5 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ năm 2022

Theo các chuyên gia trong lĩnh vực sức khỏe sinh sản (SKSS), có hai nguyên nhân chính dẫn đến tử vong mẹ là: nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp. Nguyên nhân trực tiếp là những bệnh tật hoặc biến chứng chỉ xảy ra khi mang thai và sinh đẻ như: băng huyết; nhiễm khuẩn sau đẻ; sản giật; đẻ khó... Nguyên nhân gián tiếp là những bệnh tật mắc phải có thể từ trước hoặc trong khi mang thai nhưng bị tình trạng thai nghén làm cho trầm trọng thêm dẫn đến tử vong như: bệnh tim; lao; viêm gan; sốt rét... Ở Việt Nam, nguyên nhân tử vong trực tiếp gây tử vong mẹ chủ yếu là do băng huyết (từ 34,7 đến 43,4%), sản giật (từ 10,7 đến 18,4%), nhiễm khuẩn (từ 7 đến 14,3%), tắc ối (từ 4,1 đến 4,9%), còn lại thuộc nguyên nhân gián tiếp gây ra.

Theo thống kê các yếu tố về văn hóa, phong tục, tập quán, sự đói nghèo, trình độ văn hóa, đi lại khó khăn, số lần sinh con, độ tuổi sinh con, nghề nghiệp..., cũng góp phần làm cho tỷ lệ tử vong tăng cao. Theo số liệu điều tra của Bộ Y tế cho thấy, nhóm phụ nữ có tỷ suất tử vong thấp nhất trong độ tuổi từ 20 đến 24 và 25 đến 34 tuổi (51 và 67/100 nghìn ca sinh sống), trong khi đó tỷ suất tử vong mẹ tăng dần theo độ tuổi, cao nhất là đối với phụ nữ ở độ tuổi trên 44 (2.578/100 nghìn ca sinh sống). Xu hướng tử vong mẹ giảm dần theo mức độ tăng trình độ học vấn, nếu như đối với nhóm các bà mẹ mù chữ, hoặc chỉ biết đọc, biết viết tỷ suất tử vong mẹ lên đến 299/100 nghìn ca sinh, thì đối với nhóm các bà mẹ có trình độ THPT trở lên chỉ là 22/100 nghìn ca sinh sống. Về nghề nghiệp, tỷ suất tử vong đối với phụ nữ nông thôn hoặc lâm nghiệp là 112/100 nghìn ca sinh sống, tỷ suất này cao hơn rất nhiều so với những phụ nữ làm nghề nghiệp khác như làm công ăn lương, buôn bán, dịch vụ, nội trợ là 24/100 nghìn ca sinh sống. Tỷ suất tử vong mẹ của nhóm dân tộc thiểu số là 107/100 nghìn ca sinh sống so với các phụ nữ thuộc nhóm dân tộc Kinh với tỷ suất chỉ là 39/100 nghìn ca sinh sống. Tử vong mẹ do nhận thức hạn chế và tập quán lạc hậu của người dân chiếm tới 46,7%, nhiều nhất là do thai phụ/sản phụ tự điều trị tại nhà hoặc không điều trị khi có các dấu hiệu bất thường.

Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, với mục tiêu nâng cao chất lượng dân số, cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản, duy trì mức sinh hợp lý, giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu dân số và phân bố dân số, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ðể thực hiện thành công những mục tiêu đã đề ra, trong đó có mục tiêu giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản xuống còn 58,3/100 nghìn trẻ đẻ sống vào năm 2015 và xuống còn 52/100 nghìn vào năm 2020.

Thời gian tới, ngành y tế triển khai các biện pháp hạn chế và khắc phục nhưng yếu tố tác động đến tỷ số tử vong như: Ðầu tư, kiện toàn mạng lưới cung cấp dịch vụ theo phân tuyến kỹ thuật, tập trung vào những vùng khó khăn, bảo đảm cung cấp các gói dịch vụ dân số, chăm sóc SKSS thiết yếu ở tất cả các tuyến, nhất là tuyến cơ sở. Nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua việc hoàn thiện các quy định, quy trình kỹ thuật, nâng cấp cơ sở hạ tầng, bổ sung trang thiết bị, nguồn nhân lực, cũng như tập huấn, cập nhật kiến thức cho đội ngũ những người cung cấp dịch vụ về chăm sóc sức khỏe. Tăng cường thông tin, giáo dục nhằm nâng cao kiến thức cho phụ nữ  trong độ tuổi 15 đến 49 tuổi, gia đình và cộng đồng về làm mẹ an toàn, trong đó tập trung vào việc cung cấp những thông tin về các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai, khi sinh và sau sinh. Tập trung truyền thông vào nhóm người mù chữ, người dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa.

Các bài thuốc cổ truyền có hiệu quả nhất trong lĩnh vực trị:

benh tieu duong

Tử vong sản khoa: 75/100.000 ca

Sáng 9/5, Hội đồng khoa học Sở Y tế TPHCM đã có kết luận về trường hợp tử vong của sản phụ Ngô Thị Hồng Thu (SN 1982 - ngụ ấp Nhị Tân 2, xã Tân Thới Nhì, huyện Hóc Môn) xảy ra vào tối 29/4, trong lúc mổ lấy con, sản phụ bị thuyên tắc ối và trở nên tím tái.

PGS.TS Vũ Thị Nhung, Chủ tịch Hội Phụ sản TPHCM, cho biết :Tỉ lệ thuyên tắc ối ước tính 1/30.000 cho đến 1/8.000 sản phụ trong thai kỳ và không dự phòng được, có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Chính vì hiếm gặp nên các BV tuyến dưới, khi gặp trường hợp này ít có kinh nghiệm xử lý.

Cũng theo PGS Nguyễn Thị Nhung, thuyên tắc ối mặc dù ít gặp nhưng lại có tỉ lệ tử vong rất cao, thường trên 90%. Biến cố xảy ra thường trong giai đoạn cuối của chuyển dạ, với cơn co tử cung mạnh và ối vỡ. Nước ối chảy vào tĩnh mạch, vào tim, phổi, lên não, gây suy hô hấp cấp. 

Với bệnh này, bệnh nhân sẽ bị đột ngột tím tái, trụy tim mạch, rối loạn đông máu và tử vong. Gần như hầu hết các trường hợp bị thuyên tắc ối đều tử vong; chỉ có hy vọng nhỏ nếu phát hiện kịp thời và cấp tốc phẫu thuật lấy con ngay, nhưng hy vọng chỉ cứu được con. 
 

Liên tiếp 6 vụ sản phụ tử trong hơn 2 tuần gầy đây trên cả nước cho thấy, tai nạn trong sản khoa tại VN hiện nay đang ở mức báo động. BS Trần Ngọc Hải, Trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp, BV Phụ sản Từ Dũ TPHCM, cho rằng, trong y tế, ngành sản là tử vong nhiều nhất. Ngay tại các nước phát triển như Mỹ, Anh, tỉ lệ sản phụ chết là 14/100.000 người. Ở VN đầu thập niên 1980, số phụ nữ qua đời trong lúc vượt cạn lên tới 250/100.000 ca. Còn hiện nay, con số tử vong ở VN vẫn còn ở mức cao: 75/100.000 ca. Vì thế, trong một ca sinh thường hay sinh mổ, không ai có thể nói trước sẽ chắc chắn thành công, vì có thể một số trường hợp xảy ra ngoài ý muốn mà BS không thể tiên lượng được...
 

5 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ năm 2022


Sinh mổ chưa chắc đã an toàn

Nếu so sánh số liệu tử vong trên thế giới và VN trong lĩnh vực sản khoa đã cho thấy, tỉ lệ tử vong tại VN vẫn còn quá cao. Giải thích vấn đề này, PGS. TS. BS Vũ Thị Nhung, cảnh báo, bên cạnh những trường hợp bất khả kháng, không thể dự phòng được như tắc mạch ối thì hầu hết những nguyên nhân dẫn đến tử vong mẹ, đều có thể phòng ngừa được. Nhiều thai phụ không chịu đi khám thai định kỳ để phát hiện bệnh sớm và bảo vệ tính mạng của người mẹ như: Chấm dứt thai kỳ sớm, điều trị tiền sản giật, đỡ đẻ vô trùng... Thực tế, nhiều người có những dấu hiệu bất thường nhưng vẫn nghĩ đó là bình thường, lúc đưa đến BV thì đã quá muộn. Thậm chí, nhiều trường hợp sau khi sinh, bị sốt lại nghĩ bị cảm cúm, nhưng thực ra lại là do nhiễm trùng sản dịch, nếu chậm đưa đến BV có thể đe dọa đến tính mạng.

Trước thực trạng nhiều sản phụ tử vong do sinh thường trong thời gian gần đây, khiến các BV đứng trước áp lực bệnh nhân yêu cầu phải sinh mổ cho bằng được. Tuy nhiên, theo PGS Vũ Thị Nhung, nhiều người lầm tưởng mổ lấy thai là an toàn tuyệt đối. Thực tế cho thấy, tỉ lệ tử vong mẹ và tử vong chu sinh (trẻ tử vong từ lúc sinh ra cho đến 28 ngày sau sinh) ở các ca mổ lấy thai cao hơn so với các ca sinh thường. Tỉ lệ tử vong mẹ cũng tăng gấp 4 lần nếu mổ lấy thai so với sinh thường; ngay cả mổ chủ động, tỉ lệ tử vong mẹ cũng tăng 2,84 lần so với sinh thường. Đối với trẻ, mổ lấy thai chủ động không qua chuyển dạ thì nguy cơ hội chứng suy hô hấp cấp cao gấp 2,6 lần, có chuyển dạ rồi mới mổ lấy thai nguy cơ này cao gấp 1,9 lần so với sinh thường; trong khi hội chứng suy hô hấp cấp và sinh non là nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ sơ sinh.

Ngoài ra, trẻ sinh mổ còn bị suy giảm khả năng miễn dịch hơn trẻ sinh thường. Nguyên nhân là khi sinh mổ, trẻ giảm tiếp xúc với vi khuẩn trong những ngày đầu tiên sau sinh vì điều kiện vệ sinh vô trùng chặt chẽ khi mổ, trẻ không có nhiều cơ hội tiếp xúc với vi khuẩn cơ thể mẹ và vi khuẩn chủ yếu từ môi trường bệnh viện (khi bé nằm trong BV).

Hiện tại VN, trong 7 nguyên nhân trực tiếp gây tử vong mẹ, băng huyết là nguyên nhân hàng đầu với 41%; sản giật, tiền sản giật là 21,3%, nhiễm khuẩn sản khoa là 16,6%, phá thai không an toàn là 11,5%. 


Theo Võ Tuấn
Lao động 

Tỷ lệ tử vong mẹ giảm 38 % từ năm 2000 đến 2017

Tỷ lệ tử vong của bà mẹ đề cập đến tử vong do biến chứng từ thai kỳ hoặc sinh con.Từ năm 2000 đến 2017, tỷ lệ tử vong mẹ toàn cầu đã giảm 38 %-từ 342 trường hợp tử vong xuống 211 ca tử vong trên 100.000 ca sinh sống, theo ước tính liên cơ quan của Liên Hợp Quốc.Điều này chuyển thành tỷ lệ giảm trung bình hàng năm là 2,9 %.Mặc dù thực chất, nhưng con số này chưa đến một nửa tỷ lệ 6,4 % hàng năm cần thiết để đạt được mục tiêu toàn cầu phát triển bền vững là 70 trường hợp tử vong mẹ trên 100.000 ca sinh sống.

Đã có những tiến bộ đáng kể kể từ năm 2000. Từ năm 2000 đến 2017, Nam Á đã đạt được mức giảm tỷ lệ phần trăm tổng thể lớn nhất trong MMR, với mức giảm 59 % (từ 395 đến 163 ca tử vong ở mẹ trên 100.000 ca sinh sống).Châu Phi cận Sahara đã đạt được sự giảm đáng kể 39 % tỷ lệ tử vong của mẹ trong giai đoạn này.

Dữ liệu

Tỷ lệ tử vong bà mẹ

  • 5 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ năm 2022

    Xây dựng bộ dữ liệu của riêng bạn

    Xây dựng và tải xuống bộ dữ liệu có thể tùy chỉnh của riêng bạn trên dữ liệu tử vong mẹ

  • Xu hướng ước tính tỷ lệ tử vong mẹ (MMR), tử vong mẹ và nguy cơ tử vong ở mẹ, 2000-2017

    Tháng 9 năm 2021 Tải xuống bảng tính

Tài nguyên

Ghi chú về dữ liệu

Mục tiêu phát triển bền vữngMục tiêuChỉ báo
Mục tiêu 3: Đảm bảo cuộc sống lành mạnh và thúc đẩy hạnh phúc cho mọi lứa tuổiMục tiêu 3.1: Đến năm 2030, hãy giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ toàn cầu xuống dưới 70 trên 100.000 ca sinh sống3.1.1 Tỷ lệ tử vong mẹ

Định nghĩa: Tỷ lệ tử vong mẹ (MMR) được định nghĩa là số ca tử vong của mẹ trong một khoảng thời gian nhất định trên 100.000 ca sinh sống trong cùng khoảng thời gian.Nó mô tả nguy cơ tử vong của mẹ so với số lần sinh sống và về cơ bản nắm bắt nguy cơ tử vong trong một lần mang thai hoặc một lần sinh sống.Tử vong của mẹ: Số ca tử vong của phụ nữ hàng năm do bất kỳ nguyên nhân nào liên quan đến hoặc tăng nặng do mang thai hoặc quản lý của nó (không bao gồm các nguyên nhân tình cờ hoặc ngẫu nhiên) trong khi mang thai và sinh nở hoặc trong vòng 42 ngày sau khi chấm dứt thai kỳ, không phân biệt thời gian và vị trí của thai kỳ, được thể hiện trên 100.000 ca sinh sống, trong một khoảng thời gian xác định. The maternal mortality ratio (MMR) is defined as the number of maternal deaths during a given time period per 100,000 live births during the same time period. It depicts the risk of maternal death relative to the number of live births and essentially captures the risk of death in a single pregnancy or a single live birth. Maternal deaths: The annual number of female deaths from any cause related to or aggravated by pregnancy or its management (excluding accidental or incidental causes) during pregnancy and childbirth or within 42 days of termination of pregnancy, irrespective of the duration and site of the pregnancy, expressed per 100,000 live births, for a specified time period.

Đặt vấn đề: & nbsp; Tất cả các chỉ số tử vong của mẹ có nguồn gốc từ vòng ước tính năm 2019 bao gồm một khoảng thời gian không chắc chắn (UI).Đối với những chỉ số trong đó chỉ có tính toán điểm được báo cáo trong văn bản hoặc bảng, UI có thể được lấy từ tài liệu bổ sung trực tuyến.Cả hai tính toán điểm và UI 80% nên được tính đến khi đánh giá các ước tính.Ví dụ: MMR toàn cầu ước tính năm 2017 là 211 (UI 199 đến 243) Điều này có nghĩa là: Điểm số điểm là 211 và khoảng thời gian không chắc chắn 80% nằm trong khoảng từ 199 đến 243.All maternal mortality indicators derived from the 2019 estimation round include a point-estimate and an 80% uncertainty interval (UI). For those indicators where only point-estimates are reported in the text or tables, UIs can be obtained from supplementary material online. Both point-estimates and 80% UIs should be taken into account when assessing estimates. For example: The estimated 2017 global MMR is 211 (UI 199 to 243) This means: The point-estimate is 211 and the 80% uncertainty interval ranges 199 to 243.

Lượng dữ liệu có sẵn để ước tính một chỉ báo và chất lượng của dữ liệu đó xác định chiều rộng của một chỉ báo UI UI.Khi tính khả dụng và chất lượng dữ liệu được cải thiện, sự chắc chắn sẽ tăng lên rằng một chỉ số giá trị thực của chỉ số gần với ước tính điểm.

Để biết thêm thông tin về siêu dữ liệu, vui lòng truy cập siêu dữ liệu SDG.

Hồ sơ quốc gia tử vong của mẹ

Các hồ sơ dưới đây chi tiết vòng ước tính mới được phát triển bởi WHO, UNICEF, UNFPA, Tập đoàn Ngân hàng Thế giới và Phòng Dân số Liên Hợp Quốc trong các năm 2000-2017.Để biết thêm thông tin truy cập, xu hướng tử vong mẹ: 2000 20152017.

Trên sân khấu thế giới, Hoa Kỳ là một ngoại lệ vì nhiều lý do, một số tốt, một số xấu.Tuy nhiên, ít người đáng báo động hơn là sức khỏe của mẹ.Mặc dù chi tiêu nhiều rưỡi mỗi người cho sức khỏe so với mức trung bình của OECD, tỷ lệ tử vong mẹ ở Hoa Kỳ - số phụ nữ chết trong khi sinh con và mang thai - tăng từ 12 đến 14 ca tử vong trên 100.000 ca sinh sốngTừ năm 1990 đến 2015, đặt Hoa Kỳ ở vị trí thứ 46 trên thế giới.

Trên toàn cầu, tỷ lệ tử vong của mẹ đã giảm 43 % kể từ năm 1990;Hoa Kỳ là quốc gia phát triển duy nhất nơi nó đã đi lên.

Tỷ lệ tử vong của bà mẹ là phần nổi của tảng băng trôi, Tiến sĩ Michael C. Lu, Phó Quản trị viên của Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ, tại Trung tâm Wilson vào ngày 19 tháng 11.Có thêm 75 đến 100 phụ nữ bị biến chứng đe dọa tính mạng khi mang thai hoặc sinh con.

"Phân biệt đối xử là rất thực tế trong hệ thống chăm sóc sức khỏe"

Từ năm 1955 đến 1985, tỷ lệ tử vong của mẹ giảm 99 % ở Hoa Kỳ - Một trong những thành tựu y tế công cộng lớn nhất của thế kỷ 20, Lu nói.Kể từ đó, nó đã đi lên đều đặn.

Mặc dù có bằng chứng rõ ràng về một cuộc khủng hoảng về tỷ lệ tử vong của bà mẹ, nhưng có rất ít sự đồng thuận về nguyên nhân của vấn đề nàybằng cách xóa bỏ áp bức sinh sản và đảm bảo quyền con người.

Ba nguyên nhân y tế hàng đầu gây tử vong mẹ có thể phòng ngừa ở Hoa Kỳ là cục máu đông trong phổi, tăng huyết áp (huyết áp cao) và mất máu.Nhưng tại sao nhiều phụ nữ chết vì họ không rõ ràng, theo một nhóm chuyên gia.

Không thể loại bỏ các nguyên nhân

Sự bất bình đẳng sâu sắc giữa chủng tộc, tình trạng kinh tế xã hội và địa lý là những yếu tố chính.Ngày nay, phụ nữ Mỹ gốc Phi vẫn có khả năng tử vong cao gấp ba lần khi mang thai và sinh con vì [phụ nữ da trắng] và đó là một khoảng cách mà chúng tôi đã có thể đóng cửa trong nhiều thập kỷ, Lu nói.

Vào năm 2014, chị em đã hợp tác với Trung tâm Quyền sinh sản và Viện Sức khỏe Sinh sản Latina Quốc gia để đưa ra một báo cáo về phân biệt chủng tộc và giới tính trong chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ.Họ đã nói chuyện với phụ nữ da đen ở Atlanta, Georgia và Jackson, Mississippi, và tìm thấy những khoảng trống rộng về thông tin về tình dục và sức khỏe tình dục và tiếp cận các dịch vụ.Simpson phân biệt đối xử chủng tộc là rất thực tế trong hệ thống chăm sóc sức khỏe, ngay cả khi [phụ nữ] có sự tương đương về kinh tế xã hội và giáo dục, Simpson nói.

Một người tham gia nhóm tập trung trẻ tuổi cho biết cô được dạy độc quyền ở trường.Simpson cũng kể lại trải nghiệm cá nhân với chị gái khi cô bị áp lực phải có một phần sinh mổ.Cô ấy không nói gì về cách cô ấy muốn sinh con, ông Simpson Simpson nói.

Cô nhấn mạnh rằng những câu chuyện này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cung cấp giáo dục tình dục và cải thiện cách thức mà các bác sĩ và bệnh nhân tương tác với nhau.Cách tiếp cận như vậy giúp trao quyền cho phụ nữ đưa ra lựa chọn sáng suốt về cơ thể của chính họ và sự chăm sóc mà họ nhận được.

Giám sát tốt hơn và báo cáo dữ liệu cũng có thể chiếm một số sự gia tăng tỷ lệ tử vong của mẹ trong hai thập kỷ qua.Vào năm 2003, lần đầu tiên, hộp kiểm cho người mang thai đã được thêm vào giấy chứng tử tiêu chuẩn của Hoa Kỳ lần đầu tiên, Lu nói.

Nhân khẩu học của việc sinh nở cũng đang thay đổi, dẫn đến việc mang thai có nguy cơ cao hơn.Nhiều phụ nữ đang có con sau này trong cuộc sống và nhiều phụ nữ đang mang thai với các tình trạng mãn tính như tăng huyết áp, béo phì, tiểu đường và bệnh tim mạch.Số lượng sinh mổ tăng lên - một cuộc phẫu thuật lớn không phải lúc nào cũng cần thiết - cũng được cho là người đóng góp.

Tiêu chuẩn hóa giao thức

Do đó, việc giảm tử vong liên quan đến mang thai và sinh con và các trường hợp khẩn cấp về sức khỏe đòi hỏi phải có một cách tiếp cận đa hướng, các tham luận viên cho biết.Thay đổi kỹ thuật và hành chính đối với hệ thống y tế là cần thiết cùng với các chương trình tiếp cận cộng đồng và sự chú ý nhiều hơn đến hậu quả sức khỏe của sự chênh lệch kinh tế xã hội.

Cho đến gần đây tại Hoa Kỳ, không có các giao thức y tế được tiêu chuẩn hóa để đối phó với các trường hợp khẩn cấp về sức khỏe bà mẹ, Lu nói.California đã thực hiện giao thức riêng vào năm 2008, điều này đã dẫn đến việc giảm đáng kể tỷ lệ tử vong của mẹ dưới mức trung bình quốc gia.Mô hình thực hành tốt nhất và các giao thức được tiêu chuẩn hóa này cần phải được nhân rộng trên toàn quốc, ông nói.

Một cách để giới thiệu và chuẩn hóa các giao thức trong các cơ sở y tế là các gói an toàn cho bệnh nhân, các hướng dẫn, giao thức nhất quán và các thực tiễn tốt nhất có thể được nhân rộng trong nhiều cài đặt khác nhau, Lu nói.Mục tiêu là để đảm bảo chăm sóc nhất quán trong các bệnh viện, phòng khám và trong số các nhà cung cấp tư nhân cho các điều kiện như tiền sản giật và xuất huyết sản khoa, và để ngăn chặn các phần sinh mổ không cần thiết.

Một sáng kiến như vậy là Liên minh đổi mới về sức khỏe bà mẹ, một quan hệ đối tác quốc gia công tư, hy vọng sẽ tiết kiệm 100.000 phụ nữ ở Hoa Kỳ khỏi cái chết và bệnh tật nghiêm trọng bằng cách cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ phòng ngừa và giảm việc giao hàng Caesarian có nguy cơ thấp, Lu nói.

Các dịch vụ phòng ngừa cũng được coi là chìa khóa vì có mối liên hệ mạnh mẽ giữa sức khỏe bà mẹ và các bệnh mãn tính, chẳng hạn như bệnh tiểu đường, béo phì và tăng huyết áp.

Cộng đồng tiếp cận

Tiếp cận cộng đồng-một yếu tố chính của các can thiệp y tế toàn cầu-đang thu hút nhiều sự chú ý hơn trong nước như một cách để giải quyết sự chênh lệch kinh tế xã hội.Bette Begleiter, phó giám đốc điều hành của Liên minh Chăm sóc thai sản, một tổ chức phi lợi nhuận có trụ sở tại Philadelphia, nói rằng tỷ lệ tử vong của bà mẹ có vẻ khác ở Hoa Kỳ.Lạm dụng chất gây nghiện và sự chênh lệch chủng tộc đáng báo động của người Viking là những yếu tố chính trong hầu hết các trường hợp họ thấy.

Trong một đánh giá về tất cả các trường hợp tử vong của mẹ ở khu vực Greater Philadelphia từ năm 2010 đến 2012 mà Begleiter đã tham gia, cô cho biết các nhà phê bình tìm thấy trong tất cả các trường hợp, phụ nữ có vấn đề lạm dụng chất gây nghiện và có nhiều kinh nghiệm điều trị.Một số người thuộc giám sát phúc lợi trẻ em khi còn nhỏ và là mẹ, và đa số cũng thể hiện các vấn đề hành vi.

"Chúng tôi có thể ngăn cách phụ nữ

Begleiter cho biết, các thành viên ủy ban liên minh chăm sóc thai sản gặp nhau ba tháng một lần để tìm ra những gì có thể được thực hiện để cải thiện những thống kê đó, Begleiter nói.Họ đã tập trung vào việc giúp phụ nữ tiếp cận với nhà ở ổn định, điều trị lạm dụng chất gây nghiện, điều trị sức khỏe tâm thần, và chăm sóc và vận chuyển đáng tin cậy.

Momobile khởi đầu an toàn là một nỗ lực để mang lại sự chăm sóc trực tiếp cho các thành viên cộng đồng trong nhà của họ thay vì dựa vào họ để đến các cơ sở y tế.Để đủ điều kiện tham gia chương trình, một phụ nữ mang thai phải có tình trạng sức khỏe mãn tính như bệnh tiểu đường hoặc tăng huyết áp, chẩn đoán sức khỏe tâm thần, lạm dụng chất gây nghiện hoặc bạo lực đối tác thân mật.Một nhân viên y tế cộng đồng làm việc trực tiếp với người phụ nữ, cung cấp các chuyến thăm tại nhà trong suốt thai kỳ và tối đa bốn tháng sau đó.

Nhân viên y tế cũng có thể cung cấp hỗ trợ doula (lao động);giúp quản lý các tình trạng mãn tính và điều hướng các dịch vụ y tế;kết nối phụ nữ với các nguồn lực cộng đồng để nhà ở, giáo dục và vật tư khẩn cấp;và cung cấp thông tin về việc cho con bú, tiêm chủng và chăm sóc trẻ em.

Mục tiêu cuối cùng là trao quyền cho phụ nữ dễ bị tổn thương chịu trách nhiệm về sự chăm sóc và điều trị của chính họ, Begleiter nói.

Không có câu trả lời duy nhất

Sức khỏe bà mẹ là một vấn đề của giao điểm, Simpson nói, chỉ ra làm thế nào ngay cả một điều gì đó dường như không liên quan như bạo lực gia đình có thể có ảnh hưởng.

Cuối cùng, giống như nhiều vấn đề sức khỏe cộng đồng dai dẳng khác, không có chiến thắng hoặc đạn bạc nhanh để giảm tỷ lệ tử vong của mẹ ở Hoa Kỳ, nhưng những nỗ lực đầy hứa hẹn trên khắp đất nước đã thành công.

Thay đổi kỹ thuật và lập trình, giống như những thay đổi do California thực hiện, có thể làm giảm lỗ hổng của phụ nữ đối với khủng hoảng trước khi chúng bắt đầu, Lu nói.

Việc tạo ra một giao thức được tiêu chuẩn hóa cho kế hoạch hóa gia đình, tăng cường tiếp cận với các nhóm thiểu số có nguy cơ, và tăng tính khả dụng và khả năng chi trả của các biện pháp tránh thai có thể đảo ngược lâu dài là những cách tiếp cận khác cần được xem xét để ngăn chặn các trường hợp khẩn cấp về mang thai không mong muốn và mang thai, mang thai,các thành viên tham gia hội thảo nói.

Ý tưởng về thực tiễn tốt nhất đã phát triển đáng kể trong thập kỷ qua.Hỗ trợ cho con bú, việc sử dụng doulas và theo dõi sau sinh kéo dài hiện được chấp nhận rộng rãi hơn giữa các bác sĩ và bà mẹ y tế.

Simpson cho biết, chúng tôi nói về tất cả mọi thứ trong những cuộc trò chuyện im lặng này.Chúng tôi cần đặt những cuộc trò chuyện này dưới một chiếc ô.

Tài nguyên sự kiện:

  • Triển lãm ảnh

Được viết bởi Anna Bella Korbatov, được biên tập bởi Schuyler Null và Roger-Mark de Souza.