngồi xà xuống ăn thật”.

+ Khao khát hạnh phúc – mái ấm gia đình: Trên đường về nhà, trước sự trêu ghẹo của mọi người, thị e thẹn, rón rén. Khi về tới nhà, thị ngại ngùng ngồi vào mép giường, tay vân vê tờ áo đã rách bợt và chào hỏi mẹ Tràng lễ phép. Sáng hôm sau, thị cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa và trong mắt Tràng: nom thị chẳng còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy hôm Tràng gặp ngoài tỉnh mà rõ là một người đàn bà hiền lành đúng mực. Thị biết cảm thông chia sẻ cùng gia đình: trong bữa ăn ngày đói [ăn chè khoáng] và khi nghe tiếng trống thúc thuế.

– Đánh giá chung: Thị là nạn nhân của nạn đói, vì nạn đói đánh mất hết ý thức, nhân phẩm của một người phụ nữ. Nhưng khi được sống trong sự che chở của gia đình, những phẩm chất tiêu biểu của một người phụ nữ Việt được bộc lộ qua nhân vật này: đảm đang, cảm thông, chia sẻ,…

3. Kết bài

Nhà văn Kim Lân khi khắc họa nhân vật, chủ yếu miêu tả nhân vật không chú trọng khai thác tâm lý nhân vật mà khai thác nhân vật qua những cử chỉ, hành động. Nói một cách khác, qua cử chỉ, hành động tính cách, phẩm chất của nhân vật được bộc lộ.

Dàn ý cảm nhận về nhân vật Thị trong Vợ nhặt - Mẫu số 3

1. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Kim Lân

– Giới thiệu tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác, chủ đề của tác phẩm “Vợ nhặt”

– Giới thiệu nhân vật người vợ nhặt, nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt

2. Thân bài

a] phân tích thân phận và cảnh ngộ của người Vợ nhặt

– Vợ nhặt được giới thiệu là một người không tên tuổi, không quê quán họ hàng, xuất hiện giữa chợ tỉnh.Quần áo rách như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.

– Là người phụ nữ không họ tên, Thị là hình ảnh tiêu biểu cho những người dân đói khổ khi đó.

– Không có việc làm cụ thể, cuộc sống bấp bênh, cái đói đã hành hạ và đẩy chị đến bờ vực của cái chết. Chỉ vài ba câu nói bâng quơ của Tràng mà Thị theo Tràng về làm vợ. Cái đói đã biến Thị trở thành kẻ trơ tráo liều lĩnh cùng đường.

b] Phân tích tâm trạng của người vợ nhặt

* Trên con đường trở về nhà với chồng

– Chị về nhà chồng trong tình cảnh thật thảm hại, theo không Tràng vì Tràng cho ăn đó là hành động thật liều lĩnh. Cái đói quay quắt đã dồn đẩy chị, làm cho chị đánh mất cả sĩ diện và lòng tự trọng.

– Trên con đường trở về nhà chồng, người phụ nữ này không tự tin vì thân phận của mình, đồng thời có cả sự tủi phận, ngại ngùng, lo âu. Thị cảm thấy khó chịu trước lời chêu chọc của những người dân xóm ngụ cư: “người đàn bà có vẻ khó chịu lắm, chị nhíu đôi lông mày lại, sắp lại tà áo, chân nọ bước díu vào chân kia”, tâm trạng ấy thể hiện người con gái này suy tư về con đường ở trước mắt, đồng thời không dấu được niềm khao khát hạnh phúc.

– Thị thay đổi hẳn, vẻ đanh đá, cong cớn đã biến mất  [đó chỉ là vẻ bề ngoài để chống chọi với đời] con người thật của Thị hoàn toàn khác.

* Về đến nhà

– Thị mang một tâm trạng ngại ngùng của một nàng dâu mới, buồn thủi cho gia cảnh nhà chồng “Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà, cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn xung quanh cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài…”

– Thị buồn và thất vọng, lo lắng khi thấy gia cảnh nghèo khó của Tràng, vì khi theo Tràng chị muốn trốn chạy cái đói nhưng cái đói không chừa một ai.

* Sáng hôm sau

– Chỉ qua một đêm về làm dâu, ở người con gái này đã có sự thay đổi rất nhanh, Thị đã trở thành người đàn bà nhanh nhẹn, tự tin, Thị chủ động dọn dẹp quét tước nhà cử. Hơn thế nữa, sự có mặt của người đàn bà trong ngôi nhà này chính là mối gắn kết tình cảm trong gia đình. Với khả năng của mình, Thị đã đem lại hạnh phúc cho gia đình này. Ở Thị còn có thái độ lễ phép với mẹ chồng.

– Thị nhanh chóng hòa nhập vào không khí gia đình. Thị cảm nhận được tình thương của mẹ chồng, dù nghèo nhưng hiểu và thương Thị

– Trong bữa ăn ngày đói, khi nhận bát cháo cám “hai con mắt Thị tối lại” “Thị điềm nhiên và vào miệng” vì không nỡ làm mất đi niềm vui tội nghiệp của người mẹ già khốn khổ.

– Thị là người đã dấy lên niềm tin mới về cách mạng, tạo niềm tin hi vọng cho chồng khi kể chuyện ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không còn đóng thuế nữa và Việt Minh đi phá kho thóc Nhật chia cho người đói.

* Thị là nhân vật đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm

c] Giá trị nghệ thuật

– Xây dựng tình huống truyện độc đáo

– Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc

– Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, thể hiện tâm lí nhân vật

– Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức gợi

3. Kết bài

– Bằng bút pháp tả thực cùng cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, tái hiện diễn biến tâm lí nhân vật một cách cụ thể. Kim Lân đã cho người đọc thấy được hình ảnh của người nông dân nghèo nhưng luôn giàu tình yêu thương. Bóng dáng Thị hiện ra tuy không lộng lẫy, không hào nhoáng nhưng gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Nhân vật ThỊ đã mang đến một làn gió mới cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ.

Cảm nhận về nhân vật Thị trong Vợ nhặt - Bài mẫu 1

     Lấy bối cảnh từ những hoàn cảnh có thật về cuộc sống của người dân Việt Nam trước nạn đói năm 1945, tác giả Kim Lân đã dựng lại một câu chuyện ấn tượng và thành công với miêu tả chân thực về cuộc sống, tình cảm đặc biệt là diễn biến tâm lí nhân vật. Trong bối cảnh ra đời, tác phẩm làm toát lên tấm lòng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh phúc của những người người khổ. Vẻ đẹp ấy được tác giả xây dựng thành công ở hình tượng nhân vật người “vợ nhặt” trong tác phẩm Vợ Nhặt.

     Trong cảnh đói nghèo người chết như ngả rạ, người ta chỉ nghĩ tới cái sống của bản thân mình còn lo lắng chứ chưa nói tới lo cho những người xung quanh. Trong tác phẩm, Tràng xấu, xấu là xấu trai, nhưng được cái tốt bụng và dễ gần. Xóm làng nghĩ Tràng không thể có vợ, vì với cái thời đói đến ăn cám hay ánh sáng vào đêm là thứ xa xỉ vậy người vừa nghèo vừa xấu thì ai dám gởi thân ?

     Xóm tản cư nheo nhóc và hoang tàn. Đông thì có đông nhưng xóm làng như vẻ không người, chỉ là những cái bóng nhếch nhác lê gót trên những con đường quanh co. Xác chết nhiều hơn thực thể di động. Bóng đen gần như chiếm lĩnh cả, mặt trời vẫn sáng đó, nhưng đôi mắt của dân chúng ở đây cứ tối sầm sầm lại.

     Cái tin Tràng có vợ khiến cho khắp xóm làng ấy bao trùm lên một vẻ khác. Ấy vậy mà Tràng có vợ thường thay cho cái im ỉm thụ động, chắc không ai dạy nhưng chúng biết bớt vận động là bớt bầu bạn với đói. Nhưng Tràng lấy vợ ! Bản năng làm chúng tò mò. Chúng nhốn nháo cả một đoạn. Rồi còn trêu Tràng với câu “chông vợ hài”. Đường dài quanh co, sự dài ấy như trêu chọc cái e thẹn ban đầu của đôi uyên ương. Nghĩ chữ uyên ương cũng không hợp trong hoàn cảnh này, khi người ta hay dùng chữ mĩ miều đó cho những đám cưới linh đình. Đường về nhà chồng với xác chết cạnh đường đủ gần để nhìn thấy sự phân hủy hoặc cứ văng vẳng bên tai tiếng khóc tang gia; thiết nghĩ ngày cưới cũng đáng nhớ thật.

     Tình yêu luôn là trò phiêu lưu. Vì rằng chúng ta không biết sẽ gặp ai, hoặc chi chúng ta không biết sẽ đi về đâu. Như vết thương ở miệng, mỗi ngày một bào mòn đến cùng kiệt sức khỏe. Người vợ nhặt của Tràng trước hết là người có cùng cảnh ngộ người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh: không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp… Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị” - một cách gọi phiếm định dành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như chị. Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn: đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa. Hình ảnh này phần nào cũng phác họa con người và cuộc đời của thị.

     Về tính cách của người vợ nhặt thì có chút thay đổi. Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh: Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon… Tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người.

Nhưng khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang. Nó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng. Sau một ngày làm vợ, thị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình - hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo.

     Hình ảnh của thị trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai. Những nét tính cách của thị đã làm nổi bật lên những vẻ đẹp của người phụ nữ thời xưa, trong hoàn cảnh khó khăn vẫn luôn chịu thương chịu khó.

     Trong tác phẩm này, mặc dù người vợ nhặt chỉ là một nhân vật bên cạnh Tràng nhưng cái người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng. Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát.

Cảm nhận về nhân vật Thị trong Vợ nhặt - Bài mẫu 2

     “Vợ nhặt” - một nhan đề khiến người đọc không khỏi tò mò và cuốn hút. “Vợ nhặt” - một việc làm có lẽ sẽ hạ thấp phẩm giá của người phụ nữ vì chỉ có đồ vật bị rơi người ta mới nhặt lên. Thế nhưng, ở đây, nhà văn Kim Lân đã dùng sự xót thương và lòng đồng cảm của mình để dựng lên một người “vợ nhặt” rất đức hạnh, đảm đang qua tác phẩm cùng tên của ông. Ông cũng là một trong những người được sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo khó, nên hơn ai hết, ông cũng hiểu nỗi khổ cực khi miếng ăn không đủ no, quần áo không đủ ấm. Vì vậy, nhà văn đã mượn nhân vật của mình để gửi gắm bao tâm tư, tình cảm vào đó.

     “Vợ nhặt” là một câu truyện khá hài hước nhưng cũng đầy thê lương về tình cảnh thảm hại của nạn đói năm 1945. Chính cuộc sống cùng cực, bi thương đã làm nên người vợ nhặt. Và ngay chính người chồng trong hoàn cảnh này cũng có thể được gọi là “chồng nhặt”. Họ nhặt được nhau một cách rất tình vờ, rất ngẫu nhiên giữa những ngày đói khủng khiếp. Cả xóm làng chìm trong nạn đói. Người chết có lẽ còn nhiều hơn cả người sống. Mà đôi khi người sống tưởng như đã chết. Họ nằm thoi thóp, còng queo khắp lều chợ.

     Khi đối mặt với mẹ Tràng – mẹ chồng của thị, con người thị thể hiện rõ sự ngoan hiền, lương thiện. Thị cất tiếng chào “U đã về ạ”. Chưa nghe thấy bà trả lời, thị nghĩ bà lão già cả, điếc lác nên thị cất tiếng chào lần nữa. Hóa ra, thị đâu có cong cớn như cái vẻ lúc ở ngoài chợ trước mặt Tràng. Thị rất lễ phép, biết điều. Trong ngày đầu tiên ở nhà Tràng cũng vậy. Thị dậy sớm làm mọi việc: quét dọn nhà cửa sân vườn, thu dọn quần áo sạch sẽ, gọn gàng. Mẹ Tràng cũng cùng thị làm vườn. Những công việc đơn giản nhưng lại mang ý nghĩa sâu sắc khiến Tràng thấy mới lạ và thêm yêu cuộc sống này. Chính bản thân Tràng cũng tự ý thức bản thân mình cũng nên góp sức vào việc thay đổi căn nhà để cuộc sống khấm khá hơn, nề nếp hơn. Còn thị, với những công việc tuy đơn giản những đã thể hiện phẩm chất tốt đẹp, chịu thương chịu khó của một người vợ trung hậu, đảm đang. Thị chính là hình mẫu rất đẹp về người phụ nữ truyền thống của dân tộc Việt Nam.

     Không những thế, thị còn là một người có tấm lòng thấu hiểu và cảm thông sâu sắc. Trong bữa cơm đầu tiên, dù chỉ có rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo nhưng thị vẫn cùng cả nhà ăn rất ngon lành. Ngay cả khi ăn cháo cám cũng vậy, vị đắng xít nhưng thị vẫn điềm nhiên và vào miệng.

     Khi xây dựng nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân đã rất thành công và khiến người đọc bị cuốn hút vào câu truyện. Đồng thời qua đó, nhà văn cũng thể hiện một cách rất chân thực về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ở đó, vì quá đói nên đến cái quyền cơ bản nhất và vốn có của con người là quyền mưu cầu hạnh phúc cũng không có, khiến họ phải “nhặt” nhau về. Không mai mối, không sính lễ, không cau trầu, thị đã theo không về nhà Tràng. Có lẽ lúc đó, người ta cũng chỉ nghĩ đến miếng ăn nên chẳng bận tâm để ý về việc thị làm vợ Tràng như thế nào. Họ chỉ thấy lạ một điều rằng, giữa lúc đói khổ như thế này mà còn đèo bòng nhau. Còn thị, thị cũng bước qua rào cản phong tục và cái lý lẽ thường tình rằng làm người con gái phải đoan trang, có giá trị… Mà thị cũng đâu có phải là không đoan trang. Rõ ràng Tràng có lời mời thị về làm vợ, chứ không phải thị tự dưng chạy theo Tràng. Chỉ là sự việc diễn ra quá bất ngờ và chóng vánh khiến cho ai cũng ngỡ ngàng. Thế nhưng, một khi đã làm vợ, thị đã rất chu đáo trong bổn phận làm vợ của mình. Hơn nữa, thị cũng không hề ca thán nửa lời với cảnh ngộ đói kém của nhà chồng. Mà có ca thán cũng đâu có nghĩa lý gì khi tất cả mọi người lúc đó đều cùng chung một hoàn cảnh.

     Và rồi, chính thị là người đã đưa ra cảnh tượng nhân dân đua nhau phá kho thóc của Nhật, chia cho dân nghèo. Đây chính là hình ảnh đắt giá làm nên giá trị sâu sắc cho tác phẩm. Cảnh tượng ấy là niềm cổ vũ cho nhân dân, cho những con người cùng khổ vùng dậy đấu tranh giải cứu chính mình. Để từ nay về sau, những mảnh đời như thị không còn phải khổ nữa, cũng không có hiện tượng phải làm “vợ nhặt” nữa.

     Qua câu chuyện của cuộc đời người vợ nhặt đầy lam lũ, khổ cực nhưng vẫn đầy lòng nhân ái khiến người đọc liên tưởng đến những người vợ trong thời hiện đại. Họ sống sung sướng, đầy đủ nhưng không phải ai cũng có được phẩm chất đạo đức tốt đẹp như thị. Lại một lần nữa, thị chính là tấm gương sáng về người vợ tốt cho mọi người noi theo.

     Thị tuy chỉ là một người vợ được Tràng “nhặt” về nhưng chính thị đã mang lại nguồn sống mới, niềm hi vọng mới cho Tràng và cả mẹ Tràng, chính thị đã làm tăng sức hấp dẫn và giá trị cho tác phẩm. Tất cả các nhân vật trong đó đều chịu chung một số phận nghèo đói, thê lương, cùng chung một ách thống trị và tất nhiên cũng cùng chung một niềm nung nấu là sẽ đứng lên đấu tranh, phá kho thóc của bọn Nhật, để cứu chính mình và chia cho dân nghèo.

---/---

Thông qua dàn ý và một số bài văn mẫu Cảm nhận về nhân vật Thị trong Vợ nhặt tiêu biểu được Top lời giải tuyển chọn từ những bài viết xuất sắc của các bạn học sinh. Mong rằng các em sẽ có khoảng thời gian vui vẻ và hữu ích khi học môn Văn!

Video liên quan

Chủ Đề