Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản và nêu ý nghĩa

Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản

Quảng cáo

Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản

Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã sử dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau.

Tất cả các phong trào yêu nước vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, mặc dù đã diễn ra vô cùng anh dũng, với tinh thần "người trước ngã, người sau đứng dậy", nhưng rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong hiển máu. Đất nước lâm vào "tình hình đen tối tưởng như không có đường ra". Đó là tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm một con đường cứu nước mới.

Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân dân phải chịu cảnh lầm than. Hồ Chí Minh được chứng kiến các phong trào cứu nước của ông cha. Người nhận thấy con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau" : con đường của Phan Châu Trinh cững chẳng khác gì "xin giặc rủ lòng thương" ; con đường cùa Hoàn Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến.

Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Hồ Chí Minh không tán thành các con đường của họ mà quyết tâm ra đi tìm một con đường mới

Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dưong, đến với nhân loại cần lao đang tranh đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới. Nguyễn Ái Quốc đã kết hợp tìm hiểu lý luận và khảo sát thực tiễn, nhất là ở ba nước tư bản phát triển : Anh. Pháp, Mỹ.

Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc cách mạng tư sản Mỹ ; đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp, tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp. Người nhận thấy : "Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa" Bởi lẽ đó, Người không đi theo con đường cách mạng tư sản.

Hồ Chí Minh thấy được Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc cách mạng vô sản, mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và "mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc"[1].

Người "hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba" bởi vì V.I.Lênin và Quốc tế thứ ba đã "bênh vực cho các dân tộc bị áp bức". Người thấy trong lý luận của V.I.Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc : con đường cách mạng vô sản.

Trong bài Cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh viết : "Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới"[2].

Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"... chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ"[3].

Bài tiếp theo Download

Xem online

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Phân tích luận điểm Cách Mạng Hồ Chí Minh phải theo con đường CM vô sản nếu muốn thắng lợi? 1. Phân tích những luận điểm cơ bản về cách mạng giảI phóng dân tộc của TTHCM 1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. - Thất bại của các phong trào yêu nước ở nước ta cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là do chưa có đường lối và phương pháp đúng đắn. Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần yêu nước của những người đi trước, nhưng Người không tán thành con đường cứu nước của các vị ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mớị Ra nước ngoài tìm hiểu các cuộc cách mạng tư sản lớn trên thế giới như: cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, tuy đã giành thắng lợi hơn 150 năm nay mà nhân dân lao động vẫn khổ và họ đang muốn làm cách mạng lần nữạ Nhận thức được rằng, cách mạng tư sản chỉ thay thế chế độ bóc lột này bằng chế chế độ bóc lột khác tinh vi hơn chứ không xóa bỏ được áp bức bóc lột, vì thế Người cho rằng đó là những cuộc cách mạng không đến nơi, không triệt để. Do đó, cứu nước theo ngọn cờ của giai cấp tư sản không phải là lối thoát cho dân tộc. - Từ khi đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin [7-1920], Hồ Chí Minh đã tìm thấy một con đường cứu nước mới: Con đường cách mạng vô sản. Người đã khẳng định: "Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, con đường cách mạng vô sản". 2. Các mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạọ - Nguyễn ái Quốc đã khẳng định : "Đảng có vững cách mệnh mới thành công,cũng như người cầm có lái có vững thì thuyền mới chạy... Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin". - Thực tế đã chứng minh : Từ khi ra đời đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. 3. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc - Cách mạng giải phóng dân tộc như Nguyễn ái Quốc xác định đó là "việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc một hai người", vì vậy phải đoàn kết toàn dân. - Bên cạnh đó Người cũng nhấn mạnh sự đoàn kết toàn dân phải dựa trên đoàn kết là liên minh công-nông. Bởi theo người : "Công nông là người chủ cách mệnh ... Công nông là gốc cách mệnh". - Trên cơ sở đó, Người đã chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân trong một mặt trận dân tộc thống nhất nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự dọ 4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trứơc cách mạng vô sản ở chính quốc. - Quan điểm của Quốc tế Cộng sản cho rằng: " Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tiên tiến". - Vận dụng đường lối của Quốc tế Cộng sản vào điều kiện các nước thuộc địa, Nguyễn ái Quốc đã kết luận : "sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân". - Do đánh giá đúng sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, Nguyễn ái Quốc đã dự báo : Cách mạng thuộc địa không cần thụ động chờ đợi mà có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc, đồng thời tác động trở lại cách mạng chính quốc. - Đây là một luận điểm sáng tạo và có giá trị lí luận và thực tiễn to lớn, một cống hiến quan trọng vào kho tàng lí luận của CN Mác -Lênin. Luận điểm này đã được lịch sử cách mạng Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. 5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực - Đánh giá đúng bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh đã xác định: " Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền". - Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: " tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng". - Tuy nhiên, việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc khi không còn khả năng hòa hoãn thì Hồ Chí Minh mới quyết định phát động chiến tranh. Trong kháng chiến chống Pháp, Người đã bày tỏ quan điểm: " Chúng tôi mong đợi ở Chính phủ và nhân dân Pháp một cử chỉ mang lại hòa bình. Nếu không, chúng tôi bắt buộc phải chiến đấu đến
  2. cùng để giải phóng hoàn toàn đất nước". Hay trong kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thông điệp cho các nhà cầm quyền Mỹ đề nghị đàm phán hòa bình để kết thúc chiến tranh. - Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo thống nhất biện chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người luôn tranh thủ mọi khả năng hòa bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải dùng bạo lực cách mạng để bảo vệ độc lập, tự do. Phân tích luận điểm Cách Mạng Hồ Chí Minh phải theo con đường CM vô sản nếu muốn thắng lợi? 2. Trong những thập niên đầu của thế kỷ 20, cả dân tộc đang bị đoạ đày đau khổ dưới ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai, với tấm lòng yêu nước thiết tha Người đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc khỏi áp bức bóc lột và Người đã tìm được con đường cứu nước là con đường cách mạng vô sản. Người nhận thấy “ Chỉ có Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức, những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Việc lựa chọn con đường Xã hội chủ nghĩa là một phát hiện thiên tài và là cống hiến to lớn của Người đối với cách mạng Việt Nam. Vậy cơ sở nào để Hồ Chí Minh lựa chọn mục tiêu Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam ? Cơ sở lý luận để Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là vũ khí tư tưởng và lý luận cách mạng khoa học của thời đại đã giúp cho Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc. Ra đời vào giữa thế kỷ 19, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đáp ứng được yêu cầu bức thiết giữa lúc phong trào chủ nghĩa quốc tế đang khủng hoảng đường lối, đã trở thành lý luận soi đường và phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản. Sự ra đời của nhà nước Xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới sau cách mạng tháng 10 Nga 1917, là thực tiễn sinh động chứng minh bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin , chứng minh sự đúng đắn của con người chủ nghĩa vô sản, cách mạng tháng 10 Nga đã cổ vũ cho các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh và ý nghĩa của nó đã được Hồ Chí Minh đánh giá : “ Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng 10 chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu triệu người bị bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn sâu xa như thế”. Hồ chí Minh cũng đã lựa chọn đi theo con đường cách mạng thế giới để giải phóng dân tộc và đi lên Chủ nghĩa xã hội. Đó là sự lựa chọn đúng qui luật, phù hợp xu thế lịch sử. Lý luận về Hình thái Kinh tế – Xã hội của chủ nhiã Mác - Lênin đã chỉ rõ xã hội loài người phát triển theo xu hướng đi lên trải qua 5 hình thức kính tế xã hội mà hình thức kinh tế xã hội sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thức kinh tế xã hội trước nó. Và thực tiễn, lịch sử cũng đã chứng minh loài người đã trải qua hình thức kinh tế xã hội : Cộng sản nguyên thủy, Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghĩa và hiện nay đang là thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Nếu chế độ tư bản chủ nghĩa tất yếu ra đời từ chế độ phong kiến thì chủ nghĩa tư bản cũng sẽ xác lập các tiền đề kết quả để tự phủ định nó, và theo Hồ Chí Minh, logic tiến lên xã hội cho thấy đã đến lúc chủ nghĩa tư bản mở đường cho sự ra đời một chế độ xã hội mới là chế độ xã hội chủ nghĩa. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là qui luật vận động kết quả của lịch sử trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lênin sẽ là thứ vũ khí lý luận không gì thay thế được, là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam là mặt trời soi sáng cho con đường cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng, đó là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Ở Hồ Chí Minh, Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin là tiếp thu những nguyên lý cơ bản, tiếp thu phương pháp biện chứng chứ không sao chép giáo điều. Người vận dụng sáng tạo lý luận về chủ nghĩa không ngừng vào cách mạng Việt Nam. Người đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Theo Người : “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khắng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc phải tiến lên thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”. Như vậy, cách mạng giải phóng dân tộc không phải là mục đích cuối cùng mà nó chỉ là màn giáo đầu của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa và chỉ có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì mới thức sự giải phóng được nhân dân lao động, mới đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho mọi người. Chủ nghĩa xã hội là ước mơ của nhân dân lao động trên toàn thế giới, nó đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa tư bản đầy máu và nước mắt. Đó là máu và nước mắt của giai cấp vô sản, chính quốc và của nhân dân thuộc địa : Hồ Chí Minh đã nói : Chủ nghĩa đế quốc là con đỉa hai vòi, một vòi hút máu nhân dân lao động chính quốc, một vòi hút máu nhân dân thuộc địa. Từ thực trạng xã hội Việt Nam đòi hỏi cách mạng Việt Nam phải giải quyết hai mâu thuẫn đó, phải giành độc lập – tự do, phải xoá
  3. bỏ mọi chế độ áp bức bóc lột bất công, thiết lập một xã hội công bằng nhân ái. Đây cũng là cơ sở thực tiễn để Hồ Chí Minh lực chọn mục tiêu Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bởi vì chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới xây dựng được một xã hội tốt đẹp mới giải quyết được hài hòa cả hai vấn đề của xã hội Việt Nam bấy giờ. Một khía cạnh khác mà Hồ Chí Minh đã nhận thấy là sự cai trị dã man, những hình thức bóc lột tàn bạo của bọn thực dân đối với người bản xứ đã làm cho tinh thần cách mạng thêm mãnh liệt, làm cho ý thức độc lập , tự chủ, tinh thần yêu nước càng trỗi dậy, ở các dân tộc Đông Dương. Người đã kết luận : “ Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”. Đây là một luận điểm sáng tạo và hết sức quan trọng của Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa xã hội ra đời chính từ sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Tại các nước thuộc điạ các hình thức bóc lột, nô dịch của bọn thống trị đã làm bộc lộ những khuyết tật phải nhân tính bẩm sinh không thể khắc phục được chủ nghĩa tư bản. Đó là cơ sở để người lao động ý thức, giác ngộ sứ mệnh lịch sử của mình trước vận mệnh quốc gia, dân tộc chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội có khả năng xóa bỏ mọi xiềng xích, nô dịch, là một xã hội không có người bóc lột, Người đã trở thành ngọn cờ vẫy gọi các dân tộc thuộc điạ vùng dậy làm cách mạng giải phóng dân tộc để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, sự lựa chọn con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa là xuất phát từ thực trạng xã hội Việt Nam, song bên cạnh đó, sự lựa chọn mục tiêu chủ nghĩa xã hội còn xuất phát từ thực tiễn của các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Trải qua bao năm bôn ba nước ngoài và khảo sát các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới như cách mạng tư sản Pháp 1789, cách mạng tư sản Mỹ 1776, Cách mạng tháng 10 Nga 1917. Người đã rút ra những kết luận quan trọng. Người đã phát hiện ra rằng các cuộc cách mạng tư sản như : cách mạng Pháp, Cách mạng Mỹ là những cuộc cách mạng không triệt để, tuy thành công nhưng không đến nơi đến chốn vì người lao động vẫn chưa hoàn toàn được giải phóng, xã hội còn đầy bất công. Đảng viên Hồ Chí Minh cơ sở hàng đầu để đánh giá tính triệt để của một cuộc cách mạng là qui mô giải phóng nhân dân lao động bị áp bức. Cách mạng dân chủ tư sản do bản chất của nó, chỉ là sự thay thế hình thức áp bức bóc lột khác và tại bộ phận người lao động vẫn sống cực khổ. Dưới nhãn quan của Hồ Chí Minh chỉ có cách mạng tháng 10 Nga là triệt để là thành công đến nơi, nhân dân lao động đã được giải phóng và trở thành người chủ của xã hội. Người đã nhận định : “ Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mạng Nga đã đuổi được vua, tư bản, điạ chủ, rồi lại ra sức cho công nông các nước và dân bị áp bức các thuộc điạ làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa, tư bản và thế giới”. Từ đó mà Người đã lựa chọn con đường cho cách mạng Việt Nam là đi theo cách mạng tháng 10 . Chính vì vậy cũng có thể nói rằng: muốn đưa cách mạng Việt Nam tới chỗ thành công thì không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một là công cuộc đổi mới hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn mãi sáng soi cho cả dân tộc đi đến mục tiêu mà. Người đã lựa chọn cho nhân dân ta từ những năm 30 của thế kỷ 20. Đảng ta củng cố xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí MInh làm nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảngvà cách mạng Việt nam. Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta phải kiên trì với mục tiêu đấu tranh dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn duy nhất đúng, là vấn đề có tính nguyên tắc. Phải giữ vững định lý xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, đổi mới để có chủ nghĩa xã hội và hơn chứ không phải để “ đổi màu”. Trong sự nghiệp đổi mới, cần đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh thần quí báu của Đảng và dân tộc, tư tưởng đó luôn sống động mang tính khoa học và cách mạng cho nên cần được giữ gìn. Mỗi cán bộ Đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh và hành động theo tư tưởng của Người. Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong gần 80 năm qua không thể tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh và ngày nay tư tưởng đó tiếp tục sáng soi cho toàn Đảng, toàn Dân trên chặng đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta, biến ước mơ cao đẹp “ xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” của Người sớm trở thành hiện thực./
  4. CÂU HỎI VÀ CÂU TRẢ LỜI Câu hỏi: Hãy phân tích đường lối cách mạng Việt Nam được Nguyễn Ái Quốc thể hiện trong tác phẩm đường cách mạng ? Trả lời: Trong tác phẩm Đường cách mệnh, điều cốt yếu đầu tiên mà Nguyễn Ái Quốc yêu cầu cách mệnh cần phải có đó là đảng cách mệnh. Người viết: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản mọi nơi”. Để khẳng định được điều này, ngay từ rất sớm, Nguyễn Ái Quốc đã có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức, để cho ra đời một chính Đảng đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tháng 12-1920, tại Đại hội lần thứ 18 Đảng xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III, và là một trong những người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đã đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Người. Năm 1925, sau khi về Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên trên cơ sở cải tổ Tâm Tâm Xã “với mục đích đưa thanh niên trong nước ra Quảng Châu, huấn luyện họ, rồi phái họ trở về tuyên truyền và tổ chức khắp cả nước”. Bằng những nỗ lực đầy quyết tâm của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác - Lênin đã được truyền bá và tạo nên những tác động mạnh mẽ vào phong trào cách mạng Việt Nam. Trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc với những đồng sự đã khẩn trương chuẩn bị thành lập Đảng vô sản kiểu mới. Đảng đó có nhiệm vụ lãnh đạo toàn dân đánh đổ bọn đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến giành lại độc lập cho dân tộc. Rõ ràng, muốn cách mạng thành công phải có Đảng lãnh đạo. Song nếu chỉ dừng lại ở đó không thì chưa đủ, mà Đảng đó phải vững. Đảng muốn vững, muốn mạnh phải có một lý luận soi đường. Lý luận đối với cách mệnh Đảng như trí khôn đối với người, bàn chỉ nam đối với con tàu. Làm cách mạng mà không có lý luận soi đường như đi trong đêm tối mà không có đuốc, phải mò mẫm rất khó. Bằng sự phân tích sâu sắc trên cơ sở cứ liệu chính xác qua tác phẩm Đường cách mệnh Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra con đường mà cách mạng Việt Nam phải theo đó là con đường cách mạng Tháng Mười, Người viết: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng [công nông] làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Trong điều kiện biến đổi của tình hình thế giới nửa sau những năm 30, Người chỉ rõ mục tiêu của đấu tranh cách mạng lúc này là Đảng không nên đưa ra những đòi hỏi quá cao [độc lập dân tộc, nghị viện…] chỉ nên đòi các quyền dân chủ, tự do tổ chức, tự do hội họp, tự do báo chí…, đấu tranh để Đảng được hoạt động hợp pháp. Muốn đạt được mục đích đó, Đảng phải khéo léo, mềm dẻo để tập hợp tất cả mọi tầng lớp nhân dân… nhưng phải kiên quyết không có một thỏa hiệp, một nhượng bộ nào với bọn tờrôtkit, phải tiêu diệt chúng về mặt chính trị… Như vậy, ở mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng phải có đường lối chủ trương rõ ràng, phù hợp với thực tế. Để làm được điều đó, Đảng phải nhạy bén, phải linh hoạt, phải không
  5. ngừng nâng cao trình độ giác ngộ lý luận của mình để có những quyết sách đúng. Để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ: chỉ có Đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công. Thấm nhuần tư tưởng trên của Hồ Chí Minh - qua tác phẩm Đường cách mệnh - từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nêu cao vai trò tiên phong của mình, luôn thể hiện là một đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, luôn kiên định giữ vững lập trường của giai câp vô sản, lấy lý luận Mác - Lênin làm nòng cốt. Từ thực tiễn của các cao trào đấu tranh cách mạng giai đoạn 1930 -1945, giai đoạn 9 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp và 21 năm chống Mỹ, thống nhất nước nhà, đặc biệt từ khi đổi mới [năm 1986] đến nay, chúng ta càng không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Sự vĩ đại của Đảng càng thể hiện rõ hơn hết là sau 20 năm lãnh đạo đất nước tiến hành đổi mới đã đưa nước ta thoát khỏi những khủng hoảng về kinh tế - xã hội và đạt được những thành tựu rực rỡ: kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa phát triển, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Có được như vậy là do Đảng ta luôn không ngừng nâng cao trình độ lý luận, đúc rút kinh nghiệm thực tiễn, từng bước bổ sung hoàn thiện đường lối đổi mới một cách sáng tạo, khoa học và đúng đắn. Thật vậy, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, đưa nước ta bước vào thời kỳ mới, thời kỳ chắp cánh vươn mình ra thế giới, Đảng ta luôn xác định: phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Thực tiễn cho thấy, trong tất cả các thời kỳ cách mạng, Đảng ta đều rất coi trọng công tác xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Đảng ta khẳng định: “Toàn bộ thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng ta. Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu đổi mới”. Hơn 75 năm trôi qua, trải qua biết bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những thành công rực rỡ, điều này không ai có thể phủ nhận được. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thành công đó, là do Đảng ta luôn xác định đúng con đường, hướng đi của mình. Con đường, hướng đi đó rõ ràng đã được Hồ Chí Minh vạch ra từ rất sớm - trong tác phẩm Đường cách mệnh - đó chính là Đảng phải luôn làm tròn vai trò lãnh đạo của mình, phải luôn xây dựng Đảng vững mạnh, “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”, đó chính là chủ nghĩa Mác- Lênin. Như vậy, những luận điểm mà Hồ Chí Minh nêu lên trong tác phẩm Đường cách mệnh về con đường mà cách mạng Việt Nam phải trải qua, đã trở thành định hướng xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo của Đảng ta và 80 năm qua vẫn còn nguyên giá trị, luôn
  6. soi đường cho Đảng ta đi tới. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh được điều đó, chứng minh một luận chứng hùng hồn: Một dân tộc dù nhỏ bé, đất không rộng người không đông, nhưng có một đảng tiên phong với một lý luận khoa học soi đường, chiến đấu với một tinh thần đoàn kết chặt chẽ một lòng… sẽ đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Đường Kách Mệnh Tác phẩm Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Lý luận của tác phẩm không sá vở mà vạch ra lý luận cách mạng Việt Nam thiết thực, tri thức lý luận cách mạng Việt Nam đã đư hiện diện trong tác phẩm rất mácxít nhưng cũng rất Việt Nam, dễ hiểu, dễ tiếp thu, kết hợp rất tình phương pháp lịch sử và lôgích. Dùng lịch sử để nói lý luận, từ Cách mạng Pháp đến Cách mạn Nga và kết luận ở Cách mạng Nga, rồi lấy lý luận soi sáng thực tiễn Việt Nam, và kết luận: Chỉ có cách mạng vô sản mới giải phóng được dân tộc. I- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm 1. Thế giới Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tiếp nối và phát triển những tư tưởng giải phóng con người của nhân loại. N trở thành vũ khí tư tưởng của giai cấp vô sản đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới - hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Được học thuyết khoa học và cách mạng soi đường, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản các nước trên thế giới đã phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời của các Đảng Cộng sản như: Đảng xã hội - dân chủ Nga được thành lập [1903]; Đảng Cộng sản Pháp được thành lập [1920]; Đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời [1921]... Năm 1917, Đảng Cộng sản Bônsêvích Nga đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Cá mạng Tháng Mười Nga là bằng chứng khẳng định giá trị thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời báo hiệu thời kỳ đấu tranh giành thắng lợi của giai cấp vô sản thế giới bắt đầu. Năm 1919, Quốc tế III - Bộ Tham mưu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế được thành lập. Qu tế III đã quan tâm đến cách mạng thuộc địa. Bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và v đề thuộc địa của Lênin đã tác động trực tiếp đến phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Đối với Nguyễn Ái Quốc, Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin là b tiến nhảy vọt và dứt khoát trong nhận thức tư tưởng của Người. Người quyết định chọn chủ nghĩa Mác - Lênin làm hệ tư tưởng cứu nước. Như vậy, thời đại đã mở ra điều kiện mới - cả tư tưởng chính trị và cả chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở các nước. Chính thời đại cũng dẫn dắt phong trào cách mạng c dân tộc trên thế giới đi vào quỹ đạo chung của cách mạng vô sản. 2. Việt Nam Đặc điểm nổi bật của Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một nước thuộc địa nửa phong kiến. hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn cơ bản là: giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm l và giữa giai cấp phong kiến Việt Nam với toàn thể nhân dân [chủ yếu là nông dân]. Yêu cầu của lịch sử l này là phải giải quyết mâu thuẫn cơ bản đó để đưa dân tộc tiến lên. Dưới ách thống trị của thực dân - phong kiến, đã có hàng trăm cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo hệ
  7. tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản, nhưng rút cuộc, đều không giải quyết nổi nhiệm vụ mà lịch sử đan đặt ra, nhân dân đang mong đợi là giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân phong kiến. Bước vào những năm 20 của thế kỷ XX, trong phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam đã xuất hiện nh tổ chức yêu nước mang sắc màu chính trị khác nhau, như: Tâm tâm xã [ l923 - 1925], Hội phục Việt [1925 Đảng thanh niên [1926], Thanh niên cao vọng Đảng [1926 - 1929], Tân Việt cách mạng Đảng [1926 - 1930 Việt Nam quốc dân Đảng [1927 - 1980]. Song, các tổ chức yêu nước này thiếu đường lối chính trị đúng đ thiếu tổ chức chặt chẽ như một đảng cách mạng khoa học, cho nên, họ không đáp ứng được yêu cầu của s ử. Thực tiễn lịch sử đang đòi hỏi phải có một tổ chức mới, được xây dựng trên cơ sở hệ tư tưởng cách mạn khoa học, có đường lối chính trị đúng đắn, có tổ chức chặt chẽ thì mới lãnh đạo cách mạng đi đến thành công. II- Tư tưởng cơ bản và nội dung của tác phẩm 1. Tư tưởng cơ bản của tác phẩm Mục đích tác phẩm được tác giả chỉ rõ: “Muốn sống thì phải cách mệnh”. “Hơn hai mươi triệu đồng bào hối trong vòng tử địa. Phải kêu to, làm chóng để cứu lấy giống nòi”. Thà chết tự đo còn hơn sống nô lệ, quyết chiến đấu cho nền độc lập tự do của dân tộc là tinh thần của tác phẩm. Có thể nói, “Không có gì q hơn độc lập tự do” là quan điểm bao trùm toàn bộ tác phẩm. Tác phẩm cũng chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất của độc lập tự do và vạch con đường cụ thể để giành thắng lợi. Tinh thần xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là vì độc lập tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, phải g phóng dân tộc, giải phóng nhân dân ra khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc. Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là quan điểm tư tưởng chỉ đạo con đường cách mạng Việt Nam. Giải phóng nhân dân phải gắn với sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản. Cách mạng giải phóng dân phải theo quỹ đạo của cách mạng vô sản, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội, lợi ích của d tộc với lợi ích của giai cấp vô sản phải gắn bó với nhau. Thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc đều phả giải quyết trên cơ sở quan điểm cách mạng vô sản để đưa cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạ xã hội chủ nghĩa. Cách mạng giải phóng dân tộc chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng xã chủ nghĩa chi phối cách mạng giải phóng dân tộc. Cách mạng phải triệt để, tích cực, chủ động và sáng tạo. Tác giả đưa dẫn chứng các cuộc cách mạng trên thế giới để đi đến khẳng định rằng, cách mạng Việt Nam phải giành thắng lợi triệt để: “Muốn cách mện thành công thì phải dân chúng [công nông] làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh; p thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Cách mạng phải độc lập và sáng t tự lực, tự cường, không ỷ lại ngồi chờ; phải tích cực tấn công, chủ động tiến công, quyết giành thắng lợ Biết tranh thủ sự giúp đỡ của cách mạng thế giới, nhưng cũng phải có đóng góp cho cách mạng thế giới, cùng cách mạng thế giới đạp đổ chủ nghĩa đế quốc tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
  8. Những tư tưởng cơ bản trên đã nâng giá trị của tác phẩm lên tầm cao. 2. Nội dung của tác phẩm a] Tư cách một người cách mệnh Tư cách một người cách mệnh được đặt lên vị trí hàng đầu của tác phẩm. Nội dung gồm 3 phần: - Tự mình phải cần kiệm - liêm chính - vị công vong tư. Giữ chủ nghĩa cho vững… - Đối người phải: với từng người thì khoan thứ. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người. - Làm việc phải : Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán, dũng cảm, phục tùng đoàn thể. Tác phẩm đã nêu lên những vấn đề cơ bản của đạo đức mới - đạo đức của người cộng sản. Đó là phải c đức và tài, trí và dũng, tư cách và năng lực theo kiểu người cộng sản. Đó là con người một lòng một dạ. Đ con người có tổ chức, gắn bó với tổ chức, với đoàn thể. Đồng thời biết phát huy năng lực cá nhân. “Tư cá người cách mệnh” khác hẳn với chủ nghĩa anh hùng cá nhân, đặt mình lên trên tổ chức, đề cao cái tôi đạo của người đảng viên cộng sản được đề cập trong tác phẩm phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộ ta, đáp ứng yêu cầu của cách mạng và cũng rất đúng với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về đạo đức của người cách mạng. “Tư cách người cách mệnh” đã dễ dàng chinh phục lòng người, tiếp thêm sức mạn và định hướng phấn đấu cho tất cả những ai yêu nước, thương nòi, muốn giải phóng quê hương xứ sở ra khỏi mọi áp bức bóc lột, xây dựng đất nước theo hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn min “Tư cách người cách mệnh” có giá trị khoa học và giáo dục lớn đặt cơ sở cho đạo đức học ở Việt Nam. b] Con đường cách mệnh Tác giả đưa ra khái niệm “cách mệnh”: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt Từ đó, tác giả xác định các loại cách mạng: - Tư bản cách mệnh như cách mệnh Pháp năm 1789, Mỹ cách mệnh độc lập năm 1776; Nhật cách mệnh n 1864. - Dân tộc cách mệnh như: Italia đuổi cường quyền Áo năm 1859; Tàu đuổi Mãn Thanh 1911. - Giai cấp cách mệnh như công nông Nga đuổi tư bản và giành lấy chính quyền 1917. Tác giả giải thích nguyên nhân sinh ra các loại cách mệnh ấy. Từ phân tích mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn cấp, tác giả xác định tính chất cách mệnh. Dân tộc cách mệnh là dân tộc nô lệ đồng tâm hiệp lực đánh đu tụi áp bức mình đi để giành độc lập tự do. Giai cấp cách mệnh là giai cấp bị áp bức cách mệnh để đạp đổ giai cấp đi áp bức mình. Về dân tộc cách mệnh và giai cấp cách mệnh, tác giả đều lấy ví dụ Việt Nam. Khi kết luận, tác giả cũng
  9. đến sự cần thiết phải tiến hành dân tộc cách mệnh và giai cấp cách mệnh ở Việt Nam. Cách mệnh Việt N phải tiến hành giải phóng dân tộc để tiến lên giải phóng giai cấp. Việt Nam phải làm cả dân tộc cách mệ và giai cấp cách mệnh. Tác giả phân tích kỹ Cách mạng tư sản Pháp 1789, Cách mạng tư sản Mỹ 1776, Cách mạng Tháng Mười 1917 và chỉ ra kinh nghiệm lịch sử của các cuộc cách mạng này: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh M nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ kỳ thực trong thì nó tư lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn m cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”. “Tron thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật”. Từ lịch sử và thực tiễn, tác giả đã định hướng cho các mạng Việt Nam là đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga “theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Tác giả cũng xác định rõ bạn và thù của cách mệnh Việt Nam. Đế quốc Pháp đã chà đạp lên nền độc lập dân tộc, đặt ách áp bức bóc lột đối với nhân dân ta. Do đó, đế quốc Pháp vừa là kẻ thù của dân tộc và cũn kẻ thù của giai cấp. Tác giả phân biệt rạch ròi giữa đế quốc Pháp và nhân dân Pháp trước hết là công nôn Pháp. Từ đó, nêu mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam với giai cấp cách mệnh Pháp nói riêng và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản chính quố nói chung. Còn giai cấp phong kiến địa chủ, tác giả có phân loại: điền chủ nhỏ là bầu bạn cách mệnh công nông, nh đại địa chủ thì chớ có cho họ vào hội của dân cày. Việc xác định đúng, chính xác kẻ thù cơ bản là chủ ngh đế quốc Pháp có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng chiến lược và sách lược cách mạng, trong việc tập hợ lực lượng, phân hóa, cô lập cao độ kẻ thù, nhằm tăng sức mạnh cho cách mạng. Đây là tầm tư duy của th tài rất biện chứng, cách mạng và khoa học vượt lên tầm tư duy đương thời của nhiều người cho rằng, đã chủ tất nhiên sẽ là kẻ thù của cách mạng, là đối tượng đứng về phía đế quốc. c]Về lực lượng cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ rõ: Công nông là người chủ cách mệnh “là công nông bị áp bức nặng hơn, là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết, là vì công nông là không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc “Học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”. Người đã căn cứ vào điều kiện cụ thể của đất nước, thái độ của các giai cấp trong xã hội, đối với cách m để vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp, không giáo điều, máy móc. Vì vậy, lực lư cách mạng vừa đông, vừa mạnh, nhưng vẫn đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. d] Về đoàn kết quốc tế, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ rằng, cách mạng Việt Nam phải đoàn kết với các lực lượ cách mạng thế giới: “Chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những đảng cách mệnh trong thế g để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa [như Đệ tam quốc tế]”. Người đưa ra những dẫn chứng cụ thể đầy sức thuyết phục để xác định lực lượng đồng minh quốc tế của cách mạng Việt Nam “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”. Cách mạng Việt Nam cũng phải liên minh với c mệnh Pháp và có thể thành công trước cách mệnh Pháp. “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bả Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ”.
  10. Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới. Ai làm cách mệnh trê thế giới cũng đều là đồng chí của nhân dân Việt Nam. Đã là đồng chí thì sung sướng cực khổ phải có nha Như vậy, về đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh nêu 3 vấn đề lớn: - Cách mạng Việt Nam phải đứng hẳn về phía phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc thế giới để đạp đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa trên thế giới. - Xác định rõ quan hệ lợi ích dân tộc và cách mạng thế giới, giữa quyền lợi và trách nhiệm, sự thống nhấ của quan hệ này. - Xác định rõ quan hệ cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc là tác động qua lại. Cách mạng thuộ không thụ động ngồi chờ cách mạng chính quốc. Với những luận điểm trên, tác phẩm đã đặt nền tảng đúng đắn cho đường lối quốc tế của đảng, và đặt c cho sự giúp đỡ của quốc tế trong thời kỳ thành lập Đảng. đ]Về phương pháp cách mạng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định rằng, phương pháp cách mạng giữ vai trò hế sức quan trọng: “Sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm làm xã hội mới, ấy là rất khó. Nhưng biết cách làm, đồng tâm hiệp lực mà làm thì chắc làm được”. Đó là: - Phải làm cho dân giác ngộ. - Phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu. - Phải hiểu phong trào thế giới, phải bày sách lược cho dân. - Phải đoàn kết toàn dân “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người “Đàn bà, trẻ con cũng giúp làm việc cách mệnh được nhiều. Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”. - Phải biết tổ chức dân chúng lại, tác giả nhấn mạnh vai trò của tổ chức: cách mạng phải có tổ chức rất vững bền thì mới thành công. Tác giả đưa ra cách tổ chức quần chúng như công hội, dân cày, hợp tác xã, thanh niên, phụ nữ, quốc tế cứu tế đỏ... - Phải giành chính quyền bằng bạo lực cách mạng của quần chúng, phải biết chọn thời cơ. Tóm lại, tác phẩm đã nêu lên những quan điểm cơ bản về phương pháp cách mạng Việt Nam trên cơ sở v dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tổng kết kinh nghiệm cách mạng các nước. Những quan điểm đó cơ sở cho Đảng xây dựng phương pháp cách mạng của mình. Về Đảng Cộng sản, Đảng là điều kiện đầu tiên để đảm bảo cho sự thắng lợi của cách mệnh. “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin. “Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như
  11. người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Nguyễn Ái Quốc luôn có ý thức xây dựng lập trường chính trị, bản chất giai cấp công nhân, tính cách mạ triệt để của Đảng. Những tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam của Người là những phác thảo c đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người phân tích sâu sắc lịch sử cách mạng Nga để qu triệt bài học kinh nghiệm về xây dựng Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam. Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên được Người đề cập gần như xuyên suốt tác phẩm. Toàn bộ phẩm đã thể hiện nội dung đó. Bằng tư tưởng xây dựng Đảng Cộng sản ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng yêu cầu bức bách củ lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho việc thành lập Đảng Cộng sản V Nam. III- Ý nghĩa của tác phẩm 1. Tác phẩm Đường cách mệnh có vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức c sự thành lập chính Đảng cách mạng ở Việt Nam. - Về tư tưởng: Tác phẩm có ý nghĩa giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc ch cán bộ và đông đảo quần chúng nhân dân, nhằm xây dựng sự thống nhất trong nhận thức tư tưởng, chuẩn thành lập Đảng. Tác phẩm khắc phục tư tưởng sai lầm, ám sát cá nhân, chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa quốc gia; xác lập h tư tưởng mới - tư tưởng của giai cấp công nhân. - Về chính trị: Tác phẩm xây dựng lập trường, quan điểm của giai cấp công nhận cho cán bộ và quần chú công nông. Vạch ra được đường hướng cơ bản của cách mạng Việt Nam, làm cơ sở cho việc xây dựng Cương lĩnh chính trị của Đảng. Tác phẩm Đường cách mệnh ra đời đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt N thúc đẩy phong trào yêu nước, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ . - Về tổ chức: Đào tạo ra một lớp cán bộ cách mạng kiểu mới chuẩn bị cho việc thành lập Đảng. Tác phẩ cũng đưa ra hệ thống tổ chức của Đảng và các tổ chức quần chúng như công hội, nông hội, thanh niên, ph nữ... để Đảng tập hợp quần chúng, chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng. 2. Tác phẩm Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Lý luận của tác phẩm không sách v mà vạch ra lý luận cách mạng Việt Nam thiết thực, tri thức lý luận cách mạng Việt Nam đã được hiện di trong tác phẩm rất mácxít nhưng cũng rất Việt Nam, dễ hiểu, dễ tiếp thu, kết hợp rất tài tình phương phá lịch sử và lôgích. Dùng lịch sử để nói lý luận, từ Cách mạng Pháp đến Cách mạng Nga và kết luận ở Các mạng Nga, rồi lấy lý luận soi sáng thực tiễn Việt Nam, và kết luận: Chỉ có cách mạng vô sản mới giải ph được dân tộc.
  12. Tác phẩm cũng là một hình mẫu của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam của tác g Ví dụ: Lênin cho rằng, cách mạng thuộc địa chỉ có thể giành được thắng lợi khi có sự giúp đỡ của cách m chính quốc, khi cách mạng vô sản chính quốc đã giành thắng lợi, nhưng tác phẩm phát hiện thêm rằng, cá mạng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng vô sản ở chính quốc và tác động tích cực đối với cách mạng chính quốc. Chủ nghĩa Mác - Lê nin bàn nhiều về vấn đề giải phóng dân tộc. Tác phẩm chỉ rõ dân tộc và giai cấp kết với nhau, giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản... Tác phẩm Đường cách mệnh đã thể hiện thiên tài lý luận cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, tác phẩm có g trị thực tiễn lớn lao, tạo ra sự chuyển biến căn bản, nhanh chóng trong nhận thức và hành động cách mạn của cán bộ và đông đảo quần chúng, chuẩn bị tiền đề cho việc thành lập Đảng. Như vậy, trước khi Đảng ra đời, ở Việt Nam đã có sự thống nhất về tư tưởng chính trị và tổ chức. Đó là điều kiện trực tiếp giữ vững sự thống nhất trong Đảng ngay từ khi mới thành lập cũng như sau này. Tác phẩm Đường cách mệnh là một kho tàng tri thức lý luận cách mạng Việt Nam, là sự thể hiện tư tưởng cơ bản của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Giá trị của tác phẩm càng được khẳng định khi Đại hội đại biểu toàn quốc thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố rằng, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ C Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Theo Giới thiệu tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngnghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và c quyền nhà nước, Nxb CTQG, H, 1 3.

Hồ Chí Minh với việc đi tìm chân lý thời đại: “Muốn cứu nước không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”

[ĐCSVN] - Trong hệ thống luận điểm cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có một luận điểm lớn mang tầm chân lý thời đại mà giá trị và sức sống của nó còn mãi với tiến trình phát triển của xã hội loài người, đặc biệt là đối với các dân tộc thuộc địa. Đó là luận điểm: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Để khái quát được luận điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải trải qua gần 50 năm hoạt động cách mạng, trong đó có 30 năm ra nước ngoài tìm đường cứu nước, 18 năm trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam chống thực dân, phong kiến, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam mới do nhân dân lao động làm chủ.

Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân xâm lược, nhân dân bị hai tầng áp bức nặng nề, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sớm bộc lộ tinh thần yêu nước, thương dân mới, có chí muốn cứu giúp nhân dân thoát khỏi cảnh lầm than. Anh tích cực tham gia các hoạt động cứu nước do các nhà cách mạng tiền bối tổ chức. Trong quá trình đó, Nguyễn Tất Thành đã suy nghĩ nhiều về con đường cứu nước của Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…, chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên. Dù rất quý trọng và khâm phục lòng yêu nước, đánh giá cao những cống hiến của họ, nhưng với một dự cảm chính trị thiên tài, Nguyễn Tất Thành nhận thấy ở các con đường cứu nước ấy còn có nhiều hạn chế và bế tắc về mục tiêu và phương pháp. Anh quyết định đi tìm con đường cứu nước mới.

Việc Nguyễn Tất Thành chọn hướng đi sang phương Tây, sang một nền văn minh mới khác với văn minh phương Đông, sang tận nơi có cái gọi là “Tự do”, “Bình đẳng”, “Bác ái” mà người Pháp thực dân tuyên truyền để tìm hiểu ngọn nguồn của chế độ thực dân đô hộ dân tộc Việt Nam, và cũng là để học hỏi tinh hoa thế giới, sau về giúp đồng bào, đó là một đột phá mới trong tư duy chính trị lúc bấy giờ.

Trong thời gian 10 năm đầu, từ 1911 đến 1920, Nguyễn Tất Thành vừa phải tìm việc làm để kiếm sống, vừa tự học tập và tham gia hoạt động yêu nước ở nước ngoài. Anh đã đi qua nhiều nước, nhiều châu lục; ở đâu anh cũng quan sát, so sánh, nhận xét, đi sâu tìm hiểu thực chất, không dừng lại ở hình thức bên ngoài. Vì thế, điều mà nhiều người yêu nước Việt Nam lúc đó không phát hiện được thì Nguyễn Tất Thành đã nhận ra: Ở đâu trên thế giới cũng có kẻ giàu, người nghèo, cũng có kẻ bóc lột và người bị bóc lột, bị áp bức. Ở các nước chính quốc hay các nước bị thuộc địa vẫn có những người Pháp, người Mỹ tốt và cũng có những người Pháp, người Mỹ không tốt; cũng có người da trắng áp bức, bóc lột và những người da trắng bị áp bức, bóc lột. Anh đi đến kết luận: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản”[1]. Khi sang Mỹ, tìm hiểu cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ với bản Tuyên ngôn Độc lập nổi tiếng, Nguyễn Tất Thành nhìn thấy ở cách mạng Mỹ có một số giá trị tích cực, nhưng vẫn nhận xét đó là cuộc cách mạng “không đến nơi”, không triệt để vì không nói gì đến giải phóng tầng lớp nhân dân lao động. Ở Pháp, nghiên cứu cách mạng tư sản Pháp, nghiên cứu bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền, Anh cũng tìm thấy được một số giá trị tích cực, nhưng cũng phê phán tính chất nửa vời, không triệt để của nó.

Tháng 6 năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã cùng Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường viết bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm tám điểm gửi Hội nghị Véc xây [hội nghị của các nước thắng trận sau Chiến tranh thế giới thứ nhất] nhằm kêu gọi các nước giúp đỡ sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, nhưng không được hội nghị xem xét. Bản Yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc[2] càng nhận rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc. Sau này, Người viết: “Chủ nghĩa Uyn xơn chỉ là trò bịp bợm lớn”[3] và “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”[4]. Phân tích cách mạng tư sản Mỹ 1776 và cách mạng tư sản Pháp 1791, Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận: Không thể đi theo con đường cách mạng tư sản vì con đường đó không giải phóng dân tộc thuộc địa, không giải phóng nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột; những cuộc cách mạng kiểu đó, sớm muộn thì nhân dân phải làm cách mạng một lần nữa mới xong.

Thế rồi, điều gì đến phải đến. Như một tất yếu lịch sử, vào một ngày tháng 7 năm 1920, đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo [Pháp], Nguyễn Ái Quốc lập tức bị cuốn hút vì tính chất cách mạng triệt để của nó, vì nó đã giải đáp thỏa đáng những điều mà bấy lâu nay anh hằng mong ước, đợi chờ.

Luận cương của V.I.Lênin như luồng ánh sáng chiếu rọi vào trí tuệ và tâm hồn của Nguyễn Ái Quốc, đem đến cho anh một nhãn quan chính trị mới. Nhà lãnh đạo Đảng, nhà lý luận chính trị Trường Chinh nhận xét: “Luận cương về những vấn đề dân tộc và thuộc địa đến với Người như một ánh sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu biết và tình cảm cách mạng mà Người hằng nung nấu”[5]. Từ đó, anh hoàn toàn tin theo V.I.Lênin và quyết đi con đường cách mạng mà V.I.Lênin đã vạch ra. Từ lập trường của một người yêu nước, anh chuyển sang lập trường của một người cộng sản. Sau này, Người kể lại rằng: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin.…Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[6]. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc tìm đường sang nước Nga, trực tiếp nhìn thấy những thành quả to lớn của Cách mạng Tháng Mười đem lại cho giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác, Người càng quyết tâm theo con đường đã chọn.

Sau khi tìm được con đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc trở về nước lãnh đạo nhân dân làm cách mạng giải phóng dân tộc, đúng như ước nguyện khi Người ra đi. Người thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thành lập Mặt trận đoàn kết dân tộc, tổ chức lực lượng vũ trang, vận động nhân dân đấu tranh giành độc lập, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến, đưa nhân dân lao động từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ, từng bước đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội để xóa bỏ tận gốc bóc lột, bất công. Thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trong 15 năm đấu tranh giành chính quyền, trong 30 năm kháng chiến chống xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ 1976 đến nay, cũng như bài học thành công và chưa thành công của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới trong thế kỷ XX đã khẳng định sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn.

Năm 1967, trong bài viết cho Báo Pravđa [Liên Xô] nhân kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát một số vấn đề có tính quy luật về cách mạng giải phóng dân tộc. Người chỉ rõ: “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Thắng lợi của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân tộc gắn liền với sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của phe xã hội chủ nghĩa và của phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa”[7].

Luận điểm "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" là một luận điểm nền tảng của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; định hướng phương hướng, đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 2 năm 1930, trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng”, Đảng đã đề ra quan điểm "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Quan điểm này được Đảng ta phát triển trong Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930, đặc biệt là được thể hiện rất rõ trong Đại hội II của Đảng năm 1951, khẳng định cách mạng Việt Nam mang tính chất cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng tiếp tục khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản với việc xác định nhiệm vụ của cách mạng cả nước là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, giải phóng miền Nam, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi thống nhất đất nước, hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc, năm 1976, tại Đại hội IV Đảng ta chủ trương đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng tiếp tục khẳng định con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là đi lên chủ nghĩa xã hội; khẳng định mục tiêu lớn của thời đại là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”[8]. Việc Đảng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là vì, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.

Bằng việc nêu lên luận điểm mang tầm chân lý thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm phong phú lý luận Mác - Lênin về cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở nên phổ biến đối với mọi dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trong bài “Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh”, nguyên Phó Giám đốc Học viện Chính trị - Trường Đảng Êtiôpia Têshôm Kêbêđe đã viết: “Những tư tưởng của Hồ Chí Minh có ảnh hưởng to lớn trong việc khuyến khích và cung cấp tri thức cho các lãnh tụ của giai cấp công nhân và các nhà cách mạng ở Á, Phi và Mỹ Latinh giải quyết một cách triệt để vấn đề dân tộc”[9].

Hiện nay, tuy cách mạng vô sản thế giới đang đứng trước những thách thức to lớn do sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa tư bản; không ít dân tộc gặp khó khăn trong việc chọn định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội do tác động tiêu cực của tình hình sau khi Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ. Tuy vậy, nhiều nước ở châu Á, Phi, Mỹ Latinh vẫn giương ngọn cờ độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội dưới nhiều hình thức. Trong khi một số mô hình chủ nghĩa xã hội ở một số nước Đông Âu sụp đổ, một số mô hình chủ nghĩa xã hội mới - sản phẩm của quá trình đổi mới chủ nghĩa xã hội - như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba với những thành tựu to lớn, khẳng định sức sống của chủ nghĩa xã hội đổi mới, trở thành tấm gương sáng để các dân tộc khác noi theo. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của các dân tộc dù có khó khăn, phức tạp, nhưng theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội.

Chủ nghĩa tư bản đã từng có vai trò lịch sử trong các thế kỷ trước, cho dù hiện nay vẫn còn khả năng tồn tại do biết lợi dụng sự phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ và bóc lột các nước thuộc thế giới thứ ba, nhưng nó đã bộc lộ những khiếm khuyết và mâu thuẫn nội tại không thể giải quyết; đã và đang bộc lộ những hạn chế không thể khắc phục nổi trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc, giai cấp, vấn đề xóa bỏ chế độ người bóc lột người, chiến tranh, bảo vệ môi trường, bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội, chăm lo phát triển con người, giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc. Do bản chất của mình, ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không từ bỏ chính sách thực dân xâm lược với nhiều biến tướng mới rất tinh vi và xảo quyệt nhằm bóc lột các nước kém phát triển, chậm phát triển. Những cuộc chiến tranh và can thiệp quân sự của các nước phương Tây vào các quốc gia độc lập có chủ quyền trong những thập niên 90 của thế kỷ XX và thập niên đầu của thế kỷ XXI, đặc biệt gần đây, cuộc tấn công quân sự của Liên quân do NATO lãnh đạo chống Libi, cho dù cố che đậy với những lý do gì, thì về thực chất vẫn là các cuộc xâm lược nhằm mục đích phân chia lại thị trường thế giới, giành giật tài nguyên, môi trường, duy trì hoặc áp đặt ảnh hưởng của họ lên các nước đang lựa chọn con đường phát triển của dân tộc mình, ngăn cản quá trình vận động, phát triển lên chủ nghĩa xã hội của các quốc gia đã giành được độc lập, buộc các quốc gia này phải phụ thuộc vào chủ nghĩa tư bản.

Bài học lịch sử trong thế kỷ XX và thập kỷ đầu của thế kỷ XXI cảnh tỉnh chúng ta rằng, còn chủ nghĩa tư bản là còn nguy cơ bị xâm lược; độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, sự thống nhất đất nước còn bị đe dọa. Do đó, chủ nghĩa tư bản quyết không phải là sự lựa chọn của nhân loại trong thời đại ngày nay. Chỉ có đi theo con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc mới được giữ vững, nhân dân lao động mới được giải phóng thực sự. Đó cũng chính là chân lý thời đại mà cách đây 100 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lĩnh hội được ở chủ nghĩa Mác - Lênin trên hành trình đi tìm đường cứu nước, cứu dân của mình.

[1] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 1, tr. 266.

[2] Khi viết bản Yêu sách của nhân dân An Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, tên Nguyễn Ái Quốc được dùng từ đó.

[3] Hồ CHí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 1, tr. 416.

[4] Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb ST, H. 1975, tr. 33.

[5] Trường Chinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Sự nghiệp vĩ đại, gương sáng đời đời, Nxb ST, H. 1980, tr. 11.

[6] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 10, tr. 128.

[7] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 12, tr. 304-305.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 70.

[9] Dẫn theo sách "Hồ Chí Minh - Một người châu Á của mọi thời đại”, Nxb CTQG, H. 2010, tr. 218.

Video liên quan

Chủ Đề