Vì sao nói Liên là nhân vật đau khổ nhất trong tác phẩm

Phân tích nhân vật Liên trong truyện Hai đứa trẻ

  • Dàn ý phân tích nhân vật Liên
  • Dàn ý phân tích về nhân vật Liên
  • Phân tích nhân vật Liên - Mẫu 1
  • Phân tích nhân vật Liên - Mẫu 2
  • Phân tích nhân vật Liên - Mẫu 3
  • Phân tích nhân vật Liên - Mẫu 4
  • Phân tích nhân vật Liên - Mẫu 5
  • Phân tích nhân vật Liên - Mẫu 6

Dàn ý phân tích nhân vật Liên

I. Mở bài:

Thạch Lam là một trong những nhà văn nổi tiếng của Việt Nam trước cách mạng tháng Tám với tác phẩm “ Hai đứa trẻ”. Qua việc xây dựng nhân vật Liên, nhà văn đã tái hiện thành công cuộc sống nghèo khổ, quẩn quanh trong bế tắc cùng vẻ đẹp tâm hồn con người luôn hướng đến tương lai tốt đẹp, tươi sáng hơn.

II. Thân bài:

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

– Đi sâu vào những kiếp sống mòn mỏi, quẩn quanh trong bế tắc không lối thoát của những con người sống vô danh, vô nghĩa với những khám phá tinh vi về suy nghĩ, tâm hồn con người.

– Xây dựng nhân vật Liên trong một cuộc sống đang dần “ mốc lên, mòn ra, rỉ đi” với một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, một trái tim nhân hậu của một con người biết yêu thương, luôn ước mơ, khao khát hướng tới ánh sáng.

2. Nhân vật Liên:

*Lý do chọn điểm nhìn trần thuật là Liên:

– Đã từng sống ở Hà Nội trái ngược hoàn toàn với phố huyện yên tĩnh, đen tối, nghèo khó. Do đó, cô dễ có nhận thức sâu sắc về nỗi buồn, sự tù túng và hoài niệm về quá khứ.

– Liên là một cô gái mới lớn có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm nên dễ xúc động với nỗi khổ đau của con người.

*Vẻ đẹp tâm hồn:

– Nhạy cảm, tinh tế:

+ Lắng nghe được cả những âm thanh rất nhỏ của buổi chiều làng quê và có cái nhìn bao quát cả khung trời phía Tây rực rỡ trong ánh hoàng hôn.

=> Ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen và trong lòng gợi lên một nỗi buồn man mác.

+ Gắn bó với mảnh đất này đến mức “ thuộc cả mùi cát bụi”.

+ Nhận ra vẻ đẹp bình dị của quê hương “ một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”.

-Trái tim nhân hậu biết yêu thương:

+ Thương mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt tép, tối động hàng nước nhưng bán được chẳng bao nhiêu.

+ Liên ái ngại trước gia đình bác Xẩm lê lết trên mảnh chiếu rách với cái thau sắt trống không, đứa con đã chạm đến nghịch đất.

+ Dành tình thương cho bà cụ Thi điên qua một cút rượu ti đầy,…

– Luôn khao khát tương lai và hướng tới ánh sáng.

+ Kiếm tìm từng ánh sáng nhỏ nhoi nơi phố huyện mịt mùng và hướng tới chúng. Hướng tới ánh sáng như một hành động hướng tới một tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn.

+ Khao khát tương lai qua cảnh đợi tàu:

=> Chuyến tàu qua là một giải pháp tình thế thể hiện ước mơ thay đổi cuộc sống. “ Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho cuộc sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

- Liên được xây dựng thành công qua nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lý tinh tế, chất thơ toả ra từ trong truyện ngắn trong lối viết nhẹ nhàng, giàu tình cảm đã giúp tác giả tái hiện thế giới nội tâm tinh vi của Liên và mang đến cho độc giả những day dứt, xót xa đồng thời trân trọng một tâm hồn người dù sống trong mù tối vẫn không thôi mơ ước.

III. Kết bài:

Hành động sống đẹp, sống có ý nghĩa, có khát vọng hướng tới tương lai tốt đẹp của Liên đã gieo vào lòng người niềm tin ở tương lai: dù trong hoàn cảnh nào, con người cũng phải nuôi dưỡng ước mơ. Những trang văn của Thạch Lam bởi vậy xứng đáng là trang văn “ thanh lọc tâm hồn con người”.

Vì sao chị em Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam đêm nào cũng cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua,Thạch Lam muốn nói gì với người đọc? - lớp 11

Quảng cáo

Xem thêm:

  • Soạn bài Hai đứa trẻ - Thạch Lam siêu ngắn
  • Soạn bài Hai đứa trẻ - Thạch Lam - Ngắn gọn nhất
  • Hai đứa trẻ - Thạch Lam
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
  • Dàn ý
  • Bài mẫu
  • Dàn ý
  • Bài mẫu
Bài khác

Dàn ý

Dàn ý tham khảo số 1

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Thạch Lam

- Giới thiệu truyện ngắn Hai đứa trẻ

- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận

2. Thân bài

Khái quát lại nội dung truyện ngắn Hai đứa trẻ

Giải thích, phân tích

* Đối với mọi người

- Tìm một chút ánh sáng mới, kiếm thêm chút tiền, bán thêm ít hàng cho những người trên tàu.

=> Tất cả những con người ấy làm những việc quen thuộc của mình, nhưng dường như không phải vì mục đích đó. Họ làm vì thói quen? Vì để tránh sự buồn chán vào ban đêm ở phố huyện nghèo? Hay làm vì chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ.

* Đối với chị em Liên

- Khi đoàn tàu đi qua, Liên nhớ về quá khứ với những kỉ niệm đẹp đẽ:

+ Hấp dẫn, sinh động: Liên nhớ lại khi ở Hà Nội chị được hưởng những thức quà ngon, lạ — bây giờ mẹ Liên nhiều tiền, được đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ.

+ Nhiều ánh sáng. Ngoài ra, kỉ niệm Hà Nội nhớ lại không rõ rệt cái gì, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh. Hà Nội nhiều đèn quá!

- Đoàn tàu:

+ Chuyến tàu đó là hoạt động cuối cùng của ban đêm.

+ Mọi người cùng mong đợi: Bác Siêu nghển cổ ra phía ga lên tiếng; Đèn ghi đã ra kia rồi.

+ Một sự khác lạ: Liên cũng trông thấy ngon lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu cùng vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi. Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh khi vào nghỉ. Một làn khối bùng sáng trắng lên đàng xa. tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ. Tiếng còi đã rít lên và tàu rầm rộ đi tới... đoàn xe vút qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu sáng cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các toa cửa kính sáng.

+ Làm xáo động cuộc sống vốn tĩnh lặng: Tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ rồi, và mất dần trong bóng tối, lắng lại không còn nghe thấy nữa. Cả phố huyện mới thật hết xáo động.

+ Không thuộc thế giới nơi chị em Liên sống, nhưng họ ở Hà Nội về! Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn chị Tí và ánh lửa của bác Siêu.

+ Gợi lên những khát vọng mơ hồ nhưng cay đắng. Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ. Liên lặng lẽ theo mơ tưởng.

* Ý nghĩa

- Thương cảm với cảnh sống nghèo khó, vô danh, vô nghĩa: Ước mơ rất đỗi bình thường và nhỏ bé, chỉ là một đoàn tàu vụt qua trong đêm tối.

- Thể hiện cái nhìn lạc quan về con người: Họ còn sự gắn bó, muốn thay đổi trong cuộc sống. Tất cả mọi người đều biết ước mơ, mong mỏi thay đổi nào đó, dù rất mơ hồ, rời rạc. Điều đó chứng tỏ, ngày dù tàn, cảnh cũng tàn nhưng lòng và đời của họ không tàn, nhất là với đứa trẻ như chị em Liên.

Xem các dàn ý tham khảo khác tại đây:
Dàn ý tham khảo số 2

Dàn ý tham khảo số 3

Bài mẫu

Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất của Thạch Lam. Đó là một truyện ngắn trữ tình. Truyện không có truyện. Nhân vật là nhân vật trữ tình. Tất cả nội dung của chuyện đều xoay quanh tâm trạng của chị em một cô gái tên Liên, nhân vật chủ yếu của tác phẩm. Nhân vật của Thạch Lam nói chung là thế; không có suy nghĩ sâu sắc, thường chỉ thể hiện những cảm giác, những vui buồn nào đây. Họ thường ngồi yên lặng lắng nghe tiếng nói thầm kín của lòng mình, ít phân tích lí giải đề xuất những khái quát triết lí như thường thấy ở nhân vật Nam Cao. Nhưng đằng sau thế giới nhân vật với những tâm trạng như thế, người ta thấy thấp thoáng nhân vật tác giả, người kể chuyện. Nhân vật này thì giàu suy tư, thường phát biểu bằng một giọng nói dịu dàng nhỏ nhẹ những tư tưởng có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc.

Cả tác phẩm xoay quanh một buổi tối đợi tàu của hai chị em Liên. ĐọcHai đứa trẻ, có rất nhiều người thắc mắc rằng tại sao chúng đêm nào cũng cố thức để nhìn thấy chuyến tàu đi qua. Để trả lời được câu hỏi này thì ta cần phải có một cái nhìn khái quát, bao gọn toàn bộ tác phẩm.

Truyện ngắn xuôi theo logic tâm trạng của nhân vật trữ tình là Liên. Đến cuối cùng của tác phẩm, tô đậm lên đó là tư tưởng mà Thạch Lam muốn gửi gắm.

Đầu tiên, ta có thể thấy được tâm trạng buồn của Liên trước quang cảnh tàn lụi của một ngày. Đó là thiên nhiên, làm âm thanh, là cảnh đời nơi phố huyện nghèo đói lúc chiều muộn. Tâm trạng này đã được tác giả ghi rất rõ ràng: “ Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập gần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị, Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.”

Ngày tàn trước hết được báo hiệu bằng tiếng trống thu không như gọi buổi chiều ở mỗi miền quê. Phương tây thì đỏ rực như lửa cháy, như hình ảnh của hòn than sắp tàn. Bóng tối lấn dần, lấn dần ánh sáng… nhìn xuống mặt đất, đó là cảnh chợ tàn, không có gì vui vẻ, háo hức khi chợ đông nhưng lại chẳng có gì có thể buồn hơn, thê thảm hơn khi chợ tàn.

Buồn vì mọi người đã ra về hết cả, tiếng ồn ào, tiếng náo nhiệt lụi tắt. Sự sống dường như cũng dần tàn lụi. Cái nghèo, sự lạc hậu tự phô bày mà không che đợi ở những rác rưởi bỏ lại, mấy đứa trẻ nhà nghèo long không nhặt nhạnh những thứ vật vẫn còn có thể dùng được mà những người bán hàng đã để lại.

Chị em Liên và những người trong phố huyện cũng vậy, họ đều mang một cuộc đời tàn lụi: cái hàng nước lèo tèo của chị Tí thì ế khách [“Ôi chao, sớm hay muộn mà có ăn thua gì”]. Cửa hàng của chị em Liên cũng vậy [“Hôm nay ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì”]. Và hình ảnh bà cụ Thi điên lảo đảo bước đi trong ngày tàn lại càng tô đậm thêm nữa một cảnh ngộ đầy bế tắc: “cC đi dẫn vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ về phía làng.”

Trước khung cảnh tàn lụi như vậy, Liên có một tâm trạng buồn và chán nản. Cái tối tâm, cái quẩn quanh, cái đơn điệu của những cư dân nơi phố huyện đang dần dần khiến cho cuộc sống của hai chị em Liên đi vào bế tắc.

Tất cả mọi việc đều diễn ra giống như hàng trăm hàng nghìn đêm trước đó. Đường phố và các ngõ đã chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng cửa im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, chỉ hé ra một thứ ánh sáng nho nhỏ như những khe sáng. Sau hàng nước nhà chị Tí, gánh hàng phở của bác Siêu cũng đã xuất hiện như một chấm lửa nhỏ lơ lửng đi trong đêm tối. Rồi đến gia đình nhà bác Sẩm với cái thau sắt trắng chỏng trơ và thằng con ra đất bòn nghịch với những thứ rác bẩn vùi trong cát cũng được miêu tả… Đúng là những kiếp người mà chẳng bao giờ biết đến hạnh phúc. Hiện tại thì cực khổ, quá khứ lại đau thương và tương lai thì mù mịt. Sự tồn tại của họ dường như chỉ là để chờ đợi vu vơ một thứ gì đó may mắn không xảy đến: “ Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày.”

Những kiếp sống tối tăm, khó khăn, nghèo khổ được tô đậm nhất trong tác phẩm này. Điều đáng chú ý ở đây đó là cái tối tăm lại được diễn tả bằng ánh sáng, thứ ánh sáng leo lét của ngọn đèn nơi chõng hàng nước của chị Tí, đối chọi với bóng tối một cách yếu ớt và thảm hại. Không phải ngẫu nhiên mà thiên truyện ngắn lại chỉ vẻn vẹn có mấy trang mà hình ảnh ngọn đèn hàng nước chị tí được nhắc đi nhắc lại những bảy lần. Nó trở thành một biểu tượng về những kiếp sống mù tối, lắt lay của những câu dân nghèo khổ bị chôn vùi đến cùng đường mãn kiếp trong cái bóng tối u ám của phố huyện tiêu điều. Họ sống một cuộc sống như đã bị bỏ quên…

Một lối thoát duy nhất mà người dân phố huyện và chị em Liên có thể trông chờ vào đó chính là chuyến tàu đêm.Một lối thoát không phải trong thực tế mà trong tưởng tượng. Bởi vì con tàu đi qua đem theo nó một thế giới khác hẳn với cái thế giới của cái phố huyện: “Một thế giới sáng rực, huyên náo, vui vẻ và sang trọng. Đó là thế giới họ hằng mơ tưởng". Bỗng chốc họ sống với thế giới ấy nghĩa là được thoát ra khỏi cuộc sống tối tăm, vắng lặng xơ xác, nhàm chán và bế tắc của cái phố huyện nghèo. Nhưng cuộc thoát li, dù chỉ bằng tưởng tượng cũng chỉ diễn ra trong chốc lát. Đêm tối và sự im lặng mênh mông lại bao bọc lấy tất cả. Nỗi buồn chán lại trở về cùng với ngọn đèn con của chị Ti leo lét giữa đêm đen. “Liên đến bên em nằm xuống. Chị gối đầu lên tay nhắm mắt lại [...] Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.

Qua diễn biến tâm trạng của Liên, tác giả muốn nói gì với người đọc? Lời phát biểu của Thạch Lam, như đã nói, bao giờ cũng thầm kín, dịu dàng nhưng cứ thấm thìa mãi trong lòng người mà ám ảnh mãi tâm trí người đọc: ấy là tiếng nói đầy xót thương với những kiếp người nhỏ bé, cơ cực, sống quẩn quanh bế tắc, không hạnh phúc, không tương lai, những con người như bị chôn vùi trong kiếp sống vô danh, vô nghĩa trong xã hội cũ. Trong xã hội ấy có biết bao người đã phải sống như thế: không bao giờ biết ánh sáng và hạnh phúc. Đến trong giấc mơ cũng không biết ước mơ gì hơn một chuyên tàu đêm vụt đi qua một phố huyện tiêu điều xơ xác của cuộc đời mình.

Đây là một khía cạnh mới của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam từ khoảng 1930 - 1945, khi xuất hiện những nhà văn thức tỉnh về ý thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Họ hết sức nhạy cảm đối với thân phận những con người, không biết sống là vui, những kiếp sống tù mù, dật dờ trong bóng tối.

Loigiaihay.com

  • Trong Hai đứa trẻ, Thạch Lam quan tâm đến loại ánh sáng nào nhất? Vì sao?

  • Hình ảnh phố huyện lúc đêm xuống trong tác phẩm Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam

  • Ấn tượng khi đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam - Ngữ Văn 12

  • Đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam - Ngữ Văn 12

  • Hai đứa trẻ là truyện ngắn giàu chất thơ. Phân tích ý kiến trên

Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý

Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ [Thạch Lam]

Hướng dẫn phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ [Thạch Lam], lập dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và tham khảo một số bài văn mẫu tuyển chọn hay.
Mục lục nội dung
  • 1. Hướng dẫn phân tích
  • 1.1. Phân tích đề
  • 1.2. Hệ thống luận điểm
  • 1.3. Lập dàn ý chi tiết
  • 1.4. Sơ đồ tư duy
  • 2. Văn mẫu tham khảo
  • 2.1. mẫu số 1
  • 2.2. mẫu số 2
  • 2.3. mẫu số 3
Mục lục bài viết

Tài liệu hướng dẫnphân tích nhân vật Liên do Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn gồm những gợi ý cách làm và lập dàn ý chi tiết kèm một số bài văn mẫu hayphân tích hình ảnh nhân vật Liêntrong truyệnHai đứa trẻ [Thạch Lam].

Cảm nhận về nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ - Thạch Lam

Cảm nhận về nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ được Đọc tài liệu tổng hợp gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất cảm nhận về Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ dành cho các em tham khảo.
Mục lục nội dung
  • 1. Dàn ý
  • 2. Một số bài văn hay cảm nhận về nhân vậtLiên
  • 2.1. Bài mẫu 1
  • 2.2. Bài mẫu 2
  • 2.3. Bài mẫu 3
  • 2.4. Bài mẫu 4
Mục lục bài viết

Cảm nhận về nhân vật Liên trong Hai đứa trẻlà một trong những đề văn mẫu 11hay và thường gặpkhi làm đề thi về bài Hai đứa trẻ. Đọc tài liệu đãtổng hợp mẫu dàn ý chungcùng một sốbài văn hay cảm nhận về nhân vật Liên trong truyện Hai đứa trẻđể cho các em học sinh tham khảo phía dưới đây.

Đề bài:Cảm nhận về nhân vật Liên trong truyện ngắnHai đứa trẻcủa Thạch Lam.

Dàn ý cảm nhận về nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ

I. Mở bài:

  • Giới thiệu những nét cơ bản về Thạch Lam vàtruyện ngắn Hai đứa trẻ
  • Giới thiệu nhân vật Liên

II. Thân bài: Phân tích nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ

1. Hoàn cảnh sống của Liên:

  • Cuộc sống của Liên vất vả và không có tuổi thơ
  • Gia đình gặp khó khăn, bố mất việc phải rời bỏ Hà Nội
  • Liên và em Liên trông một cửa hàng tạp hóa nhỏ, không bán được bao nhiêu
  • Liên có cuộc sống vất vả

2. Tâm trạng của nhân vật Liên

  • Trước cảnh ngày tàn: Liên rất tinh tế, năng nổ, hoạt bát, nhạy cảm và có cuộc sống gắn bó với con người nơi đây
  • Trước cảnh đêm tối: Liên có những dự định và ấp ủ cho riêng mình, có những ước mơ to lớn
  • Trước những con người nghèo khổ: Liên cảm thông, chia sẻ với những khó khăn của con người nơi đây, gắn bó sâu sắc với con người nơi huyện nghèo

III. Kết bài: Nêu cảm nhận của em vềnhân vật Liên trong Hai đứa trẻ

  • Nhấn mạnh ấn tượng của em về nhân vật Liên
  • Khái quát một số nét nghệ thuật tiêu biểu thể hiện thànhcông hình tượng nhân vật

Sau khi đã phác họa được dàn ý chung cho đề bài cảm nhận về nhân vật Liên như trên, các emcó thể dựa vào đó để triển khai chi tiết các nội dung xoay quanh các luận điểm vừaxây dựng trong dàn ýcủamình.

Tham khảo thêm:Dàn ý cảm nhận về nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ - Thạch Lam

Các em cũng có thể tham khảo một số bài vănnêucảm nghĩ về nhân vật Liên trong bài Hai đứa trẻhay nhất được tổng hợp dưới đây để mở rộng vốn từ và cách dùng từ trong làm văn.

Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ [Thạch Lam]

THPT Sóc Trăng Send an email
0 21 phút

Tài liệu hướng dẫnphân tích nhân vật Liên do THPT Sóc Trăng tổng hợp và biên soạn gồm những gợi ý cách làm và lập dàn ý chi tiết kèm một số bài văn mẫu hayphân tích hình ảnh nhân vật Liêntrong truyệnHai đứa trẻ [Thạch Lam].

Nội dung

  • 1 Hướng dẫn phân tíchnhân vật Liên trong Hai đứa trẻ
    • 1.1 1. Phân tích đề
    • 1.2 2. Hệ thống luận điểm
    • 1.3 3. Lập dàn ý chi tiết
    • 1.4 4. Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Liên
  • 2 Văn mẫu tham khảo phân tích nhân vật Liên trong truyện Hai đứa trẻ
    • 2.1 Phân tích nhân vật Liên mẫu số 1:
    • 2.2 Phân tích nhân vật Liên mẫu số 2:
    • 2.3 Phân tích nhân vật Liên mẫu số 3:


1. SOẠN BÀI HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM, ngắn 1

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

I. Tác giả:

1. Cuộc đời

- Thạch Lam [1910 – 1942], bút hiệu của Nguyễn Tường Vinh [về sau đổi thành Nguyễn Tường Lân] là nhà văn thuộc nhóm Tự lực văn đoàn. Ông sinh trưởng trong một gia đình công chức gốc quan lại ở Hà Nội.
- Thuở nhỏ, Thạch Lam sống tại quê ngoại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, sau đó chuyển sang Thái Bình.
- Ông học ở Hà Nội, đỗ tú tài rồi đi làm báo viết văn
- Ông nổi danh ở lĩnh vực truyện ngắn.

2. Sự nghiệp

- Tập truyện ngắn: Gió đầu mùa [1937], Sợi tóc [1942].
- Tiểu thuyết: Ngày mới [1939]
- Tập tiểu luận: Theo dòng [1941].
- Tùy bút: Hà Nội băm sáu phố phường [1943]

3. Phong cách

- Ông luôn dành sự chú ý cho việc khai thác tâm trạng nhân vật. Do vậy, cốt truyện trong tác phẩm của ông thường lỏng lẻo.
- Cách kể của Thạch Lam là thường xuyên gửi điểm nhìn sang nhân vật để họ tự bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc của mình.
- Văn của ông ý nhị, giàu cảm xúc, mỗi truyện của ông hệt như một bài thơ trữ

tình.
- Giọng kể trong truyện Thạch Lam trong sáng, sâu sắc, chứa đựng cái nhìn sâu sắc, điềm đạm về cuộc đời.

4. Quan niệm của Thạch Lam về văn chương.

– Thạch Lam quan niệm “Có hai lối quan sát: một lối quan sát bề ngoài và một lối quan sát bề trong. Trông bề ngoài thì chỉ thấy được cái trạng thái sự vật của một cảnh tượng [...] Người ta có thể tập nghe cho tinh tường, tập trông cho chu đáo, nhưng không có con mắt của linh hồn thì không bao giờ soi thấu được cái bí mật của tâm lí”.
- Chú trọng hơn đến thế giới bên trong của con người, ông viết: “Cần hơn là sự quan sát bề trong, khiến nghệ sĩ có thể hiểu được cái ý nghĩa giấu kín của sự vật, cái trạng thái tâm lí của một cử chỉ hay một lời nói”.
- Từ đó, ông yêu cầu nghệ sĩ “phải biết suy xét tâm hồn mình. Qua tâm hồn ta, chúng ta có thể đoán biết được tâm hồn mọi người. Và chỉ khi nào chúng ta hiểu biết được những trạng thái tâm lí của mình một cách sâu sắc, chúng ta mới hiểu biết được trạng thái tâm lí người ngoài”.
- Nhưng để thành nghệ sĩ giỏi thì nhà văn cần phải “tạo ra những nhân vật thật và hoạt động, ngoài những tính cách và đặc điểm của cái địa vị xã hội, tìm đến được cái bí mật không tả được ở trong mỗi con người”.
- Ngoài ra, nhà văn còn phải chú ý đến môi trường xung quanh khi khắc họa nhân vật. Chỉ khi ấy nhà nghệ sĩ mới có thể “diễn tả đúng tâm lí một người”.
- Thạch Lam là nhà văn của những điều bình thường, nhỏ nhặt trong cuộc sống. Ông đề cao khả năng quan sát nội tâm và sự giản dị trong cách viết: “Bỏ hết những cái sáo, những cái kêu to mà trống rỗng, những cái giả dối đẹp đẽ đi tìm cái giản dị, cái sâu sắc và cái thật, bằng cách quan sát và rung động đúng, đó là công việc các nghệ sĩ phải làm. Chúng ta cứ là chúng ta, với cái tâm hồn và bản ngã thật của chúng ta”. Chỉ khi tiếp cận được tâm hồn chân thật ấy nhà văn mới xây dựng được nhân vật có sức sống vượt qua sự giới hạn của ngôn từ.

II. Tác phẩm "Hai đứa trẻ"

1. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời
- Tác phẩm được in trong tập truyện ngắn Nắng trong vườn [1938].
- Câu chuyện về chị em Liên là chuyện có nội dung gần như trùng khít với quãng đời thơ ấu của chính tác giả ở phố huyện Cẩm Giàng do chị Thạch Lam kể lại trong hồi kí.
- Từ thực tế này nên mới có cách gọi chị Liên trong Hai đứa trẻ. Và hiện thực của tác phẩm là hiện thực của quá khứ, của tâm tưởng.

2. Các ý kiến đánh giá về tác phẩm
- Hai đứa trẻ chịu nhiều thăng trầm trên các chặng đường phê bình, tiếp nhận. Vũ Ngọc Phan tiêu biểu cho những ý kiến đánh giá thấp tác phẩm khi gọi Hai đứa trẻ là một truyện ngắn “tầm thường”.
- Năm 1957, với bài viết Thạch Lam, Nguyễn Tuân là người đã đề xuất những ý kiến xác thực đầu tiên về Hai đứa trẻ: “Truyện có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng thời cũng đóng lên một cái gì còn ở trong tương lai... Nơi cái thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc Hai đứa trẻ, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín”.
- Đỗ Đức Hiểu viết: “Có thể thấy ở Hai đứa trẻ, truyện của xung đột giữa bóng tối và ánh sáng, bóng tối hay nghèo nàn và cô đơn, ánh sáng chỉ là ước mơ thoáng qua, mở đầu truyện, ánh sáng tắt dần. Kết thúc truyện bóng tối tràn ngập phố huyện, hay tràn ngập thế giới. Và có thể thấy ở đây triết lí của Thạch Lam về thân phận con người. Diễn biến truyện là sự tranh chấp bóng tối / ánh sáng”.

3. Cốt truyện
- Cốt truyện, hiểu theo nghĩa bao hàm xung đột tạo kịch tính thì hoàn toàn vắng bóng ở đây.
- Hai đứa trẻ chỉ có một trạng huống [tình huống tâm trạng] là việc hai chị em Liên và An bán hàng xén tại một phố huyện đang đợi chuyến tàu từ Hà Nội về để bản thêm chút hàng [theo lời mẹ dặn].
- Những chú ý của chúng là để được nhìn chuyến tàu. Đoàn tàu đến, rực sáng trong phút chốc rồi lại ra đi, những người bán hàng vặt cũng ra về. Chị em Liên đóng quán ngủ.
- Nếu cứ dựa vào các sự kiện của cốt truyện trên thì Hai đứa trẻ không thể nói cho ta biết gì hơn về hành động tẻ nhạt của hai đứa bé tại một đêm phố huyện nghèo, buồn bã.

4. Sự tinh tế của Thạch Lam qua đoạn văn: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào... Liên ngồi yên lặng... Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.
- Đối tượng được miêu tả của đoạn văn này là con người: Liên.
- Tư thế: “ngồi yên lặng”.
- Tâm trạng. “buồn man mác”...
- Khung cảnh truyện, ngay từ đầu đã được đọc qua mắt Liên. Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh đôi mắt lại xuất hiện ngay sau tư thế ngồi của nhân vật: “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần.”
- Vậy nên hình khối và màu sắc là sản phẩm tất yếu từ sự tiếp nhận hiện thực này.
- Chìa khoá để mở cánh cửa của câu chuyện được đặt tại đây, ở nhân vật Liên với hai động thái cảm nhận: bằng năm giác quan và cả bằng trực giác: nỗi buồn rất lãng mạn.

5. Nhân vật

a] Số lượng và nghề nghiệp:
-Tác phẩm gồm có chín người: Liên, An, chị Tí, cụ Thi, bác Siêu, Vợ chồng xẩm, thằng con xẩm và thằng con chị Tí. Đây là những nhân vật được miêu tả trực tiếp trong tác phẩm.
- Ngoài ra cũng còn có chừng mười đến mười lăm người nữa được nhắc đến với tư cách là nhân vật thoáng qua, bà lão móm, bác phở Mĩ, ông Cửu, bà Lực, cụ Chi, chú lính, cụ Thừa, cụ Lục, ông giáo; hai, ba bác phu; hai, ba người mang đèn đón chủ,...
- Nếu xét về nghề nghiệp thì phố huyện hiện lên gần đủ một cơ cấu hành chính thu nhỏ: quân đội, quan chức, giáo viên, phu, người giúp việc, người buôn bán, người ăn xin, người điên say rượu,...
- Cái thiếu của Hai đứa trẻ là một nhân vật quyền uy, giàu sang, sung túc...
- Còn cái thừa của truyện là quá nhiều người nghèo, những người dường như chỉ sống vào chút hi vọng thoảng qua rất nhanh: chuyến tàu từ Hà Nội về...

b] Đặc điểm của nhân vật trung tâm
- Liên là nhân vật trung tâm.
- Tuy hay còn ít tuổi, nhưng Liên thiên về lối sống nội tâm.
- Liên là nhân vật đáng trân trọng. Do sớm tần tảo với cuộc đời nên ở cô có nết chăm chỉ, mối âu lo thường trực.
- Dẫu chỉ miêu tả cuộc sống chị em Liên trong khoảng thời gian ngắn nhưng ấn tượng ta có được ở đây là sự đơn điệu cứ lặp đi lặp lại hết ngày này sang ngày nọ một cách tẻ ngắt. Phải kiên trì lắm, can đảm lắm thì chị em Liên mới làm được việc ấy. Chuyện cơm áo làm con người già đi, tước đoạt ở họ bao niềm vui thú dẫu chỉ là vô cùng nhỏ bé.
- Nhưng không vì thế mà nhân vật của Thạch Lam cay nghiệt với đời. Ở Liên, cô sở hữu một tấm lòng bao dung, độ lượng. Liên không chỉ yêu thương An mà còn quý cả những em bé con nhà nghèo sống ven chợ.

c] Vai trò và vị trí của đôi mắt và tâm hồn nhân vật .
- Đôi mắt và tâm hồn là hai đối tượng luôn được nhắc đến trong truyện.
- Nhưng chúng không được đặc tả nhằm nêu bật tính cách của nhân vật như các nhà hiện thực mà chỉ được xem như là kênh tiếp nhận hiện thực của nhân vật.
- Vì thế các động từ đi theo cũng chỉ nhằm miêu tả hoạt động vật lí của nó: nhắm, mở, nhìn xuống, nhìn lên... “An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông...”
-Dõi theo cái nhìn của hai chị em, đặc biệt là Liên, câu chuyện đóng khung không gian của mình vào cái nhìn ấy.
- Người kể chuyện rất khách quan, không hề tỏ ý can thiệp, để câu chuyện hồn nhiên tiếp diễn theo cảm nhận của hai đứa trẻ.
- Nguyên tắc trần thuật gửi điểm nhìn này đã mang lại cho tác phẩm bầu không khí sinh hoạt nóng hổi của phố huyện đồng thời nó cũng cho thấy cách cảm nhận về sự sống ở nơi đó.
-Do vậy khi đặt nhan đề truyện, Thạch Lam đã tỏ rõ ý đồ của mình: đây không chỉ là chuyện về hai đứa trẻ mà chủ yếu còn là chuyện hai đứa trẻ cảm nhận cuộc đời như thế nào.

d] Thế giới nhân vật nữ
- Thiên tính nữ của tác phẩm tạo nên chất thơ.
- Trong số các nhân vật của đêm phố huyện, chỉ có bác Siêu là đàn ông [tình thực ta biết giới tính của bác là qua cái tên theo cách đặt tên của người Việt chứ tác giả không hề đưa tín hiệu về giới tính: bác có thể dùng cho cả đàn ông lẫn đàn bà], còn lại đều là phụ nữ.
- Hướng cái nhìn trần thuật về phía người nghèo đã là nhân đạo song tập trung vào phụ nữ lại là một lần nhân đạo nữa của Thạch Lam.
- Người phụ nữ của Thạch Lam, vẫn mang những đặc điểm tốt đẹp của phụ nữ truyền thống như nhẫn nại, hi sinh, giàu lòng vị tha... song họ là những con người hiện đại vì không chỉ biết ước mơ mà còn dám chờ đợi ước mơ đó. Chờ đợi sự đổi đời.
- Ý nghĩa tích cực từ cách nhìn này đã khiến thiên truyện tràn đầy niềm tin, lạc quan, sức sống...

6. Nghệ thuật đảo ngược thời gian
- Đảo ngược thời gian từ phố huyện về Hà Nội diễn ra ba lần.
- Cả ba lần đều gắn với công việc hoặc tâm trạng Liên. Hà Nội, sau mỗi lần xuất hiện lại càng thêm day dứt.
- Lần thứ nhất cho ta biết hoàn cảnh của hai chị em Liên: phải kiếm sống, phải đùm bọc nhau vì thầy mất việc làm ở Hà Nội.
– Lần thứ hai thì người kể đã đề xuất sự so sánh ngày trước và bây giờ, Hà Nội và phố huyện: “Liên nhớ lại khi ở Hà Nội chị được hưởng những thức quà ngon, lạ.... Ngoài ra, kỉ niệm còn nhớ lại không rõ rệt gì, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh”.
- Lần thứ ba, Hà Nội xuất hiện ngay trong chính độc thoại nội tâm của Liên: “nhưng họ ở Hà Nội về... Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyện náo”.
- Người kể đang dịch chuyển điểm nhìn từ bên ngoài vào nội tâm của Liên. Quá trình vận động này cho thấy ý thức về cảnh ngộ của Liên về chính bản thân Liên và con người nơi phố chợ ngày một tha thiết hơn.
- Cuộc sống của con người càng buồn hơn, khổ hơn, cô độc hơn thì giấc mơ về thiên đường, về sự đổi đời càng mãnh liệt hơn bao giờ hết. Hà Nội là thiên đường của chị em Liên. Giờ đây đã cách xa trong màn đêm nên nỗi nhớ, nỗi xót xa càng cồn cào da diết...

7. Nghệ thuật đối thoại
- Đối thoại của Hai đứa trẻ chiếm tỉ lệ rất thấp. Trong số 2739 chữ của văn bản thì chỉ có 221 chữ dành cho đối thoại.
- Trong bốn nhân vật được tập trung khắc hoạ ở bức tranh phố huyện [An, Liên, chị Tí, bác Siêu], An là nhân vật trẻ nhất song có lượt lời thoại lớn nhất bằng Liên: 8/23 lượt. Chị Tí nói ba lượt, Bác Siêu hai lượt. Hai lượt còn lại là của cụ Thi điên. Các lượt thoại này đóng vai trò thúc đẩy cốt truyện phát triển. Ngoài ra nó còn bộc lộ tâm trạng, giải thích cho nguyên nhân hành động ở thực tại của nhân vật...
- Đối thoại được dựng theo lối kìm tốc độ truyện.
- Đa số đối thoại được thực hiện dưới dạng câu hỏi. Trả lời câu hỏi là hành động thúc đẩy diễn biến truyện.
- Dạng phổ biến khác của đối thoại trong Hai đứa trẻ được thực hiện dưới hình thức câu hỏi: “Em thắp đèn lên chị Liên nhé?” “Cái chõng này sắp gãy rồi chị nhỉ?”
- Đối thoại trong truyện vừa đóng vai trò giữ nhịp cho mạch truyện phát triển vừa là những tín hiệu thẩm mĩ ấn tượng khởi xuất từ nội tâm đầy bồn chồn, háo hức, âu lo, buồn bã, thông cảm... của những thân phận nơi phố chợ nghèo.
- Trong nỗi hiu quạnh của phố huyện kia, ngần ấy những mảnh đời lay lắt nương tựa vào nhau mà sống. Họ không giúp và không thể giúp nhau về mặt vật chất song qua những tiếng nói hướng về nhau của họ, ta thấy đây là những điểm sáng về tinh thần, về tâm hồn, giúp họ vững tin hơn trong công việc, trong mục đích họ đang theo đuổi.

8. Mùi vị
- Mùi vị, trong tác phẩm tuy chỉ xuất hiện hai lần song nó thực sự tạo nên ấn tượng ở người đọc.
- Lần thứ nhất: “Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Đấy chính là mùi chợ huyện.
- Lần thứ hai là mùi phở bác Siêu: “Tiếng đòn gánh kĩu kịt nghe rõ rệt, khói theo gió tạt lại chỗ hai chị em. Bác Siêu đã tới gần, đặt gánh phở xuống đường... An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm”.

9. Ánh sáng
a] Gam màu chính: – Ánh sáng gắn với thị giác vẫn là nỗi ám ảnh đậm sâu nhất trong Hai đứa trẻ.
- Sau những tiếng trống “gọi buổi chiều”, gam màu của bức tranh phố huyện là sáng và nóng: “Phương tây, đỏ rực như lửa cháy”. Màu sắc này được đặc tả như hình khối chứ không phải bằng đường nét cụ thể miêu tả trực tiếp mặt trời và cảnh chiều tà.
- Các nhân vật hướng về, nói đúng hơn là họ hướng về bất cứ ánh sáng nào lọt vào mắt:
+ Xa thì có ánh sáng mặt trời, ánh sáng vì sao.
+ Gần chút nữa là ánh sáng của đom đóm, ánh sáng của những ngọn đèn, đủ loại đèn: đèn treo, đèn hoa kì, đèn dây sáng xanh, đèn con, đèn lồng, đèn ghi,...
+ Với vô vàn kiểu ánh sáng xuất hiện: đỏ như lửa cháy, hồng như hòn than sắp tàn, sáng xanh, sáng xanh biếc, ánh sáng vàng lơ lửng đi trong đêm tối, sáng trắng, kèm với màu sắc ánh sáng là cường độ sáng: sáng lấp lánh, sáng rực, sáng trưng.
+ Đặc biệt hơn là việc xuất hiện hình thù của ánh sáng: khe ánh sáng, vệt sáng, quầng sáng, chấm sáng của lửa [2 lần], hột sáng, vùng sáng, đốm [sáng] của than đỏ,...
+ Đỉnh điểm của cuộc trưng bày ánh sáng kia là quan sát độc đáo bậc nhất: “Những nguồn sáng ấy đều chiếu ra ngoài phố khiến cát lấp lánh từng chỗ và đường mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng, một bên tối”.

b] Ánh sáng kí ức
- Không nhiều như việc khai thác ánh sáng bình thường, nhưng ánh sáng kí ức của Thạch Lam khắc hoạ rõ nét hơn con người tâm trạng của Liên. .
- Lần đầu tiên nhắc đến Hà Nội “khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở vì thầy Liên mất việc”, trong Liên kí ức về Hà Nội chưa xuất hiện. Nhưng đến lần thứ hai thì Liên đã “nhớ lại khi ở Hà Nội” và Hà Nội được gợi lại từ mùi phở của bác Siêu, là “cốc nước lạnh xanh đỏ” [kí ức của trẻ con] là “một vùng sáng rực và lấp lánh”. Hà Nội đồng nghĩa với ánh sáng.
- Vì cái ánh sáng đó, vì nỗi truân chuyên của bao cuộc đời ngoài kia, vì cảm cảnh cho chính thân phận mình nên dẫu đôi khi “tâm hồn Liên yên tĩnh” song vẫn có “những cảm giác mơ hồ không hiểu”.
- Con tàu mang ánh sáng đến, nhưng khi qua đi con tàu làm sống lại kí ức, ấy là nỗi khao khát, nỗi nhung nhớ Hà Nội rực ánh đèn.

c] Ánh sáng con tàu
- Con tàu mang chút niềm tin tương lai đến cho phố huyện.
- Trước khi con tàu xuất hiện, phố huyện sống trong trạng thái uể oải, lơ mơ ngủ, kém sinh khí và mọi hành động đều quy tụ ở tâm lí đợi tàu.
- Thạch Lam dành đến 852 chữ [gần một phần ba số chữ của tác phẩm: 852/2739] để tập trung khắc hoạ con tàu qua phố huyện.
- Con tàu đó là nguồn sống cả về vật chất lẫn tinh thần đối với dân phố huyện.
- Ánh sáng con tàu mang Hà Nội về cho chị em Liên. Vẫn là sự cảm nhận của tinh tế trong màn đêm tĩnh mịch:
+ Âm thanh xuất hiện trước “tiếng dồn dập, tiếng xe rất mạnh vào ghi”.
+ Màu sắc: “một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa” rồi lại âm thanh “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”.
+ Hình hài: “tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”.
- Chỉ một đoạn văn ngắn mà Thạch Lam sử dụng đến bốn [cụm] danh từ và tính từ chỉ ánh sáng, sáng trưng, chiếu sáng, lấp lánh, cửa kính sáng, ánh sáng đã lên ngôi.
- Ngay đến khi khuất vào đêm tối, thì vẫn còn đó ánh sáng của “những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”. An và Liên ngóng theo.

d] Tương phản ánh sáng - bóng tối
- Khác với Hugo, bậc thầy sử dụng hình ảnh tương phản bóng tối - ánh sáng để chứng minh sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng của tâm hồn, của lương tri xã hội, và ánh sáng đạo đức, lương tri bao giờ cũng chiến thắng… Thạch Lam tuy vẫn khai thác hai hình ảnh này song không nhằm để thuyết minh cho lí tưởng lương tri kia.
- Ông chỉ cốt gây ấn tượng, nhằm phân biệt rõ nét hơn hai phạm trù tương sinh tương khắc [sáng và tối] để cho thấy cái nhìn hiện thực, rất hiện thực về cuộc đời: có những người nghèo, mong đợi ánh sáng hạnh phúc, họ mãi đợi, hạnh phúc đến rồi qua nhanh như chuyến tàu kia, nhanh đến nỗi Liên không thể nhận rõ mặt người, rồi đêm tối lại đến, đom đóm ngừng hoạt động, sao vẫn sáng, cơn buồn ngủ đến với Liên, để hôm sau thức dậy thêm một ngày đợi tàu nữa...
- Chu trình sống cứ lặp đi lặp lại ấy vô cùng đơn điệu tẻ nhạt. Nó không hề giấu giếm cuộc sống nghèo nàn quá đỗi cả về vật chất lẫn tinh thần nơi đô thị không cách xa làng là bao [bà cụ Thi đi về phía làng].
- Song nhờ thế nó lại có khả năng vô biên trong việc khảm vào tâm hồn ta hình ảnh phố huyện ngưng đọng ấy. Phố huyện của Thạch Lam chính là dự hồn của bất kì một phố huyện nghèo nào.
- Dư hồn của phố huyện không chỉ là nghèo mà còn sâu xa hơn còn là sự lãng quên dần. Trên cái nền hiện thực là càng nghèo thì người ta lại càng ít lên xuống các chuyến tàu đi qua phố huyện, song các điệp ngữ: may ra còn có một vài người mua, người vắng mãi, người lên xuống [tàu] ít, thưa vắng người... lại hệt như nỗi niềm phôi pha trong thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên.
- Tuy bóng tối là hình ảnh kết tác phẩm song cũng như nét nghệ thuật mà bóng tối đảm nhận trong toàn thiên truyện, chỉ là cái nền để xuất hiện ánh sáng ví như bầu trời đêm tối thẳm để toả sáng những vì sao, không gian tối đen để đom đóm nhấp nháy sáng.
- Và dẫu cho ngay khi “không còn” đom đóm nữa, ngay khi Liên phải “vặn nhỏ ngọn đèn” xuống để đi ngủ thì cảm giác về ánh sáng trong Liên vẫn chưa tắt. Tác phẩm kết thúc khi Liên ngừng quan sát, suy ngẫm và giấc ngủ yên bình đến.
- Khác với bóng tối, Thạch Lam ba lần đặc tả ánh sáng nơi phố huyện: ánh sáng “đỏ rực” của trời chiều, ánh sáng trong kí ức Liên về Hà Nội “một vùng sáng rực và lấp lánh”, và ánh sáng của đoàn tàu với các toa “đèn sáng trưng chiếu ánh cả xuống đường”.
- Ba lần đặc tả ánh sáng là ba lần tác giả ngầm ẩn dụ, so sánh cuộc sống ở hiện tại với quá khứ và tương lai của con người.
- Thực tại thì rõ ràng chẳng hạnh phúc gì bởi cái sắc chiều đỏ rực kia sớm chìm vào bóng đêm tĩnh mịch, hiu quạnh. Chọn thời khắc vào buổi chiều, Thạch Lam không những mang chất thơ buồn vào trang văn mà còn mang cả cuộc sống tẻ nhạt vật vờ của những mảnh đời nghèo nhưng chưa đến mức bất hạnh tột cùng của phố huyện lên trang sách.

10. Những đặc sắc nghệ thuật
- Những dụng công đặc biệt về ngôn từ đã khiến Hai đứa trẻ trở thành một trong những áng văn kiệt xuất của dân tộc.
- Dễ nhận thấy các hình ảnh trong truyện thường được khắc hoạ theo phương thức lặp. Tuy mỗi lần lặp đều được xử lí cho khác đi song chính dụng ý này đã tạo nên hiệu quả ấn tượng về sự đơn điệu, trì động của cuộc sống rất cao.
- Bên cạnh đó, việc sử dụng lời nội tâm bao giờ cũng làm giảm tốc độ truyện. Hai đứa trẻ hiển nhiên là có tốc độ trần thuật chậm vì tính sự kiện ở đây không cao và không có tính xung đột mặc dù biện pháp tương phản rất được quan tâm.

11. Niềm tin của Thạch Lam vào một cuộc sống tốt đẹp
- Thạch Lam rất tin ở tương lai.
- Tuy đặt cái thực tại mất mát vào dòng đời, dòng vận hành của vũ trụ không ngừng luân chuyển, Thạch Lam đề xuất tư tưởng hợp với quy luật khách quan: Con người sẽ luôn tìm cách tồn tại và tồn tại được trong bất kì cảnh ngộ nào.
- Quan niệm này đã khiến Thạch Lam đưa ra một kiểu so sánh sáng tạo, đầy ẩn ý và rất ấn tượng, so sánh giữa cái thường biến và cái bất biến: so sánh trong này [không gian hẹp] với ngoài kia [không gian rộng], so sánh kiếp người nhỏ nhoi hữu hạn với vũ trụ bao la vĩnh hằng: “Nhưng bây giờ họ đóng cửa cả rồi, cũng im lặng tối đen như ngoài phố”...
- Thạch Lam hướng đến triết lí: khi con người chưa thể làm khác đi trong cảnh ngộ của mình thì mơ ước là giải pháp hữu hiệu để họ vượt qua các thời khắc nghiệt ngã nhất.
- Đặt cái hữu hạn trong cái vô cùng, đặt cái hiện thực mòn gỉ trong cái ước mơ bóng sáng... Thạch Lam vẫn luôn hướng về nơi xa xôi kia. Ông chia sẻ và vững tin ở khát vọng của con người.

12. Khám phá mới của Thạch Lam so với các nhà văn hiện thực
- Trong lúc đa số các nhà văn hiện thực khác cùng thời hầu như tập trung miêu tả sự khánh kiệt vật chất [điển hình là Nguyễn Công Hoan, Nam Cao] thì Thạch Lam chủ yếu lại khai thác sự cùng quẫn về tinh thần.
- Ông không hướng trọng tâm miêu tả lên thế giới vật chất mà chỉ dùng nó như một thế lực hiển nhiên gây nên sự bi đát về đời sống tâm hồn.
- Chẳng phải ngẫu nhiên mà quần thể nhân vật nơi phố huyện tăm tối ấy lại có cả đại diện của người điên [cụ Thi], người mù [nhà xẩm] và bốn nhân vật tiêu biểu còn lại trừ hai chị em Liên có đôi chút lịch sử [trước sống ở Hà Nội, bố mất việc phải về quê, mẹ không ra trong hàng cùng vì phải bận làm hàng xáo] còn chị Tí, bác Siêu không có lại lịch gì thêm ngoài gánh hàng của họ.
- Như thế, càng dồn nén đời sống vật chất khắc khoải bao nhiêu thì sự tỏa sáng của đời sống tinh thần bức bối càng lớn bấy nhiêu. Đây là cách Thạch Lam tạo ra ấn tượng cho riêng mình.

---------------------HẾT BÀI 1--------------------

Thực hành thành ngữ, điển cố là bài học nổi bật trong Tuần 6 của chương trình học theo SGK Ngữ Văn 11, học sinh cầnSoạn bài Thực hành thành ngữ, điển cố, đọc trước nội dung, trả lời câu hỏi trong SGK

I. Dàn ýBức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ

1. Mở bài

- Sơ lược về tác giả Thạch Lam.

- Giới thiệu Hai đứa trẻ với bức tranh phố huyện và bức tranh tâm hồn nhân vật Liên.

2. Thân bài

a. Bức tranh phố huyện lúc chiều tà:

* Bức tranh thiên nhiên:
- Âm thanh: Tiếng muỗi, tiếng ếch nhái kêu râm ran, tiếng trống thu không gợi cảm giác chậm rãi, buồn man mác làm cho buổi chiều tàn càng thêm im ắng, tẻ nhạt.
- Màu sắc: Hai gam màu đỏ rực, ánh hồng mang đến những xúc cảm ảm đạm, báo hiệu cho sự lụi tàn một một ngày, là ánh sáng cuối cùng lóe lên trước khi trời tối hẳn, trước khi cái màu đen của bóng tối chính thức bao trùm trên cảnh vật.
- Đường nét: “Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”, mang đến một cảm giác ảm đạm, gợi ra những nhận thức rất rõ rệt về cái khoảnh khắc chuyển giao giữa ngày và đêm.

* Bức tranh sinh hoạt trong cảnh chợ tàn:
- Âm thanh “tiếng ồn ào cũng mất”, cùng với hình ảnh “trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía” cùng với cảnh mấy đứa trẻ con tìm bới, nhặt nhạnh những thứ rác rưởi còn sót lại sau buổi chợ.
=> Mang vẻ u buồn tịch liêu, cảm giác tàn tạ, xơ xác và nghèo khổ.
- Mùi “âm ẩm bốc lên…” gợi sự nghèo nàn, ẩm thấp, buồn bã.
- Những kiếp người tàn: những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ, mẹ con chị Tí, bà cụ Thi hơi điên điên nghiện rượu, với tràng cười ám ảnh, chị em Liên, An, bóng dáng của người mẹ vất vả, khổ cực.
=> Điểm chung của tất cả những con người nơi phố huyện ấy là sự nghèo khổ, với cuộc sống đơn điệu tẻ nhạt, tù túng, bó hẹp, tối tăm và bế tắc.

* Bức tranh tâm hồn Liên:
- Tâm hồn tinh tế và nhạy cảm:
+ Cảm nhận của Liên về “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng đó là mùi riêng của đất, của quê hương này”. => Cảm thấy nó thân thuộc, gần gũi, gắn bó và yêu thương vô cùng.
+ Chứng kiến màn đêm đang dần sập xuống trước mắt “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị”.
=> Cảm nhận được một cách thấm thía, cái buồn của cảnh sắc ngày tàn thấm dần vào tâm hồn non nớt của chị, khiến chị suy tư như một con người trưởng thành.
- Tấm lòng nhân hậu, yêu thương của chị đối với những kiếp người tàn nơi phố huyện.
+ Đối với mẹ con chị Tí thì là sự quan tâm, hỏi han là ánh nhìn thương cảm, ái ngại, xót xa cho cuộc sống vất vả của họ thông qua cái cách mà Liên kể về gia cảnh của chị.
+ Với mấy đứa trẻ con ven xóm chợ là lòng thương xót tội nghiệp là cảm giác bất lực vì chính bản thân chị cũng nghèo, chị cũng không thể giúp đỡ gì cho những đứa trẻ tội nghiệp ấy.
+ Với bà cụ Thi điên điên, với tiếng cười ám ảnh, Liên có chút sợ hãi nhưng chị vẫn dành cụ sự quan tâm, nó không nằm ở lời nói mà đến từ hành động của chị.

b. Bức tranh phố huyện lúc trời tối:

* Bức tranh thiên nhiên:
- Xây dựng bằng hai mảng màu sáng tối, là thủ pháp đặc trưng của văn học lãng mạn, gợi ra một khung cảnh để lại ấn tượng trong lòng lòng người đọc.
- “đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”.
=> Bóng tối hiện diện ở khắp mọi nơi, bóng tối bao trùm lên tất cả, mỗi lúc càng trở nên đặc quánh hơn.
- Ánh sáng: “khe sáng” lọt ra từ các ngôi nhà, “quầng sáng” lay động trên ngọn đèn của chị Tí, rồi thì những “hột sáng” của các ngọn đèn vặn nhỏ, nguồn sáng của bếp lửa bác Siêu nhạt nhòa. Ánh sao, ánh đom đóm.
=> Yếu ớt, le lói, mong manh, không đủ sức chiếu sáng.
=> Những ánh sáng chập chờn ấy chỉ tô đậm thêm cái tối tăm vô tận, cái bế tắc mù mịt của màn đêm nơi phố huyện này, tượng trưng cho những kiếp người nhỏ bé, mong manh và lay lắt ở phố huyện, còn bóng tối chính là tượng trưng cho cái cảnh bế tắc, quanh quẩn, tối tăm mênh mông của xã hội cũ, đang nuốt chửng những kiếp người nghèo khổ, yếu ớt.

* Bức tranh sinh hoạt:
- Vợ chồng bác Xẩm với “tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng” đứa con thì bò ra ngoài đất nghịch ngợm những rác bẩn, nghèo khổ, bần hàn.
- Chị Tí ngồi cầm cành chuối khô phe phẩy đuổi ruồi, đã vẽ ra cảnh tượng quán hàng ế khách, vắng lặng và thiểu não.
- Bác Siêu với gánh phở nghi ngút khói, với bếp lửa bập bùng trong đêm tối, ế ẩm, chán ngán.
- Còn chị em Liên, lại bị bó buộc trong cái gian hàng xập xệ, ngày này qua ngày khác chán chường trên chiếc chõng tre sắp gãy nát.
=> Và giữa một khung cảnh tối tăm bế tắc ấy có một đốm sáng hiện lên “chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”, đó là ước mơ về sự đổi đời, nhưng rất mơ hồ.

* Tâm trạng Liên:
- Sự rung cảm tinh tế trước những cảnh sống xung quanh, ấy là sự tưởng tượng thú vị khi ngước mắt nhìn lên bầu trời đêm đầy ánh sao lấp lánh với những vệt sáng của đom đóm, nghĩ về một thế giới cổ tích xa xăm.

- Quan sát rất tỉ mỉ, nhạy bén phát hiện được những sự biến chuyển của cuộc sống trong chi tiết các loại nguồn sáng với đủ hình dạng, kích thước, sắc thái.
- Ước mơ về sự đổi đời, thể hiện trong việc cô bé luôn hướng về nguồn sáng, hướng về những ánh sáng hiện diện nơi phố huyện, nhớ về ánh sáng ở Hà Nội.

c. Bức tranh phố huyện lúc tàu đến và đi:

* Khi tàu đến:
- Đoàn tàu xuất hiện với những âm thanh ““tiếng dồn dập, rít mạnh vào ghi”, “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng còi rít lên và tàu rầm rộ đi tới”, đó đều là những âm thanh thực sự rộn ràng và náo nhiệt khác hẳn với những âm thanh buồn tẻ, chậm rãi nơi phố huyện.
- Chuyển động mạnh mẽ “tàu rầm rộ đi tới”, “đoàn xe vụt qua” cũng mang lại sắc thái khác hẳn với những chuyển động rời rạc, chậm chạp, khẽ khàng và chán nản của phố huyện.
- Ánh sáng “toa đèn sáng trưng, chiếu cả xuống đường… đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng” khác hoàn toàn so với những thứ ánh sáng tù mù, le lói, từng hột, từng vệt => Rực rỡ, kèm theo cả sự sung túc giàu có trái ngược với cái tối tăm, nghèo khổ nơi phố huyện.
=> Kéo về trong tâm trí Liên ký ức về một vùng thủ đô văn minh, về cuộc sống sung túc thuở ấu thơ mà chị từng được hưởng, đem lại những kỷ niệm đẹp đẽ của một thời đã xa.

* Khi tàu đi:
- Đoàn tàu ấy đi qua đã để lại trong lòng cô bé rất nhiều cảm xúc, Liên nghĩ về Hà Nội, bởi đoàn tàu ấy từ thủ đô về nó đã mang một chút thế giới khác đi qua, một thế giới mà Liên vẫn hằng ao ước.
- Đoàn tàu hôm nay dường như kém sáng hơn hôm qua => Cuộc sống đã ngày càng bế tắc và khó khăn hơn
- Liên bắt đầu quay về với thực tại “chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn”, tiếp tục một cái khung cảnh vắng lặng, màn đêm thì đặc quánh. Còn những con người thì rệu rã, chậm rãi thu xếp đồ ra về, buồn bã, mệt mỏi => Vắng lặng, chán chường và bế tắc, tăm tối hơn.

3. Kết bài

Nêu cảm nhận chung.


Video liên quan

Chủ Đề