Ý nghĩa của ma xít là gì

Triết học mác - xit trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những di sản lý luận trước đó và những thành tựu của khoa học tự nhiên, xuất phát từ con người hiện thực và hoạt động thực tiễn để xem xét bản chất con người.

Các Mác [1818-1883]

Trong quan niệm của triết học mác - xít, con người là một thực thể trong sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người sinh ra từ tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Luận điểm nổi tiếng về con người được C.Mác viết trong Luận cương về Phoi-ơ-bắc [1845]: "Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội" [1].

Với quan niệm đó, C.Mác chỉ ra rằng bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải tự nhiên mà là lịch sử. Con người là một thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con người.

Ở đây, cá nhân được hiểu với tư cách là những cá nhân sống, là người sáng tạo các quan hệ xã hội; sự phong phú của mỗi cá nhân tuỳ thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ xã hội của nó. Hơn thế, mỗi cá nhân là sự tổng hợp không chỉ của các quan hệ hiện có, mà còn là lịch sử của các quan hệ đó.

Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi tự nhiên, xã hội, biến đổi chính bản thân mình và đã làm nên lịch sử của xã hội loài người. Vạch ra vai trò của mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành bản chất của con người, quan hệ giữa cá nhân và xã hội là một cống hiến quan trọng của triết học mác - xit.

Kế thừa và quán triệt tư tưởng lý luận của C.Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú ý đến con người. Theo Người "chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người" [2].

Với ý nghĩa đó, khái niệm con người mang trong nó bản chất xã hội, con người xã hội, phản ánh các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng trong đó con người hoạt động và sinh sống.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường đặt mỗi cá nhân con người trong mối quan hệ ba chiều: Quan hệ với một cộng đồng xã hội nhất định trong đó mỗi con người là một thành viên; quan hệ với một chế độ xã hội nhất định trong đó con người được làm chủ hay bị áp bức bóc lột; quan hệ với tự nhiên trong đó con người là một bộ phận không thể tách rời.

Con người trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chỉnh thể thống nhất giữa thể lực, tâm lực, trí lực và sự hoạt động. Đó là một hệ thống cấu trúc bao gồm sức khoẻ, tri thức, năng lực thực tiễn, đạo đức, đời sống tinh thần...

Người cho con người là tài sản quý nhất, chăm lo, bồi dưỡng và phát triển con người, coi con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, nhân tố quyết định thành công của cách mạng.

Nhận thức đúng đắn và khơi dậy nguồn lực con người chính là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, xem con người với tư cách là nguồn sáng tạo có ý thức, chủ thể của lịch sử.

Việc đề cao nhân tố con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển là tư tưởng nhất quán của Đảng ta, trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo ra cơ sở vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng đa dạng, phong phú. Lợi ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo cơ hội mới để phát triển cá nhân.

Tuy nhiên, cơ chế này có thể dẫn tới tuyệt đối hóa lợi ích kinh tế, dẫn đến phân hóa giàu nghèo trong xã hội, chứa đựng những khả năng đối lập giữa cá nhân và xã hội. Do đó, chúng ta cần khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường, phát huy vai trò nhân tố con người, thực hiện chiến lược con người của Đảng ta là một mục tiêu có ý nghĩa quyết định để giải quyết tốt mối quan hệ cá nhân - xã hội: Xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao động, có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp, có ý thức cộng đồng, tôn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội.

Đặc biệt, quán triệt sâu sắc tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng đất nước, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm [2021-2030] bổ sung, làm sâu sắc, phong phú hơn quan điểm về nguồn lực con người: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của Nhân dân”[3].

Có thể khẳng định, Luận điểm của C.Mác về bản chất con người đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, đó là những bài học hết sức quý báu trong việc phát huy nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, góp phần sớm hiện thực hóa mục tiêu “đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [4].

ThS. Nguyễn Thị Duyên [Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa]

*Ghi chú:

[1]. C.Mác - Ph. Ăngghen [1995], Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [2]. Hồ Chí Minh [1995], Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3], [4]. Hội đồng Lý luận Trung ương, “Những điểm mới trong các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng”, Nxb Lý luận chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội - 2021, tr 83, 84; 27.

ThS. Nguyễn Thị Duyên [Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa]

[TCTG]- Một trong những công lao to lớn của V.I.Lênin trong việc bảo vệ học thuyết Mác là ông đã đấu tranh không khoan nhượng chống các trào lưu phi mác xít ở nước Nga và quốc tế ngay trong thời kỳ đầu hoạt động lý luận và cách mạng của ông.

Lênin- Người thày vĩ đại của cách mạng vô sản. Ảnh tư liệu

V.I.Lênin là một trong những học trò xuất sắc kế tục sự nghiệp của Mác, là người đầu tiên biến chủ nghĩa xã hội từ lý luận thành hiện thực. Trên cơ sở trung thành với chủ nghĩa Mác và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh của nước Nga thời kỳ đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin tiếp tục làm sâu rộng hơn nền tảng lý luận, làm cho lý luận của Mác về giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng nhân dân lao động, giải phóng xã hội trở thành hiện thực cuộc sống.

1. V.I.Lênin đấu tranh chống các trào lưu phi mác xít ở Nga

Từ những năm 70, 80 của thế kỷ XIX, giai cấp công nhân Nga đã bắt đầu thức tỉnh và đấu tranh chống tư bản. Nhiều cuộc bãi công lớn của công nhân nổ ra và các tổ chức liên hiệp công nhân bắt đầu xuất hiện.

Thời kỳ này, chủ nghĩa Mác cũng đã chiếm ưu thế trong phong trào công nhân Tây Âu và bắt đầu thâm nhập vào nước Nga, làm xuất hiện những tổ chức, các nhóm mác xít ở Nga, tiêu biểu như nhóm “Giải phóng lao động” của Plêkhanốp. V.I.Lênin đã gia nhập một trong những tiểu tổ chức mác xít do Phêđêxep tổ chức và bắt đầu nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa Mác.

Cũng vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên phạm vi thế giới đã phát triển và chuyển thành chủ nghĩa đế quốc làm xuất hiện nhiều đặc điểm mới so với CNTB trước đây. Nhiều người ở Nga đã không hiểu sự thay đổi này, tỏ ra hoang mang, nghi ngờ chủ chủ nghĩa Mác dẫn tới sự xuất hiện của chủ nghĩa cơ hội và xét lại nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác.

Là lãnh tụ của giai cấp công nhân quốc tế, V.I.Lênin đã đấu tranh bảo vệ và phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác, Người chỉ rõ: đối với chủ nghĩa Mác, nghĩa vụ thiêng liêng của những người mác xít là phải bảo vệ lý luận đó, chống lại những mưu toan định xuyên tạc và hạ thấp lý luận đó. Do vậy, ngay từ những năm đầu giữ vai trò lãnh tụ của giai cấp công nhân quốc tế cũng như công nhân Nga, V.I.Lênin đã đấu tranh quyết liệt chống chủ nghĩa dân túy, phái mác xít hợp pháp và chủ nghĩa cơ hội, xét lại đủ mọi màu sắc ở Nga và quốc tế thông qua một số tác phẩm tiêu biểu của ông viết thời kỳ trước cách mạng tháng Mười Nga.

1.1. V.I.Lênin đấu tranh chống phái dân túy.

Là một trào lưu dân chủ, chủ nghĩa dân túy phát triển mạnh vào những năm 70 thế kỷ XIX do những trí thức có tinh thần cách mạng sáng lập, đứng đầu là Trécnưsépxki. Những thanh niên học sinh mặc quần áo nông dân, đi vào nông thôn, kích động nông dân chống chuyên chế Nga hoàng. Những người theo phái này căm thù sâu sắc chế độ nông nô; nhiệt tình bênh vực chủ trương mở rộng giáo dục, chế độ tự quản, âu hóa nước Nga trong tất cả các lĩnh vực; bênh vực lợi ích của quần chúng, chủ yếu là nông dân. Tuy nhiên, phong trào đấu tranh của phái dân túy thất bại nặng nề và tan ra nhanh chóng do trong quan điểm cũng như biện pháp đấu tranh của họ đậm nét không tưởng tiểu tư sản.

Cho tới những năm 90/XIX, chủ nghĩa dân túy lại hồi sinh nhưng mang nặng tính tự do và trở thành trào lưu phản động, thỏa hiệp, đi đến làm tay sai cho Nga hoàng và thực chất là bảo vệ cho phú nông.

V.I.Lênin đánh giá rất cao những hành động cách mạng của phái dân túy thời kỳ đầu, coi đó là một trào lưu dân chủ - cách mạng trong một nước đang ở vào đêm trước cuộc cách mạng tư sản. Tuy nhiên, V.I.Lênin đã đấu tranh phê phán quyết liệt trước những quan điểm và thái độ phản động của phái này vào những năm 90/XIX. Chủ nghĩa dân túy, theo V.I.Lênin đó là một trào lưu chống chủ nghĩa Mác gay gắt bởi vì: 1/ Về cơ sở triết học, phái dân túy dựa trên nền tảng chủ nghĩa duy tâm chủ quan, nó phủ nhận chủ nghĩa Mác khi cho rằng chủ nghĩa Mác chỉ là sự sao chép lại “tam đoạn luận” của Hêghen chứ không có gì mới; bài xích những nguyên lý cơ bản chủ nghĩa duy vật của Mác; xem xét sự phát triển của lịch sử xã hội chỉ là quy luật tự nhiên và coi tự do chỉ là hoạt động của con người không phụ thuộc vào quy luật tự nhiên hay xã hội. 2/ Về quan điểm kinh tế, phái dân túy phủ nhận sự xuất hiện CNTB ở Nga trên cơ sở cho rằng ở Nga thời kỳ này chưa có CNTB và nếu có thì cũng không phải là do sự phát triển của lực lượng sản xuất mà là do sai lầm chủ quan; hoặc nếu có CNTB ở Nga thì nó cũng không thể đi vào đời sống của nhân dân Nga, không làm cho nông dân phá sản hoặc bần cùng. 3/ Về cương lĩnh chính trị, phái dân túy cho rằng nông dân là lực lượng trung tâm của cách mạng, do vậy họ chủ trương đi lên CNXH từ công xã nông thôn. Họ chủ trương thực hiện các biện pháp đấu tranh cải lương vụn vặt: cải tiến kỹ thuật, thay đổi ngân hàng, họ không muốn đụng chạm đến Nhà nước vì theo họ, nhà nước là siêu giai cấp, nó bảo vệ cho mọi người [cả giàu và nghèo], chỉ cần yêu cầu Nhà nước chuyên chế Nga hoàng thay đổi bản chất…

Trước tình hình đó, V.I.Lênin đã viết hàng loạt tác phẩm để phê phán những sai lầm, phản động của phái dân túy, vạch rõ bản chất tay sai cho Nga hoàng và đi ngược lại với chủ nghĩa Mác của phái này.

Trước hết, V.I. Lênin đã đánh giá một cách mác-xít tình hình nông thôn, vạch ra những quá trình và các hình thức phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp, và đập tan câu chuyện hoang đường của phái dân tuý nói rằng dường như chủ nghĩa tư bản không đụng chạm đến nông dân "công xã". Lê-nin chứng minh rằng trái với lý luận của phái dân tuý, chủ nghĩa tư bản ở Nga vẫn phát triển với một sức mạnh không gì kìm hãm nổi, rằng nông dân thực tế đã phân chia thành những giai cấp đối địch: giai cấp tư sản nông thôn và giai cấp vô sản nông nghiệp, là hai giai cấp đã phát triển do sự tan rã của trung nông dưới chủ nghĩa tư bản. Trên cơ sở tài liệu rất phong phú, Lênin đã vạch trần tính chất tiểu tư sản của công xã nông thôn, những quan niệm phi lý và tai hại của phái dân tuý coi công xã nông dân là nền tảng của chủ nghĩa xã hội.

Trong tác phẩm nổi tiếng “Những người bạn dân là thế nào, họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?” V.I.Lênin đã trình bày một cách sâu sắc thế giới quan khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết kinh tế của C.Mác, phê phán một cách toàn diện các quan điểm sai trái về triết học, kinh tế, chính trị; về cương lĩnh và sách lược của phái dân tuý tự do chủ nghĩa. V.I.Lênin chỉ ra rằng cương lĩnh chính trị của những "người bạn dân" giả dối đó thể hiện lợi ích của bọn cu-lắc. Người vạch mặt phái dân tuý tự do chủ nghĩa là những tên cải lương điển hình, bọn này phản đối cuộc đấu tranh cách mạng chống chế độ chuyên chế Nga hoàng và theo họ chế độ này là một lực lượng đứng trên các giai cấp và có khả năng cải thiện tình cảnh của nhân dân. Người cũng vạch rõ tính chất vô căn cứ và sai lầm của những lý luận dân tuý về con đường phát triển đặc biệt, phi tư bản chủ nghĩa của nước Nga, và chỉ rõ rằng phái dân tuý tự do chủ nghĩa đã cố tình làm lu mờ sự thật về tình trạng bóc lột tư bản chủ nghĩa ở nông thôn.

Trong tác phẩm này, V.I.Lênin đã vạch mặt các nhà lý luận của phái dân tuý là những đại biểu của phương pháp phản khoa học, chủ quan trong xã hội học, là những nhà duy tâm phủ nhận tính khách quan của các quy luật phát triển xã hội và vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Các nhà dân tuý đã hướng tiến trình lịch sử một cách tuỳ tiện theo ý muốn của những cá nhân "xuất chúng". V.I.Lênin đã đập tan những quan điểm chủ quan đó và đưa ra quan niệm duy vật về đời sống xã hội để đối lập với các quan điểm đó; Người vạch ra nội dung của học thuyết mác-xít về xã hội và chỉ rõ rằng tiến trình lịch sử được quyết định bởi những quy luật phát triển khách quan, rằng động lực chủ yếu của sự phát triển của xã hội là nhân dân, là các giai cấp mà cuộc đấu tranh của họ quyết định sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy, cũng trong tác phẩm này, lần đầu tiên V.I.Lênin đã chỉ rõ phương sách chủ yếu để lật đổ chế độ Nga hoàng, bọn địa chủ và giai cấp tư sản, và thành lập xã hội cộng sản chủ nghĩa của những người dân chủ - xã hội Nga là phải thành lập một đảng công nhân mác-xít và phải tổ chức được liên minh cách mạng giữa giai cấp công nhân và nông dân.

Nhấn mạnh vai trò lịch sử vĩ đại của giai cấp công nhân Nga, V.I.Lênin viết: "Những người dân chủ - xã hội hướng toàn bộ sự chú ý và toàn bộ hoạt động của mình vào giai cấp công nhân. Khi những người đại biểu tiên tiến của giai cấp đó đã thấm nhuần được những tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học, tư tưởng về vai trò lịch sử của người công nhân Nga, khi các tư tưởng đó đã được phổ biến rộng rãi, và khi mà trong hàng ngũ công nhân đã lập ra được các tổ chức vững chắc có thể biến cuộc chiến tranh kinh tế phân tán hiện nay của công nhân thành một cuộc đấu tranh thì lúc đó người công nhân Nga, đứng đầu tất cả các phần tử-giai cấp tự giác, dân chủ, sẽ đập đổ được chủ nghĩa chuyên chế và đưa giai cấp vô sản Nga [sát cánh với giai cấp vô sản tất cả các nước], thông qua con đường trực tiếp đấu tranh chính trị công khai, tiến tới cách mạng cộng sản chủ nghĩa thắng lợi"1

1.2. V.I.Lênin đấu tranh chống phái mác xít hợp pháp ở Nga

Chủ nghĩa Mác được truyền bá rộng rãi vào nước Nga cuối thế kỷ XIX và trở thành hiện tượng mới mẻ hấp dẫn khá nhiều tầng lớp, kể cả một bộ phận thanh niên tư sản. Tuy nhiên, với không ít người ở Nga lúc này, chủ nghĩa Mác không phải là vũ khí đấu tranh giai cấp, cải tạo xã hội, mà chỉ là một hiện tượng mới mẻ và xem nó như là một thứ “mốt”. Họ có biệt danh mác xít hợp pháp bởi vì họ học và viết, trích dẫn chủ nghĩa Mác rất nhiều, đăng công khai trên các báo chí Nga hoàng, nhưng những gì họ viết, trích dẫn về chủ nghĩa Mác đã bị cắt xén, xuyên tạc rất nhiều, đến mức Nga hoàng đã cho phép đăng tải.

Phái mác xít hợp pháp phê phán chủ nghĩa dân túy vì họ cho rằng phái dân túy đã bảo vệ nền sản xuất nhỏ; đồng thời mác xít hợp pháp tán dương CNTB và tìm cách làm cho chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân thích nghi với CNTB trong lý luận của Mác. Tuy nhiên, họ không hề đả động gì đến cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; không đề cập gì đến cuộc cách mạng chống chế độ Nga hoàng.

V.I.Lênin đã gọi phái mác xít hợp pháp là trào lưu chủ nghĩa mác soi mình trong văn hóa tư sản. Trong tác phẩm “Nội dung kinh tế của phái dân tuý và sự phê bình nó trong tác phẩm của ông Xtơ-ru-vê”, V. I. Lê-nin đã phê phán việc P. Xtơ-ru-vê, đại biểu của "chủ nghĩa Mác hợp pháp" đã xuyên tạc chủ nghĩa Mác theo tinh thần tư sản. Người vạch trần những mưu toan của bọn "mác-xít hợp pháp" muốn tước bỏ nội dung cách mạng của chủ nghĩa Mác, và chỉ rõ rằng chủ nghĩa khách quan tư sản là cơ sở của các quan điểm của bọn "mác-xít hợp pháp", chủ nghĩa đó biện hộ cho chủ nghĩa tư bản và làm lu mờ những mâu thuẫn giai cấp. Lênin coi chủ nghĩa Xtơ-ru-vê, "chủ nghĩa Mác hợp pháp" là mầm mống của chủ nghĩa xét lại quốc tế. Cùng với việc phê phán chủ nghĩa khách quan tư sản, V.I.Lênin đã chứng minh nguyên tắc tính đảng trong khoa học xã hội và trong triết học. "... Chủ nghĩa duy vật, có thể nói là mang trong mình nó tính đảng, nghĩa là bắt buộc người ta, mỗi khi đánh giá một sự biến, phải trực tiếp và công khai đứng trên quan điểm của một tập đoàn xã hội nhất định...” [2]. V.I.Lê-nin chỉ rõ rằng trong điều kiện xã hội tư sản, cái gọi là chủ nghĩa khách quan trong khoa học là một sự che đậy những lợi ích giai cấp vụ lợi của các giai cấp bóc lột và thống trị. Khoa học mác-xít, gắn bó một cách công khai và mật thiết với giai cấp công nhân, phục vụ sự nghiệp cải tạo xã hội bằng con đường cách mạng, luôn luôn quan tâm đến việc vạch ra những quy luật phát triển của xã hội. Vì vậy tính đảng của khoa học mác-xít trùng với tính khoa học.

Khi phân tích bản chất của phái mác xít hợp pháp, V.I.Lênin cũng chỉ ra và lưu ý với những người cách mạng dân chủ - xã hội Nga rằng, trước mắt có thể liên minh tạm thời với phái này nhằm mục đích để chống lại phái dân túy chứ không phải trên Cương lĩnh hay sách lược. Coi liên minh này là tạm thời, có lợi cho cách mạng vì nó góp phần củng cố phong trào công nhân, nhưng Lênin cũng nhấn mạnh, những người cách mạng cũng phải phê phán sâu sắc những người bạn đồng minh tạm thời này.

1.3- V.I.Lênin đấu tranh chống phái kinh tế

Nếu cuộc đấu tranh của V.I.Lênin chống phái dân túy và phái mác xít hợp pháp nhằm chống ảnh hưởng từ bên ngoài vào phong trào công nhân Nga thì đấu tranh chống phái kinh tế của Lênin là cuộc đấu tranh trực tiếp ngay trong nội bộ phong trào công nhân, nội bộ những người cách mạng dân chủ - xã hội Nga lúc bấy giờ.

Năm 1895, việc thành lập một chính đảng mác xít ở Nga đã chín muồi và V.I.Lênin đã lãnh đạo thành lập Đảng dân chủ - xã hội cho phong trào công nhân Nga với tên “Hội liên hiệp chiến đấu giải phóng thợ thuyền Pêtécbua, nhưng ngay sau đó, phong trào công nhân Nga đã xuất hiện hai xu hướng: xu hướng cách mạng và xu hướng cơ hội chủ nghĩa. Tháng 2 năm 1897 V.I.Lênin bị bắt, quyền lãnh đạo phong trào công nhân Nga thuộc về phái cơ hội chủ nghĩa – đó là phái kinh tế.

Nội dung chủ yếu của phái kinh tế thể hiện ở những luận điểm: 1/ Họ quy toàn bộ mục đích của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân vào cuộc đấu tranh kinh tế nhằm cải thiện đời sống kinh tế trước mắt chứ không nhằm cải tạo chế độ. Để đạt được mục đích đó chỉ cần đấu tranh kinh tế chứ không cần đấu tranh chính trị, đấu tranh giai cấp; đồng thời phái này nhấn mạnh chỉ cần đấu tranh trong phạm vi chủ nghĩa công liên, không cần vượt ra ngoài khuôn khổ chủ nghĩa tư bản. 2/ Họ bênh vực tình trạng phân tán cục bộ, bè phái, thực chất là phản đối việc đi tới thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân.

Đặc sắc trong chống lại chủ nghĩa Mác của phái kinh tế khác với các phái cơ hội, xét lại khác ở chỗ họ khinh thường lý luận đến mức cho rằng với họ lý luận chẳng qua chỉ là sự bày vẽ của các nhà học lý chủ nghĩa, còn các nhà kinh tế chỉ cần thực tiễn.

Thời kỳ này, Lê-nin đang sống ở Thụy Sĩ, Tiệp Khắc, Đức, Anh, Pháp... và cùng với nhóm "Giải phóng lao động" ra tờ báo "Tia lửa", "Từ tia lửa sẽ bùng lên ngọn lửa". Trong bài xã luận của số báo đầu tiên, Lê-nin đã nêu bật nhiệm vụ cơ bản lúc này là phải thành lập một đảng mác-xít vững mạnh, có tổ chức, gắn chặt với phong trào công nhân. Không có một đảng như thế, giai cấp công nhân không thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử vĩ đại của mình là giải phóng giai cấp mình và toàn thể quần chúng lao động.

Năm 1902, Lê-nin viết tác phẩm "Làm gì?", trong đó đã vạch trần những khuynh hướng và tác hại của chủ nghĩa cơ hội đối với phong trào công nhân quốc tế, chỉ ra "phái kinh tế" ở Nga thực chất cũng chỉ là chủ nghĩa cơ hội của Béc-xtanh ở Tây Âu, nó chủ trương hạn chế giai cấp công nhân chỉ đấu tranh kinh tế, không đấu tranh chính trị, chỉ nhằm cải thiện điều kiện lao động trong khuôn khổ xã hội tư bản. Người chỉ rõ: phái kinh tế đã phủ nhận tầm quan trọng của lý luận vì họ sùng bái quá mức tính tự phát của phong trào công nhân, coi đó như “đập chắn” không cho phong trào công nhân đi tới tự giác. Phê phán sâu sắc luận điểm coi thường lý luận của phái kinh tế, đồng thời, Lê-nin đã vạch kế hoạch xây dựng đảng về mặt tổ chức, đặt cơ sở cho học thuyết về một đảng vô sản kiểu mới của giai cấp công nhân. V.I.Lênin chỉ rõ trong tác phẩm “Làm gì?”: không có lý luận không có phong trào cách mạng, chỉ có đảng nào được vũ khí lý luận thì mới có thể đóng vai trò lãnh đạo.

V.I.Lênin cho rằng lúc ấy nước Nga đang rất cần lý luận để loại trừ các trào lưu phi mác xít vì các trào lưu này đang có nguy cơ làm cho nước Nga đi trệch chủ nghĩa Mác, nên theo Lênin, Đảng xã hội – dân chủ Nga lúc đó có nhiệm vụ đấu tranh rất phức tạp và độc đáo mà trước đó chưa có đảng xã hội – dân chủ nào tiến hành, do đó phải có lý luận dẫn đường làm kim chỉ nam cho hành động.

Với phái "Tia lửa" do Lê-nin lãnh đạo là hạt nhân chuẩn bị, tại Đại hội lần thứ hai của Đảng Công nhân xã hội - dân chủ Nga [tháng 7-1903], những tư tưởng của Lê-nin về một đảng vô sản kiểu mới đã đánh bại hoàn toàn phái kinh tế. Đại hội đã thảo luận và thông qua những văn kiện cực kỳ quan trọng: Cương lĩnh của Đảng với nhiệm vụ chủ yếu là đấu tranh cho chuyên chính vô sản; Điều lệ của Đảng dựa trên những nguyên tắc tổ chức của một đảng mác-xít kiểu mới theo tư tưởng của Lê-nin. Nhưng cũng tại Đại hội đã xuất hiện một trào lưu cơ hội chủ nghĩa mới của phái Men-sê-vích đối lập hoàn toàn với Lê-nin và những người Bôn-sê-vích.

Như thế, Đại hội lần thứ hai của Đảng Công nhân xã hội - dân chủ Nga đã đánh dấu một bước ngoặt trong phong trào công nhân quốc tế. Đại hội đã thành lập một đảng Mác-xít chiến đấu, cách mạng của giai cấp công nhân Nga, về nguyên tắc khác hẳn các đảng cải lương của Quốc tế thứ hai.

Có thể thấy rằng ngay từ lúc mới bắt đầu hoạt động cách mạng, Lê-nin đã cho ta một tấm gương mẫu mực về sự phê phán có tính nguyên tắc chống các lý luận xã hội chủ nghĩa giả mạo và xét lại, một tấm gương mẫu mực về tinh thần đấu tranh một lòng một dạ vì lợi ích của giai cấp công nhân. Các tác phẩm của V.I.Lênin thời kỳ này toát lên sự nhận thức sáng tạo về chủ nghĩa Mác và sự vận dụng tài tình chủ nghĩa Mác vào việc phân tích tình hình kinh tế, chính trị ở Nga vào việc xác định những nhiệm vụ đặt ra trước phong trào công nhân Nga. Người nhấn mạnh, những người cộng sản phải vận dụng chủ nghĩa Mác một cách sáng tạo vào hoàn cảnh mới: “chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng, lý luận đó chỉ đặt nền móng cho một khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt”[3]. Tư tưởng của V I.Lênin cũng dạy giai cấp vô sản thế giới, các Đảng Cộng sản và công nhân trong tất cả các nước biết cách vạch mặt cái số đông đảo những "người bạn dân" và bọn xét lại hiện nay, là bọn đang tìm cách lợi dụng phong trào công nhân nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản.

II. Vận dụng quan điểm đấu tranh chống các trào lưu phi mác xít của V.I.Lênin trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm cơ hội, xét lại ở Việt Nam hiện nay

Từ Đại hội X của Đảng đến nay, tình hình đất nước diễn biến khá phức tạp trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, phần nào tác động đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân. Bên cạnh dòng tư tưởng chủ đạo là ý thức độc lập dân tộc cao, ý chí tự lực tự cường, kiên trì xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tình hình đang tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn, làm cho cuộc đấu tranh ý thức hệ ở nước ta những năm gần đây trở nên ngày càng phức tạp. Các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội tấn công vào Việt Nam từ nhiều phía, trong đó nổi lên hai xu hướng chính:

Một là: Các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” ngày càng quyết liệt về cường độ; toàn diện về nội dung; đa dạng về phương pháp để tấn công vào Việt Nam nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta - chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đi đến làm suy yếu và thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta theo con đường khác với con đường xã hội chủ nghĩa. Chúng ra sức phủ nhận, xuyên tạc lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, cho rằng chủ nghĩa Mác – Lênin không còn phù hợp với con đường phát triển của Việt Nam vì học thuyết này đã bị thất bại ở Đông Âu và Liên Xô…

Hai là: các hoạt động “tự diễn biến”, với xu hướng ngày càng phức tạp.

Một bộ phận suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt chủ nghĩa, phai nhạt lý tưởng cách mạng. Đây là kết quả của sự “tự diễn biến” dưới sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau.

Trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước, nhất là trên mạng internet đã xuất hiện những bài viết, trả lời phỏng vấn thể hiện sự “tự diễn biến” về tư tưởng, công khai xét lại chủ nghĩa Mác-Lênin, hùa với những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch tạo nên những bi quan, hoang mang nghi vấn trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên, gây chia rẽ nội bộ làm yếu sức đề kháng, tạo cơ sở cho sự xâm nhập dễ dàng của chiến lược “diễn biến hòa bình” ...

Trước tình hình trên đây, một nhiệm vụ cấp bách được đặt ra cho công tác tư tưởng, lý luận trong thời kỳ mới là phải tăng cường tính thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, ngăn chặn, đẩy lùi những nhân tố “tự diễn biến”, góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ bảo nền tảng tư tưởng của Đảng, mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước trong tình hình mới. Do vậy, cần phải có sự thống nhất ý chí và hành động của toàn đảng, toàn dân trên nền tảng tư tưởng và Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng. Mà muốn có sự thống nhất vững chắc thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo [Hồ Chí Minh].

Xây dựng cho được một hệ thống quan điểm lý luận thật sáng tỏ, có tính thuyết phục về cơ sở khoa học và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, kiên trì và sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tuân thủ nghiêm minh và sáng suốt tư tưởng Hồ Chí Minh là điều tiên quyết, mang tính cơ bản, giữ vị trí nền tảng của an ninh tư tưởng hiện nay. Muốn vậy phải phát huy vai trò của đội ngũ làm công tác lý luận, của khoa học xã hội và nhân văn, của cả hệ thống chính trị trong việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của nước ta trong quỹ đạo vận hành của lịch sử nhân loại và trong bối cảnh chung toàn cầu.

Đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học chuyên sâu về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lựa chọn những cán bộ có đủ tiêu chuẩn, khả năng làm công tác lý luận và có chế độ đãi ngộ thỏa đáng, đồng thời quan tâm đào tạo, bồi dưỡng để dần dần hình thành những nhà khoa học đầu đàn, có phẩm chất, đạo đức, có tư duy lý luận sáng tạo, năng động trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trong cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận.

Giữ vững trận địa tư tưởng trong toàn đảng, toàn dân, thường xuyên truyền tải, giáo dục một cách thuyết phục để nâng cao sức đề kháng cho cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, phóng viên báo chí, sinh viên - học sinh, công nhân và các tầng lớp nhân dân từ cơ sở là nền tảng vững chắc cho cuộc đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, ngăn ngừa “tự diễn biến” “tự chuyển hóa”, bảo đảm an ninh tư tưởng, góp phần tích cực giữ vững an ninh quốc gia trong mọi tình huống

Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, an ninh - quốc phòng, thực hiện tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tập trung vào việc giáo dục đạo đức cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ, đảng viên, đồng thời với việc cải cách hành chính nhà nước, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu dân, làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh. Có thể nói, thực hiện thắng lợi trên thực tiễn sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chính là vũ khí phê phán mạnh mẽ nhất đối với các quan điểm sai trái, thù địch.

PGS.TS Đỗ Thị Thạch [*]

[*] Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện CT – HC quốc gia Hồ Chí Minh

1. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ. M. 1974, T.1, tr. 385-386

2. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. TB. M. 1974, T.1, tr. 524 - 525

3.V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. TB, M.1974, T.4, tr.232

Video liên quan

Chủ Đề