Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản Lão Hạc

1 Truyện ngắn2 ngôi thứ nhất3 Vì gia cảnh nghèo khó mà còn trải qua một trận ốm, lão đã kiệt quệ, không còn sức để nuôi nổi bản thân, huống chi là còn có thêm một con chó. Nên ông lão đành cắn răng bán "cậu Vàng" đi.

4 Qua đoạn trích tác giả đã thể hiện sự chân thực và cảm động về số phận đau thương của người nông dân trong xã hội phong kiến cũ và ca ngợi những phẩm chất cao quý của họ. Đồng thời cũng cho thấy sự yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với những người nông dân như thế.


5 - Mối quan hệ: cậu Vàng vừa là kỉ niệm, vừa là tín vật của người con, cũng là người bạn trung thành trong cuộc sống quạnh hiu của lão.

- Lão đau khổ khi cùng đường đến mức bán cậu Vàng: “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậc nước...Lão hu hu khóc”, lão đau đớn cùng cực, nghẹn ngào giày xé vì “đã trót đánh lừa một con chó”.

↠ Người nông dân nghèo khổ, lương thiện, trái tim vô cùng nhân hậu, trong sạch.

- Tình huống truyện: Bất ngờ, ngoài sự dự đoán của độc giả. Tình huống đó làm sáng ngời nhân cách của lão Hạc trong lòng người đọc [không ai nghĩ rằng lão Hạc lại tự hủy diệt cuộc đời mình bằng bả chó.

- Cách xây dựng nhân vật: Chân thực sinh động, từ ngoại hình đến nội tâm, đặc biệt là miêu tả khuôn mặt của lão Hạc khi khóc.

- Tác dụng của ngôi kể: Chuyện được kể theo ngôi thứ nhất, làm cho câu chuyện trở nên gần gũi chân thực, làm cho người đọc có cảm tưởng câu chuyện như đang diễn ra trước mắt.
7 - Dửng dưng thờ ơ khi nghe lão Hạc bảo sẽ bán chó, vì lão nói với “tôi” rất nhiều lần trước đây. - Quan tâm, muốn sẻ chia cùng lão khi dấu vợ ngấm ngầm giúp lão. ... - Kính trọng nhân cách lão khi biết nguyên nhân cái chết của lão Hạc.
Trong truyện Lão Hạc đã chết bất ngờ trong sự nghèo đói, túng quẫn, cái chết đó hậu quả của một xã hội phong kiến mục nát. Cái chết dữ dội, đau đớn, sống trên đời có nhiều cái chết nhẹ nhàng nhưng Lão Hạc lại chọn cái chết thật đau đớn như một lời tạ lỗi với cậu Vàng- kỉ vật người con trai.

Tả một nghề nghiệp mà em mong muốn lớp 6 [Ngữ văn - Lớp 6]

2 trả lời

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ........................................... NGUYỄN THỊ HUỆ SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM PHONG CÁCH NGÔN NGỮ CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN VÀ NAM CAO [QUA 2 TUYỂN TẬP TRUYỆN NGẮN] LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội, 5/ 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ........................................... NGUYỄN THỊ HUỆ SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM PHONG CÁCH NGÔN NGỮ CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN VÀ NAM CAO [QUA 2 TUYỂN TẬP TRUYỆN NGẮN] Chuyên ngành: Ngôn ngữ Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hữu Đạt Hà Nội, 5/2013 MỤC LỤC MỞ ĐẦU..........................................................................................................4 NỘI DUNG..................................................................................................11 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN...........................................................11 1.1. Vài nét tóm tắt về nhà văn Nguyễn Công Hoan và Nam Cao.................................................................................................11 1.1.1. Hoàn cảnh xuất thân của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao................................................................................................11 1.1.2. Các tác phẩm trước cách mạng.......................................12 1.1.2.1. Các tác phẩm trước cách mạng của Nguyễn Công Hoan........................................................................................................12 1.1.2.2. Các tác phẩm trước cách mạng của Nam Cao.......13 1.2. Khái niệm về phong cách và phong cách nghệ thuật.............................................................................................................14 1.2.1. Khái niệm về phong cách và phong cách học............14 1.2.2. Phong cách chức năng ngôn ngữ và phong cách nghệ thuật.............15 1.2.2.1. Cơ sở phân chia phong cách chức năng.....................................15 1.2.2.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật...............................................17 1.3. Khái niệm người trần thuật và điểm nhìn trần thuật......................22 1.3.1. Khái niệm về người trần thuật và ngôi trần thuật...........................22 1.3.2. Điểm nhìn trần thuật.......................................................................25 1.4. Ngôn ngữ trần thuật và giọng điệu trần thuật.................................30 1.4.1. Ngôn ngữ trần thuật........................................................................30 1.4.2. Giọng điệu trần thuật......................................................................35 1.5. Các kiểu câu giàu sắc thái..................................................................37 1.5.1. Câu đặc biệt....................................................................................37 1.5.2. Câu tỉnh lược..................................................................................40 1.5.3. Câu dưới bậc...................................................................................42 1 Chương 2: So Sánh đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trần thuật của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao...............................................................................49 2.1. Người trần thuật và điểm nhìn trần thuật........................................49 2.1.1. Người trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan................................................................................................49 2.1.1.1. Người trần thuật ngôi thứ 3 với điểm nhìn bên ngoài..............49 2.1.1.2. Người trần thuật ngôi thứ 3 với điểm nhìn bên trong..............51 2.1.1.3. Người trần thuật ngôi thứ nhất.................................................52 2.1.2. Người trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao......53 2.1.2.1. Người trần thuật ngôi thứ 3 với điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên trong và phức hợp nhiều điểm nhìn...................................................53 2.1.2.2. Truyện ngắn Nam Cao với chủ thể trần thuật ngôi thứ nhất....61 2.1.3. So sánh đặc điểm người trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Nam cao..........................................63 2.2. Ngôn ngữ trần thuật...........................................................................66 2.2.1. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan.........66 2.2.2. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao..........................73 2.2.3. So sánh đặc điểm ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Nam cao............................................................................77 Chương 3: So Sánh đặc điểm sử dụng giọng điệu trần thuật và cách sử dụng một số kiểu câu giàu sắc thái của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao......80 3.1. Giọng điệu trần thuật.........................................................................80 3.1.1. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan........80 3.1.1.1. Giọng khách quan, lạnh lùng...................................................80 3.1.1.2. Giọng châm biếm, đả kích sâu cay..........................................83 3.1.1.3. Giọng bông lơn, suồng sã pha chút hóm hỉnh..........................86 3.1.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao........................89 3.1.2.1. Truyện ngắn Nam Cao với giọng văn tự sự triết lý, suy ngẫm, phẩm bình.................................................................................................89 2 3.1.2.2. Truyện ngắn Nam Cao với giọng văn tự sự lạnh lùng, dửng dưng.. .91 3.1.2.3. Truyện ngắn Nam Cao với giọng văn giễu nhại, châm biếm, hài hước.....93 3.1.3. So sánh giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Nam Cao....................................................................................97 3.2. Đặc điểm sử dụng một số kiểu câu [câu đặc biệt, câu tỉnh lược, câu tách biệt]. . .100 3.2.1. Đặc điểm sử dụng một số kiểu câu của Nguyễn Công Hoan.......100 3.2.1.1. Đặc điểm sử dụng câu đặc biệt..............................................100 3.2.1.2. Đặc điểm sử dụng câu tỉnh lược.............................................102 3.2.1.3. Đặc điểm sử dụng câu tách biệt [câu dưới bậc].....................105 3.2.2. Đặc điểm sử dụng một số kiểu câu của Nam Cao.......................107 3.2.2.1. Đặc điểm sử dụng câu đặc biệt..............................................107 3.2.2.2. Đặc điểm sử dụng kiểu câu tỉnh lược.....................................108 3.2.2.3. Đặc điểm sử dụng kiểu câu tách biệt [câu dưới bậc].............111 3.2.3. Nhận xét đặc điểm sử dụng một số kiểu câu của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao..................................................................................112 KẾT LUẬN..................................................................................................114 TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................117 PHỤ LỤC.....................................................................................................124 3 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Trong dòng văn học Hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, Nam Cao và Nguyễn Công Hoan là hai gương mặt tiêu biểu, hai đại diện ưu tú. Giữa lúc làng thơ văn Việt Nam đang đua nhau chạy theo thị hiếu tầm thường của độc giả, đắm chìm trong những câu chuyện tình lãng mạn thì Nguyễn Công Hoan và Nam Cao cũng như một số cây bút khác đã chọn cho mình một hướng đi riêng, đem đến cho văn chương đương thời một tiếng nói mới mẻ, mạnh mẽ về hiện thực đời thường như nó vốn có mà không hề tô vẽ. Có thể nói, Nguyễn Công Hoan là một trong những gương mặt mở đầu và cũng là nhà văn ưu tú của trào lưu văn học Hiện thực phê phán. Nói đến Nguyễn Công Hoan là nói đến một cây bút có sức sáng tạo dồi dào, dẻo dai, một tài năng xuất chúng. Hơn nửa thế kỉ cầm bút, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, đa dạng về thể loại, độc đáo về nội dung tư tưởng trong đó truyện ngắn được coi là lĩnh vực nổi bật nhất, đặc biệt là truyện ngắn trào phúng. Có thể so sánh Nguyễn Công Hoan với những nhà văn viết truyện ngắn trào phúng bậc thầy như Guy-dơ Môpatxăng và A.Sêkhôp. Những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan có sức hấp dẫn đặc biệt với nhiều thế hệ và nó vẫn là những “vỉa vàng” đang được tiếp tục khai phá. Trong trào lưu văn học Hiện thực phê phán, Nam Cao là người đến khá muộn khi mà Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng... đã tạo dựng được vị trí, chỗ đứng vững chắc với những tác phẩm xuất sắc. Tuy nhiên, Nam Cao không bị mờ nhạt bởi những bóng dáng lớn mà ông vẫn khẳng định được vị trí của mình, góp phần đưa trào lưu văn học Hiện thực phê phán phát triển tới đỉnh cao. Với 15 năm cầm bút, Nam Cao đã để lại một số lượng tác phẩm lớn mà đặc sắc là truyện ngắn. Truyện ngắn của Nam Cao 4 giàu có về tư tưởng, sâu sắc về nghệ thuật và được độc giả bao đời yêu mến. Đương thời, người ta không chú ý nhiều đến tác phẩm của ông nhưng từ sau khi Nam Cao hi sinh, những giá trị tác phẩm của ông mới được quan tâm, nghiên cứu một cách sâu sắc. 1.2. Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao đã được đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường từ bậc phổ thông đến đại học. Khảo sát ở bậc học phổ thông, cụ thể là THCS và THPT, chúng tôi thấy có các tác phẩm như sau: truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan gồm Tinh thần thể dục – Ngữ văn 11; truyện ngắn của Nam Cao gồm Lão Hạc – Ngữ văn 8; Chí Phèo – Ngữ văn 11. Khi giảng dạy văn bản văn học cho học sinh, việc làm rõ đặc điểm về phong cách ngôn ngữ tác giả là một yêu cầu rất cần được chú ý vì nó liên quan đến việc phân tích giá trị nghệ thuật của tác phẩm và sự đóng góp của nhà văn đối với việc hiện đại hóa văn học. 1.3. Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan và Nam Cao ở các phương diện khác nhau song vẫn chưa có công trình nghiên cứu toàn diện, hệ thống về cả hai nhà văn trong cái nhìn tương quan so sánh về đặc điểm phong cách ngôn ngữ. Đây cũng là ý nghĩa mới mẻ mà đề tài của chúng tôi mong muốn thực hiện. Là một giáo viên THPT giảng dạy bộ môn Ngữ văn, chúng tôi muốn thực hiện đề tài “So sánh đặc điểm phong cách ngôn ngữ của nhà văn Nguyễn Công Hoan và Nam Cao” nhằm phục vụ trực tiếp cho công tác giảng dạy tác giả và tác phẩm văn học trong nhà trường. 2. Lịch sử vấn đề Có thể nói, Nguyễn Công Hoan và Nam Cao là những nhà văn của thế kỉ XX được nhiều người nghiên cứu nhất. 5 2.1. Vấn đề nghiên cứu Nguyễn Công Hoan Ngay sau khi những truyện ngắn đầu tiên ra đời, Nguyễn Công Hoan đã được giới nghiên cứu phê bình chú ý. Có rất nhiều bài nhận xét, đánh giá về văn chương của Nguyễn Công Hoan. Có thể kể đến những tác giả sau: Các công trình nghiên cứu đầu tiên về Nguyễn Công Hoan phải kể đến Trúc Hà với bài Một ngòi bút mới: ông Nguyễn Công Hoan đăng trên báo Nam Phong năm 1932. Trúc Hà đã tỏ ra khá tinh tế khi nhận ra giọng văn mới mẻ pha chất hài hước của Nguyễn Công Hoan. Ngay sau đó, Hải Triều đã sắc sảo phát hiện ra ý nghĩa và tác dụng xã hội của tiếng cười trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cũng cho rằng Nguyễn Công Hoan sở trường về truyện ngắn hơn truyện dài. Còn Nguyễn Đăng Mạnh đã ra nhận định chính xác và sâu sắc về tiếng cười Nguyễn Công Hoan trong truyện ngắn trào phúng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung trong lời giới thiệu truyện ngắn Việt Nam 1930 - 1945, tập 1, NXB Giáo dục, H., 1990 khẳng định: Nguyễn Công Hoan là một bậc thầy trong truyện ngắn trước hết là truyện ngắn trào phúng. Nói về phong cách ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, có thể kể đến Lê Trí Dũng – Trần Đình Hựu trong Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 – 1930; Lê Minh – con gái của nhà văn – với bài “Sức trẻ một cây bút”. Nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan nhiều nhất phải kể đến Lê Thị Đức Hạnh. Bà có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết sâu sắc về Nguyễn Công 6 Hoan với những khám phá ở khía cạnh nghệ thuật cũng như phong cách ngôn ngữ truyện ngắn. 2.2. Vấn đề nghiên cứu Nam Cao Nam Cao là một tài năng lớn của văn học Việt Nam hiện đại, vì thế, số lượng tài liệu nghiên cứu về Nam Cao là rất lớn [theo thống kê của các nhà nghiên cứu thì có khoảng hơn 200 tài liệu khác nhau]. Trước cách mạng tháng 8 – 1945, Nam Cao chưa được chú ý trong giới nghiên cứu phê bình. Nhưng sau cách mạng, Nam Cao trở thành một hiện tượng của giới phê bình văn học. Người đầu tiên chú ý đến sự sắc sảo trong văn phong của Nam Cao là Nguyễn Đình Thi trong bài Nam Cao viết vào những năm 50. Bước sang những năm 60, nhiều công trình có giá trị về Nam Cao ra đời. Có thể kể đến Đọc truyện ngắn Nam Cao, soi lại bước đường đi lên của một nhà văn hiện thực; Con người và cuộc sống trong tác phẩm của Nam Cao của Huệ Chi – Phong Lê; Phan Cự Đệ trong Văn học Việt Nam 1936 – 1945 Sau đó là Hà Minh Đức trong Nam Cao, nhà văn hiện thực xuất sắc. Bước sang những năm 70, nhiều công trình về Nam Cao ra đời như giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945 của Nguyễn Hoành Khung, trong đó có một chương viết về Nam Cao; Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại của Phan Cự Đệ. Những cuốn nổi bật có thể kể Nam Cao đời văn và tác phẩm [Hà Minh Đức, 1977]; Nam Cao, phác thảo sự nghiệp và chân dung [Phong Lê, 1997]; Nam Cao, người kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực [Phong Lê, 2001]... 7 Những năm gần đây, có khá nhiều công trình nghiên cứu, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về Nam Cao. Bên cạnh đó hàng loạt các hội thảo về Nam Cao được tổ chức. Có thể kể những cuộc hội thảo khoa học tiêu biểu nhân 40 năm ngày mất của Nam Cao 1951 – 1991 [tháng 11/ 1991] và nhân 80 năm ngày sinh của Nam Cao 1917 – 1997 [tháng 10/ 1997]…Những buổi hội thảo khoa học tôn vinh nhà văn Nam Cao càng chứng tỏ vị trí và vai trò của ông trong làng văn học Việt Nam hiện đại và trong lòng tất cả những người yêu mến tác phẩm của ông. 2.3. Cho đến ngày nay, số lượng các công trình, các bài nghiên cứu về tác phẩm của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao quả là không nhỏ. Tuy nhiên, các công trình, bài nghiên cứu thường tập trung vào vấn đề phê bình tác phẩm văn học. Chưa có nhiều bài viết về đặc điểm phong cách của hai tác giả và đặc biệt là chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ đặc điểm phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao trong tương quan đối chiếu. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm tìm hiểu một cách đầy đủ về những điểm tương đồng và khác biệt trong đặc điểm phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao. 3. Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài này, người viết nhằm: - Làm rõ những đặc điểm nổi bật về phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao trên các phương diện: người trần thuật và điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật, cách sử dụng một số kiểu câu giàu phong cách. Đây là các phương diện có liên quan trực tiếp đến phong cách ngôn ngữ của nhà văn. 8 - So sánh để rút ra những đặc điểm giống và khác nhau về phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao cũng như làm rõ những đóng góp của hai nhà văn đối với sự hiện đại hóa nền văn học. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ mục đích nghiên cứu như trên, người viết xác định nhiệm vụ cho luận văn như sau: - Trình bày một số luận điểm cơ bản về phong cách nghệ thuật, ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật, cách sử dụng một số kiểu câu [câu đặc biệt, câu tỉnh lược, câu tách biệt]. - Phân tích đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trần thuật [người trần thuật và điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ trần thuật], giọng điệu trần thuật và cách sử dụng một số kiểu câu [câu đặc biệt, câu tỉnh lược và câu tách biệt] trong một số truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao. - Rút ra những kết luận về đặc điểm phong cách ngôn ngữ tác giả của hai nhà văn này. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao trước cách mạng tháng 8 – 1945. Trong đó, chúng tôi tập trung làm rõ những đặc điểm thể hiện phong cách ngôn ngữ của hai tác giả. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn gồm các truyện ngắn in trong Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan [NXB 9 thời đại, 2010], tuyển tập truyện ngắn Nam Cao [ Nxb Văn học, năm 2000] 6. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, người viết sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp miêu tả - Phương pháp phân tích phong cách học - Phương pháp so sánh - Phương pháp cải biến 7. Ý nghĩa khoa học của đề tài 7.1. Ý nghĩa lý luận: Đề tài này thực hiện thành công sẽ góp phần tích cực vào lí luận nghiên cứu phong cách nhà văn Hiện thực phê phán nói chung và phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao nói riêng dưới cách nhìn của ngôn ngữ học. 7.2. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy về hai tác giả Nguyễn Công Hoan và Nam Cao đồng thời góp phẩn đổi mới phương pháp giảng dạy môn văn học trong nhà trường phổ thông. 8. Bố cục của luận văn Luận văn gồm ba phần: + Phần mở đầu. + Phần nội dung. + Phần kết luận. 10 Trong đó phần nội dung chia thành 03 chương. + Chương 1: Cơ sở lí luận . + Chương 2: So sánh đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trần thuật của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao. + Chương 3: So sánh đặc điểm sử dụng giọng điệu trần thuật và một số kiểu câu của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Vài nét tóm tắt về nhà văn Nguyễn Công Hoan và Nam Cao 1.1.1. Hoàn cảnh xuất thân của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903 tại làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh [nay thuộc tỉnh Hưng Yên] trong một gia đình quan lại sa sút và bất mãn với chế độ thực dân. Gia đình Nguyễn Công Hoan có nhiều đời học hành, đỗ đạt và làm quan. Nhưng đến thời cụ thân sinh của ông, mặc dù thi đỗ nhưng chỉ được làm chức quan nhỏ do không biết tiếng Pháp, không có những mánh khóe giao thiệp 11 kiểu mới. Đó là bi kịch của những quan “nhà nho” lỗi thời với nhiều bi kịch và tâm sự khó nói. Sinh ra và lớn lên ở nhà quan nên ngay từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã nghe và thấy đủ mọi chuyện của chốn quan trường. Đó là những chuyện ăn hối lộ của quan lại, thủ đoạn nịnh nọt, bỉ ổi để tiến thân... Tất cả những điều đó sau này Nguyễn Công Hoan đã phản ánh sinh động trong các truyện ngắn của mình. Tốt nghiệp trường Sư phạm, Nguyễn Công Hoan đi dạy học và viết văn. Ông bị chuyển hết nơi này đến nơi khác như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định... Chính vì đi nhiều nên Nguyễn Công Hoan có điều kiện thực tế nghe được nhiều chuyện đời, chuyện người. Điều này cũng rất hữu ích đối với nghề viết văn của ông. Khác với Nguyễn Công Hoan, Nam Cao [tên thật là Trần Hữu Tri], sinh ngày 29 – 10 – 1915 trong một gia đình trung nông đông anh em tại làng Đại Hoàng thuộc tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam [nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam]. Bút danh Nam Cao là do ghép hai chữ đầu tên huyện và tổng mà thành. Làng Đại Hoàng của Nam Cao vốn là nơi có nhiều vấn đề mâu thuẫn, tranh chức tranh quyền của bọn cường hào địa chủ ác bá, nhiều người dân không thể sống được đã phải bỏ đi tha phương cầu thực. Điều này đã được Nam Cao phản ánh chân thực trong một số tác phẩm đặc biệt là trong Chí Phèo. Như vậy, Nguyễn Công Hoan và Nam Cao sinh trưởng trong hai gia đình có hoàn cảnh khác nhau. Nếu Nguyễn Công 12 Hoan xuất thân trong gia đình có truyền thống quan lại, từ nhỏ đã hiểu chuyện quan trường thì Nam Cao lại xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo với cuộc sống thuần túy ở nông thôn. Tuy nhiên, cả hai nhà văn lớn đều sinh ra trong hoàn cảnh xã hội giao thời Tây – Tàu nhố nhăng, nhiều vấn đề phức tạp. Với cái nhìn sâu sắc và cảm quan nhạy bén, cả hai đã dùng văn chương để phanh phui hiện thực xã hội đương thời. 1.1.2. Các tác phẩm trước cách mạng 1.1.2.1. Các tác phẩm trước cách mạng của Nguyễn Công Hoan Có thể nói, Nguyễn Công Hoan là một trong những người đi tiên phong đặt nền móng cho văn học Hiện thực phê phán. Nguyễn Công Hoan bắt đầu viết truyện ngắn từ rất sớm khi mà văn xuôi quốc ngữ còn chập chững ở cái buổi bình minh. Ông bắt đầu viết vào năm 1923 với tập truyện Kiếp hồng nhan có tính chất thử bút. Đến năm 1929, Nguyễn Công Hoan thực sự viết, ông có nhiều truyện ngắn đăng trên An Nam tạp chí do Tản Đà chủ biên. Cho đến năm 1935, ông đã cho ra mắt bạn đọc khoảng 80 truyện ngắn và đặc biệt, tập truyện Kép Tư Bền xuất bản đã gây được tiếng vang lớn, đưa tên tuổi Nguyễn Công Hoan vang khắp Bắc, Trung, Nam. Nguyễn Công Hoan đã nhìn thẳng vào hiện thực và bằng tiếng cười trào phúng phơi ra mặt trái của xã hội với đầy bất công thối nát. Với Kép Tư Bền, Nguyễn Công Hoan vừa là một trong những người mở màn vừa là người cầm ngọn cờ chiến thắng cho khuynh hướng văn học hiện thực phê phán Việt Nam thời kỳ 1930 – 1945. 13 Nguyễn Công Hoan xứng đáng là một nhà văn lớn, nhà văn tiêu biểu của nền văn học Hiện thực phê phán Việt Nam. Cho đến nay, gần một thế kỉ trôi qua nhưng những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan vẫn giữ được vị trí quan trọng trong nền văn học dân tộc, được bạn đọc bao thế hệ yêu thích. Không những thế, tác phẩm của ông còn được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài như Liên Xô, Bungari, Hunggari, Anbani, Cộng hòa dân chủ Đức, Cuba, Ba Lan, Ấn Độ... 1.1.2.2. Các tác phẩm trước cách mạng của Nam Cao Từ năm 1936, Nam Cao bắt đầu sáng tác. Ông viết văn, làm thơ, viết kịch với các bút danh Thúy Rư, Xuân Du, Nhiêu Khê. Năm 1938, Nam Cao bị ốm nặng, ông ra Bắc tự học và thi đỗ Thành chung. Sau đó ông dạy học tư và viết nhiều truyện ngắn đặc sắc như: Đôi lứa xứng đôi [Chí Phèo], Dì Hảo, Nửa đêm, Cái mặt không chơi được, Trẻ con không được ăn thịt chó, Trăng sáng... Cách mạng tháng 8, Nam Cao tham gia cướp chính quyền rồi tham gia đoàn quân Nam tiến với tư cách là phóng viên. Sau đó, Nam Cao trở ra Bắc tiếp tục hoạt động cách mạng và sáng tác nhiều tác phẩm ở các thể loại khác nhau. Ngày 30 – 11- 1951, trên đường vào công tác vùng địch hậu Liên khu Ba, Nam Cao đã anh dũng hi sinh ở Ninh Bình do bị địch phục kích. Nam Cao bước chân vào con đường văn chương khi trên văn đàn đặc biệt là trong dòng văn học Hiện thực phê phán đã xuất hiện nhiều cây đại thụ như Nguyễn Công Hoan, Ngô 14 Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng... Thế nhưng trên mảnh đất đã được cày xới kỹ càng đó, Nam Cao không bị chìm lấp trong những lối mòn mà ông vẫn tìm được cho mình một hướng đi riêng không lẫn với bất cứ ai. Những tác phẩm của Nam Cao đã phản ánh chân thật cuộc sống ngột ngạt, đen tối của xã hội Việt Nam những năm trước cách mạng và dựng lên cuộc sống đau khổ, bế tắc của những người nông dân, trí thức nghèo. Trong truyện ngắn Nam Cao, nổi lên hai đề tài chính là đề tài người nông dân và người trí thức nghèo. Nam Cao hướng ngòi bút của mình vào miêu tả cuộc sống khốn khổ, bi kịch không chỉ đói nghèo mà còn bị tha hóa về lương tâm của người nông dân đồng thời dựng lên những bi kịch về đời sống vật chất và tinh thần của người trí thức tiểu tư sản. Như vậy, nếu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan tập trung xây dựng những bức chân dung biếm họa về tầng lớp quan lại, địa chủ, cường hào xấu xa, độc ác... thì Nam Cao lại hướng ngòi bút của mình để tìm hiểu bi kịch bị tha hóa cả thể xác và tâm hồn của người nông dân cũng như người trí thức nghèo. Nam Cao là một trong những nhà văn góp phần hiện đại hóa văn xuôi quốc ngữ trên tiến trình văn học. Và cũng giống như Shêkhôp [Nga], Nam Cao là đại diện cuối cùng, người khép lại dòng văn học Hiện thực phê phán Việt Nam và là người mở đường mới cho sự phát triển của nó. Cũng như Nguyễn Công Hoan, các sáng tác của Nam Cao không chỉ có giá trị ở trong nước mà còn vượt qua biên giới lãnh thổ để đến với bạn đọc quốc tế. 15 1.2. Khái niệm về phong cách và phong cách nghệ thuật 1.2.1. Khái niệm về phong cách và phong cách học Thuật ngữ phong cách bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, lúc đầu có tên là “stylos” – chỉ cái que có một đầu vót nhọn và một đầu tù dùng để viết, vẽ lên tấm bảng. Về sau, nó được dùng để chỉ cách sử dụng ngôn ngữ và ngày nay, thuật ngữ phong cách được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu nhiều ngành khác nhau. Phong cách không hoàn toàn là thuật ngữ của phong cách học. Trong đời sống hàng ngày, phong cách là cách nói, cách sinh hoạt, làm việc, ứng xử... tạo nên cái riêng của mỗi người hay mỗi loại người như phong cách ăn mặc, phong cách nói, phong cách viết... Trong lí luận văn học, thuật ngữ phong cách được dùng để chỉ đặc điểm sáng tác riêng biệt, nổi trội của mỗi nhà văn hay tác phẩm... Trong văn hóa, phong cách được dùng để chỉ những đặc điểm văn hóa mang tính dân tộc, thời đại như phong cách truyền thống, phong cách dân tộc... Như vậy, thuật ngữ phong cách học “thực chất là phong cách học ngôn ngữ. Đó là bộ môn khoa học nghiên cứu những đặc điểm và phong cách sử dụng ngôn ngữ trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.” [16, tr.33]. Trong những nét chung nhất, “phong cách học được hiểu là khoa học nghiên cứu sự vận dụng ngôn ngữ, nói khác đi đó là khoa học về các quy luật nói và viết có hiệu lực cao.” [16, tr.7]. Phong cách học quan tâm đến giá trị biểu đạt, biểu cảm – cảm xúc, cái giá trị phong cách của các phương tiện ngôn 16 ngữ trong những hoàn cảnh giao tiếp tiêu biểu với những điều kiện giao tiếp nhất định. 1.2.2. Phong cách chức năng ngôn ngữ và phong cách nghệ thuật 1.2.2.1. Cơ sở phân chia phong cách chức năng Phong cách ngôn ngữ được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Phong cách ứng với mỗi chức năng xã hội của ngôn ngữ gọi là phong cách chức năng. Mỗi cá nhân khi nói, khi viết đều theo một phong cách chức năng nhất định. Có nhiều khuynh hướng bàn về cách phân chia phong cách chức năng song chủ yếu dựa vào các cơ sở chung như sau: a. Dựa trên chức năng giao tiếp Một số tác giả nước ngoài và trong nước đã dựa vào chức năng giao tiếp của ngôn ngữ để phân chia các phong cách chức năng: - Phong cách khẩu ngữ tự do: thông báo những nội dung thông thường thuộc phạm vi sinh hoạt hàng ngày. - Phong cách nghệ thuật: thông báo về sự vật, hiện tượng dưới dạng hình tượng nghệ thuật. b. Dựa trên hình thức thể hiện Dựa trên hình thức thể hiện khác nhau để diễn đạt nội dung tư tưởng, tình cảm [hình thức nói hoặc viết], các nhà nghiên cứu phân chia phong cách chức năng thành hai loại là phong cách khẩu ngữ và phong cách gọt giũa. c. Dựa vào phạm vi giao tiếp Dựa vào phạm vi giao tiếp khác nhau, một số tác giả chia tách thành phạm vi giao tiếp gia đình và phạm vi giao tiếp mang tính chất xã hội. Như vậy, có điểm chung trong các cách phân chia trên đó là phân chia theo bậc, từ bậc lớn lại tách thành các bậc nhỏ hơn. 17 Có thể phân loại các phong cách chức năng trong tiếng Việt thành 2 loại lớn: phong cách ngôn ngữ nói và phong cách ngôn ngữ viết. Trong đó: - Phong cách ngôn ngữ nói bao gồm: phong cách khẩu ngữ tự nhiên, phong cách hội thảo, phong cách diễn xuất sân khấu, điện ảnh. - Phong cách ngôn ngữ viết bao gồm: Phong cách hành chính – công vụ, phong cách khoa học, phong cách chính luận, phong cách báo chí, phong cách văn học nghệ thuật. Nhắc tới khái niệm phong cách là nhắc tới những nét đặc trưng, riêng biệt, tiêu biểu nhất. Phong cách ngôn ngữ là “một phong cách chức năng cụ thể trong đó cách sử dụng ngôn ngữ đã được định hình về mặt thời gian và mặt xã hội. Thực chất nó đã trải qua một quá trình tự điều chỉnh của bản thân hệ thống và có sự can thiệp ở một mức độ nhất định của những thiết chế xã hội.” [16, tr.41]. Có thể coi phong cách ngôn ngữ là sự lặp đi lặp lại một số kiểu lời nói để tạo thành các khuôn mẫu nhất định trong từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. 1.2.2.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật Trong các phong cách chức năng của ngôn ngữ thì đây là phong cách có nhiều tên gọi nhất: phong cách ngôn ngữ văn chương, phong cách ngôn ngữ văn học, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, phong cách văn học nghệ thuật. Đối với một số nhà nghiên cứu ngôn ngữ thì phong cách ngôn ngữ nghệ thuật không được xếp vào hệ thống các phong cách chức năng. Tuy nhiên, theo Hữu Đạt: “các tác phẩm văn học nghệ thuật là hình thức bảo lưu tương đối đầy đủ nhất diện mạo ngôn ngữ ở mỗi thời đại. Không ai có thể phủ nhận đó là hình thức tồn tại có thực của hoạt động giao tiếp. Vậy đương nhiên, nó phải tồn tại với tư cách là một kiểu phong cách riêng hoặc thuộc vào loại phong cách chức năng nhất định” [16, tr.276]. Như vậy, có thể khẳng định 18

Video liên quan

Chủ Đề