9 tỉnh đồng bằng sông hồng là tỉnh nào năm 2024

  • Kinh doanh
  • Vĩ mô

Thứ năm, 30/3/2023, 16:19 [GMT+7]

Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư cho rằng, liên kết kinh tế vùng đồng bằng sông Hồng phát triển dưới tiềm năng, cục bộ giữa các địa phương, nên chưa mang tính dẫn dắt.

Nhận định này được ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư nêu tại hội thảo "Phát triển đầu tư, thương mại dịch vụ, tạo liên kết vùng cho doanh nghiệp" ngày 30/3.

Vùng đồng bằng sông Hồng gồm 11 tỉnh, thành, rộng 21.200 km2, dân số 23 triệu, thu nhập bình quân đầu người cao hơn 1,3 lần bình quân cả nước; tổng thu ngân sách gần 33% cả nước. Vùng được chia làm hai tiểu vùng là bắc đồng bằng sông Hồng [cũng là vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ] và nam đồng bằng sông Hồng.

Theo Bộ trưởng Dũng, giữa hai tiểu vùng này đang phát triển không đồng đều và thiếu sự liên kết giữa các địa phương. Không gian và địa bàn liên kết còn mang tính tự phát, cục bộ.

"Hiện không có cơ chế vùng, chính quyền, ngân sách vùng nên tỉnh nào lo tỉnh đó, nhiệm vụ tỉnh nào tỉnh đó làm", Bộ trưởng Dũng nêu.

Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại hội thảo phát triển đầu tư, thương mại, liên kết vùng cho doanh nghiệp, ngày 30/3. Ảnh: Dũng Cấn

Chẳng hạn, Thái Bình - một trong 4 địa phương thuộc tiểu vùng phía nam đồng bằng sông Hồng - có tỷ trọng ngành nông, lâm và thuỷ sản đứng trong top đầu; tăng trưởng công nghiệp - xây dựng đứng thứ hai trong vùng, nhưng quy mô kinh tế lại thấp. Các ngành dịch vụ của tỉnh phát triển chưa nổi bật, thu nhập bình quân đầu người thuộc nhóm dưới.

"Các dự án đầu tư tại Thái Bình vẫn dựa nhiều vào khai thác lợi thế lao động chi phí thấp, chưa thu hút được nhà đầu tư, tập đoàn lớn hàm lượng công nghệ cao", ông Phạm Đắc Thành, Giám đốc Sở Kế hoạch & Đầu tư tỉnh Thái Bình nói.

Những hạn chế của Thái Bình, theo TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, cũng là vấn đề các địa phương tiểu vùng nam đồng bằng sông Hồng gặp phải. Ông Thiên nhận xét, đang có sự phát triển chênh lệch giữa tiểu vùng phía bắc và nam đồng bằng sông Hồng, khi tiểu vùng phía bắc phát triển, thu hút đầu tư tốt hơn, còn phía nam lại trầm lắng.

"Cơ chế chung chưa tạo động lực, liên kết giữa các tiểu vùng, địa phương trong vùng. Nếu cứ từ từ tiến, đi từng bước một thì đồng bằng sông Hồng sẽ khó phát triển", ông nói.

TS Trần Đình Thiên nói thêm, quản trị, cơ chế vùng thế nào bao năm qua vẫn mơ hồ. Nếu không có những thay đổi cơ bản mang tính đột biến, tạo chính sách tốt thì sẽ rất khó để phát triển.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Trần Mạnh Báo, Chủ tịch HĐQT Công ty Thái Bình Seed, cho rằng muốn phát triển vùng, trước tiên địa phương phải tháo gỡ vướng mắc, đưa ra chính sách cho doanh nghiệp phát triển.

Ông đề nghị, cần có cơ chế tạo hệ thống giao thông kết nối Thái Bình với các địa phương khác trong tiểu vùng nam sông Hồng và các tỉnh khác để tăng tiêu thụ hàng hoá, nông sản, kết nối ngành hàng của các địa phương.

Để xoá bỏ bài toán "tỉnh nào lo tỉnh đó", thiếu liên kết trong vùng đồng bằng sông Hồng, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho hay, bộ này sắp trình Chính phủ về lập Hội đồng điều phối; lập quỹ riêng của vùng và giao hội đồng vùng điều hành, quyết định đầu tư hạ tầng, không phụ thuộc vào phân bổ ngân sách.

Đây là cơ chế đột phá, theo ông Dũng, sẽ giúp vùng tận dụng khả năng của từng tỉnh, hoàn thiện hạ tầng giao thông làm nền tảng cho liên kết vùng. Ngoài ra, năm nay các địa phương phải hoàn thành quy hoạch địa phương, vùng để làm cơ sở thực hiện chiến lược thu hút đầu tư.

Đồng bằng sông Hồng có 11 tỉnh, thành phố, bao gồm Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình.

Đồng bằng sông Hồng được coi là cửa ngõ kết nối nước ta với ASEAN và Trung Quốc – thị trường rộng lớn nhất thế giới. Ngoài ra, đây cũng là vùng được đầu tư hạ tầng giao thông chất lượng cao cả về đường bộ, đường sắt, đường hàng không và đường thủy.

2. Tỉnh duy nhất của Đồng bằng sông Hồng vừa giáp Trung Quốc vừa giáp vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ?

Hòa Bình Quảng Ninh Bắc Kạn Sơn La

Chính xác

Trên đất liền, phía Bắc của Quảng Ninh giáp Quảng Tây [Trung Quốc] với hơn 132km đường biên giới. Phía đông giáp với vịnh Bắc Bộ; phía tây giáp với các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương; phía nam giáp với Hải Phòng. Đường bờ biển của Quảng Ninh dài 250km.

Do đó, Quảng Ninh là tỉnh duy nhất thuộc Đồng bằng sông Hồng vừa giáp Trung Quốc vừa giáp vùng Trung du và miền núi phía Bắc.

3. Địa hình của Quảng Ninh chủ yếu là gì?

Đồi núi Đồng bằng Biển đảo Cao nguyên

Chính xác

Quảng Ninh là tỉnh miền núi, trung du nằm ở vùng duyên hải, với hơn 80% đất đai là đồi núi. Địa hình của tỉnh đa dạng có thể chia thành 3 vùng gồm: vùng núi, vùng trung du và đồng bằng ven biển, vùng biển và hải đảo.

Vùng núi chia làm hai miền: miền Đông từ Tiên Yên qua Bình Liêu, Hải Hà, Đầm Hà đến Móng Cái; miền Tây từ Tiên Yên qua Ba Chẽ, Hoành Bồ, phía bắc Uông Bí và thấp dần xuống ở phía bắc Đông Triều.

4. Quảng Ninh có bao nhiêu hòn đảo?

Hơn 500 Hơn 1.000 Hơn 1.500 Hơn 2.000

Chính xác

Vùng biển và hải đảo của Quảng Ninh là một vùng địa hình độc đáo với hơn 2.000 hòn đảo, chiếm hơn 2/3 số đảo trên cả nước [2.770 đảo]. Trong đó, phần lớn đảo nằm tại vịnh Hạ Long, nơi từng 2 lần được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.

5. Hai huyện đảo ở Quảng Ninh có tên là gì?

Vân Đồn và Cô Tô Cô Tô và Móng Cái Móng Cái và Vân Đồn Cẩm Phả và Cô Tô

Chính xác

Vân Đồn và Cô Tô là hai huyện đảo của Quảng Ninh. Trong đó, Vân Đồn là một huyện đảo miền núi nằm ở vị trí tiền tiêu phía đông bắc của Tổ quốc, có hơn 600 hòn đảo lớn nhỏ với diện tích đất tự nhiên là 551,33km2, chiếm 9,3% diện tích toàn tỉnh Quảng Ninh.

Trong khi đó, Cô Tô là huyện nằm ở phía đông Quảng Ninh, vốn là một quần đảo với khoảng 70 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có ba đảo lớn nhất là Cô Tô, Thanh Lân và đảo Trần. Huyện có diện tích 53.68km2, dân số năm 2022 là 6.778 người, mật độ dân số đạt 126 người/km2.

Chủ Đề