Vì sao đã hai lần xâm lược đại việt đều thất bại nhưng vương nguyên vẫn tiếp tục xâm lược lần 3

Mục lục

Nguyên nhânSửa đổi

Sau thất bại trong việc chinh phạt Đại Việt năm 1285, hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt vẫn không từ bỏ kế hoạch chiếm Đại Việt. Gần như ngay lập tức, kế hoạch tái chinh phạt được hoạch định. Ngày 21 tháng 8 năm 1285, Khu mật viện nhà Nguyên trình đề nghị tái chiến với Đại Việt

Giữa tháng 2 năm 1286, Hốt Tất Liệt lệnh cho Ariq Qaya bàn kế hoạch đánh Đại Việt. Đầu tháng 3, danh sách các chỉ huy quân Nguyên tham gia được phê duyệt. Giữa tháng 3, việc điều động binh lính bắt đầu và đồng thời một dự án đóng 300 tàu chiến được khởi công.

Tuy nhiên, do những cuộc khởi nghĩa của nhân dân Trung Quốc nổ ra khắp nơi ở miền Nam Trung Quốc, nên vào tháng 6 năm 1286 vua Nguyên ra lệnh hoãn việc chinh phạt Đại Việt. Đến cuối năm 1286, việc chuẩn bị chinh phạt Đại Việt được tái khởi động.[2]

Tương quan lực lượngSửa đổi

Quân NguyênSửa đổi

Theo kế hoạch mà Hốt Tất Liệt đề ra vào tháng 3 năm 1286, đội quân Nguyên chinh phạt Đại Việt vẫn sẽ do Thoát Hoan làm tổng tư lệnh. A Lý Hải Nha làm phó tổng tư lệnh. Các chỉ huy cao cấp khác gồm Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp [tướng người Hán của nhà Nguyên], Diệp Hắc Mê Thất, A Lý Quỹ Thuận,... Sau đó, tháng 11 năm 1286, A Bát Xích, A Lý, Trình Bằng Phi [tướng người Hán của nhà Nguyên], Ái Lỗ, Trương Ngọc, Lưu Khuê, Tích Đô Nhi, Trương Văn Hổ, Phí Củng Thìn, Đào Đại Minh [những tên cướp biển người Hán làm tướng nhà Nguyên], Trần Trọng Đạt, Tạ Hữu Khuê, Bồ Tý Thành cũng được điều động. Phần lớn các tướng lĩnh này đều đã từng tham gia chinh phát Đại Việt năm 1285.[3] A Lý Hải Nha qua đời ngày 18 tháng 6 năm 1286, và Áo Lỗ Xích được cử làm phó cho Thoát Hoan.

Theo Nguyên sử, ngoài việc huy động lại những quân lính trong lần chinh phạt thứ 2 thoát được về Trung Quốc, nhà Nguyên còn huy động thêm 7 vạn quân Mông Cổ và Hán của ba tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng, 1.000 quân nhà Nam Tống cũ đầu hàng theo Nguyên, 6.000 quân của Vân Nam, 15.000 quân người Lê ở Hải Nam, ngoài ra còn quân người dân tộc ở Quảng Tây. Số quân huy động thêm mà Nguyên sử ghi là 92.000, chưa tính số quân người Choang không được ghi rõ. An Nam chí lược ghi tổng số quân là 10 vạn, nhưng khi vào đến Đại Việt hội binh thì lại ghi có 50 vạn. Đại Việt sử ký Toàn thư ghi số quân Nguyên là 50 vạn. Về thủy quân, quân Nguyên có 700 thuyền chiến mới đóng cùng 120 thuyền chiến của Hải Nam đều đặt dưới sự chỉ huy của Ô Mã Nhi. 100 thuyền vận tải chở 17 vạn thạch lương do Trương Văn Hổ chỉ huy đi cùng Ô Mã Nhi.[4]

Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược cho rằng số quân Nguyên khoảng 30 vạn và Trần Xuân Sinh trong Thuyết Trần cho rằng con số này giống như An Nam chí lược ghi khi quân Nguyên hội binh, là gần với sự thực, vì ngoài số quân mới huy động còn số quân trở về từ thất bại năm 1285 được điều động quay trở lại Đại Việt.[1]

Rút kinh nghiệm từ thất bại lần trước, quân Nguyên trang bị hai hạm thuyền lớn. Hạm đội tải lương dưới quyền của Trương Văn Hổ, chở theo 17 vạn thạch lương [có sách chép 70 vạn] để giúp đảm bảo hậu cần cho quân Nguyên, giảm bớt sự lệ thuộc vào việc tải lương đường bộ vốn rất khó khăn và tốn nhiều nhân lực. Hạm đội chiến đấu gồm có cả thảy hơn 600 chiến thuyền dưới quyền chỉ huy của Ô Mã Nhi, với hàng vạn thủy quân tinh nhuệ nhất của nước Nguyên là những sắc quân người Lê đảo Hải Nam, quân Tân Phụ miền Giang Nam. Hạm đội của Ô Mã Nhi có nhiệm vụ đánh mở đường và hộ tống đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, đồng thời sẽ là một lực lượng quan trọng để phá tan ưu thế thủy chiến của quân Đại Việt. Lần xâm lược này, quân Nguyên có tổng quân số ít hơn lần trước, nhưng thủy quân được tăng cường mạnh mẽ hơn rõ rệt. Gần sát ngày tiến quân, Hốt Tất Liệt còn đích thân ra chỉ dụ căn dặn các tướng: “Không được cho Giao Chỉ là nước nhỏ mà khinh thường”.

Quân TrầnSửa đổi

Phía Đại Việt đã tiến hành tổng động viên. Lần này lãnh đạo là Trần Nhân Tông. Tướng chỉ huy toàn bộ quân đội là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Tổng số quân nhà Trần khoảng 32 vạn[1] [con số này có lẽ tính gộp cả quân chủ lực lẫn quân địa phương và dân binh]

Trần Nhân Tông đại xá thiên hạ, chỉ trừ những người từng hàng quân Nguyên đều không được đại xá. Nhiều tù nhân được tha, tình nguyện tòng quân ra mặt trận để báo ơn.

Trần Quốc Tuấn với những kinh nghiệm tác chiến thu được sau khi đánh bại quân Nguyên 2 năm trước, sau khi phân tích tình hình quân Nguyên, đã tự tin tâu với vua Trần: "Thế giặc năm nay dễ phá"

Ô Mã Nhi cho quân bắn thư sang quân ta đe dọa vua Trần: “Ngươi chạy lên trời ta theo lên trời, ngươi chạy xuống đất ta theo xuống đất, ngươi trốn lên núi ta theo lên núi, ngươi lặn xuống nước ta theo xuống nước” [theo Thiên Nam hành ký – Từ Minh Thiên]. Ấy là do Ô Mã Nhi cho rằng lần này hắn đã có thủy quân mạnh, thuyền bè nhiều nên có thể dễ dàng tung hoành trên khắp lãnh thổ Đại Việt chứ không giống như lần xâm lược trước. Tuy nhiên, viên tướng thủy quân Nguyên Mông không thể đắc chí được lâu.

Tại các căn cứ Cảm Nam [phía nam Thăng Long, chưa rõ vị trí], Hàm Tử [thuộc Khoái Châu, Hưng Yên ngày nay] quân ta đã bố trí hai chốt chặn hậu, tạo điều kiện cho vua Trần và đầu não triều đình rút lui. Thoát Hoan cho rằng vua Trần ở Cảm Nam, đích thân đem quân đánh vào đấy, lại lệnh cho A Bát Xích dẫn bộ binh đánh vào Hàm Tử. Vượt qua được Cảm Nam và Hàm Tử, quân Nguyên tiếp tục đuổi xuống phía nam thì gặp phải chốt chặn ở Hải Thị [ngã ba sông Luộc, ranh giới tỉnh Hưng Yên và Thái Bình ngày nay]. Khi quân Nguyên vượt qua được Hải Thị thì đại quân và triều đình Đại Việt đã đi xa. Thoát Hoan, Ô Mã Nhi, A Bát Xích chia quân lùng sục khắp vùng Thiên Trường [thuộc Nam Định ngày nay], Long Hưng [Thái Bình ngày nay] để tìm kiếm tung tích vua Trần.

Không tìm thấy đầu não quân ta, Ô Mã Nhi tức tối sai quân tàn phá Chiêu lăng, là lăng mộ vua Trần Thái Tông ở phủ Long Hưng. Quân Nguyên đào bới, tìm mãi chẳng thấy quách của vua Trần Thái Tông, chỉ đập phá công trình rồi rút đi. Giặc vừa truy lùng vua Trần vừa cướp bóc, giết chóc khắp nơi. Chúng đốt phá các điền trang, thái ấp, làng mạc dọc đường tiến quân, một dãi giang sơn xơ xác tiêu điều. Các tướng lĩnh Nguyên Mông rất căm tức quân dân ta đã đánh bại chúng lần trước nên không bỏ qua cơ hội nào để trút hận thù lên muôn dân. Cuộc chiến do đó mang nặng màu sắc diệt chủng.

Ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông

Chiến tranh Mông Nguyên - Đại Việt [hay kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên] là cuộc chiến bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại Việt đầu thời Trần dưới sự dẫn dắt của vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Thời gian kháng chiến bắt đầu từ năm 1258 đến năm 1288 nhưng thời gian chiến sự chính thức chỉ khoảng 9 tháng, chia làm 3 đợt.

Thời điểm tấn công nước ta, đế chế Mông Cổ [Nguyên - Mông] đang ở đỉnh cao khi cai trị vùng đất rộng đến hơn 24 triệu km2, thống trị khoảng 100 triệu dân trải dài từ châu Á sang tận Đông Âu. Song cả 3 lần tấn công nước ta đạo quân tàn bạo đó đều bị chặn đứng bởi quân dân nhà Trần.

Theo ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư, cuộc xâm chiếm Đại Việt lần thứ nhất nằm trong kế hoạch chinh phạt lớn của đế chế Mông Cổ. Theo tính toán của Mông Kha, chiếm được Đại Việt thì sẽ tạo ra bàn đạp để chiếm Nam Tống và chiếm hoàn toàn phía Nam Trung Quốc.

Sự hung hãn của đoàn kỵ binh quân Nguyên Mông

Ở lần tấn công đầu tiên, Mông Cổ huy động 5.000 kỵ, 20.000 quân Đại Lý thông thạo địa hình rừng núi giáp vùng biên cương Đại Việt. Hai bên giao chiến ở Bình Lệ Nguyên và quân Mông Nguyên thảm bại.

Sau lần chạm trán đầu, nhà Trần rút quân chiến lược, tránh đối đầu trực tiếp với quân địch đang hừng hực khí thế, trước khi đánh bại chúng ở Đông Bộ Đầu vào ngày 29/1/1258. Vó ngựa Mông - Nguyên chinh phục khắp châu Á đã lần đầu tiên gục ngã trước Hào khí Đông A.

Vào đầu năm 1284, vua Nguyên triều đại người Mông Cổ thành lập sau khi xâm chiếm Trung Quốc] lại sai Thoát Hoan mang đội quân đông đảo và thiện chiến xuống phía Nam. Sau khi vượt biên qua biên giới, quân Mông Nguyên lại bại trận ở một số nơi nhưng sức chiến đấu vẫn hừng hực nên Trần Quốc Tuấn quyết định rút quân chiến lược về Vạn Kiếp.

Tháng 2/1285, Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi đem binh thuyền tấn công Vạn Kiếp. Sau đó tổ chức bao vây 10.000 quân ta tại Bình Than. Một trận thủy chiến lớn diễn ra tại đây.

Sau trận này, quân ta rút về đóng ở sông Hồng, tập trung thủy quân và xây dựng các chiến lũy bằng gỗ trên bờ nam để cầm chân quân Nguyên, tạo thời gian cho việc sơ tán quân dân khỏi kinh thành theo kế sách "vườn không nhà trống".

Tháng 3/1285, một cánh quân Nguyên khác do Toa Đô chỉ huy từ Chiêm Thành đánh thốc vào phía nam Đại Việt. Quân ta đón đánh quân địch ở Toa Đô [Nghệ An]. Do chênh lệch lực lượng nên quân ta phải rút về vùng biển ở Quảng Ninh, Hải Phòng rồi lại đi vào Thanh Hóa.

Lần rút lui chiến lược về Vạn Kiếp

Ở Thanh Hóa, vua Trần chỉnh đốn quân đội. Vua Trần và Trần Quốc Tuấn chia đại quân thành nhiều mũi để thực hiện tổng phản công. Dưới sự thống lĩnh của Trần Quốc Tuấn, các cánh quân liên tiếp đại thắng, giải phóng Thăng Long.

Đến ngày 24/6/1285, quân ta đánh cánh quân Toa Đô tại Tây Kết. Toa Đô bị chém chết tại trận, hơn 50.000 quân Nguyên bị bắt, tịch thu vũ khí. Cùng thời điểm, Trần Quốc Tuấn mở nhiều cuộc tấn công bên bở sông Hồng, quét sạch cánh quân của Thoát Hoan khỏi bờ cõi nước ta.

Thất bại lần thứ 2 này khiến Hốt Tất Liệt vô cùng căm phẫn. Hoàng đế nhà Nguyên lại huy động hàng trăm nghìn quân lính và chiến thuyền tiếp tục tấn công nước ta lần thứ 3.

Vào tháng 12/1287, quân thủy bộ nhà Nguyên chia làm 3 đạo tiến vào Đại Việt. Tháng 2/1288, quân Nguyên đánh phá Thăng Long. Lúc này, quân ta lại thực hiện chiến thuật "vườn không nhà trống". Ở Thăng Long, không có lực lượng khiến Thoát Hoan vô cùng lúng túng.

Đến cuối tháng 3/1288, Thoát Hoan quyết định rút quân khỏi nước ta. Dưới sự chỉ huy của nhà vua và Trần Quốc Tuấn, quân ta tiêu diệt toàn bộ quân Nguyên ở Bạch Đằng vào tháng 4/1288.

Một ngày trước khi trận Bạch Đằng diễn ra, quân Nguyên bắt đầu rút từ Vạn Kiếp lên Lạng Sơn. Quân Đại Việt liên tục phục kích, chặn đánh làm quân Nguyên tổn thất rất lớn.

Đến ngày 19/4/1288, quân Nguyên bị đánh bật hoàn toàn khỏi Đại Việt. 3 lần kháng chiến chống Mông - Nguyên kết thúc.

KHÁNG CHIẾN CHỐNG XÂM LƯỢC NGUYÊN- MÔNG

KHÁNG CHIẾN CHỐNG XÂM LƯỢC NGUYÊN- MÔNG

- Cuộc kháng chiến lần thứ nhất năm 1258

Thế kỉ XIII, các bộ lạc du mục [Thát Đát, Tác Ta] bước vào giai đoạn thống nhất, dần hình thành đế quốc Mông Cổ. Ngay trong quá trình thống nhất, Mông Cổ đã tổ chức các đạo quân xâm lược, không ngừng bành trướng lãnh thổ. Sau khi đánh chiếm Đại Lí [Vân Nam, Trung Quốc], Mông Cổ ráo riết sửa soạn xâm lược Đại Việt nhằm chiếm đất đai, tạo bàn đạp và thế gọng kìm đánh lên Nam Tống.

Trước âm mưu xâm lược của Mông Cổ, quân dân nhà Trần đã tích cực chuẩn bị kháng chiến. Vùng đất Vĩnh Phúc - với địa hình trải theo các triền sông lớn [sông Lô, sông Hồng] - trở thành vị trí hết sức xung yếu, từ Vân Nam [Trung Quốc] có thể theo ngả sông Hồng, qua vùng đất này trước khi vào kinh đô Thăng Long cũng như tiến sâu vào lãnh thổ Đại Việt. Vì thế, nhà Trần từ sớm đã chú ý phòng ngự, lệnh cho cả nước khẩn trương chuẩn bị đánh giặc. Tháng 10 năm 1257, vua Trần Thái Tông xuống chiếu cho các tướng điều quân thuỷ bộ lên miền biên giới tây bắc. Ngã ba Bạch Hạc nhiều lần được Trần Quốc Tuấn chọn là nơi luyện tập thủy quân. Trần Nhật Duật cũng cho đóng đại bản doanh tại Bạch Hạc, chỉ huy lực lượng quân đội, án ngữ vùng Việt Trì.

Đầu năm 1258, khoảng 3 vạn quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy, theo lưu vực sông Hồng phía tả ngạn và hữu ngạn sông Thao tiến vào Đại Việt. Đường tả ngạn qua vùng đất Hà Tuyên xuống Bạch Hạc [Việt Trì]. Đường hữu ngạn qua vùng đất Quy Hoá [Yên Bái, Vĩnh Phúc] cùng xuống Bạch Hạc. Hai đạo quân nhỏ này có nhiệm vụ đi trước thăm dò, dẫn đường. Theo sau là đạo quân khác do con trai của Ngột Lương Hợp Thai là Aju [A Thuật] chỉ huy. Cuối cùng là đạo quân do chính Ngột Lương Hợp Thai trực tiếp cầm đầu.

Tháng 1 năm 1258, hai đạo quân Mông Cổ đi trước cùng đến hội quân ở Bạch Hạc. Sau đó chúng theo đường bộ, định tiến về Thăng Long qua ngả Bình Lệ Nguyên. Tại Bình Lệ Nguyên [huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc], trên sông Cà Lồ, vua Trần Thái Tông đã lập phòng tuyến chặn giặc. Bình Lệ Nguyên chính là trận đầu tiên quân dân Đại Việt đối đầu trực diện với quân Mông Cổ. Tuy nhiên, địa hình Bình Lệ Nguyên lại khá thuận lợi cho kị binh Mông Cổ phát huy sở trường. Vì thế, trận địa của quân dân nhà Trần bị lấn dần. Đạo quân của tướng Lê Tần [Lê Phụ Trần] được lệnh vừa đánh vừa rút.

Trong các trận đánh quân Mông Cổ trên vùng đất Vĩnh Phúc, bên cạnh các đội quân chính quy của triều đình, lực lượng dân binh của các thổ tù, chủ trại địa phương đã góp phần không nhỏ trong việc cản bước quân giặc. Tiêu biểu là các đội quân của Hà Bổng, Hà Đặc.

Tuy nhiên, trước sức mạnh của địch, nhận thấy khó giữ được Thăng Long, để bảo toàn lực lượng, vua tôi nhà Trần quyết định rút lui khỏi kinh thành. Sau khi củng cố lực lượng, ngày 29 tháng 1 năm 1258, quân Đại Việt từ sông Thiên Mạc mở đợt phản công đánh địch tại bến Đông Bộ Đầu [bến sông Hồng cạnh kinh thành Thăng Long]. Quân Mông Cổ bị đánh bật khỏi kinh thành Thăng Long, rút chạy theo ngả sông Hồng về Vân Nam.

Khi tàn quân Mông Cổ chạy qua đất Quy Hóa [miền tây Vĩnh Phúc, giáp với Yên Bái], Hà Bổng đã tập hợp dân binh các làng tổ chức mai phục. Chiến thắng của các trận phục kích ở Quy Hóa có ý nghĩa to lớn, góp phần khích lệ, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân Đại Việt.

Ngày nay, vùng đất Bình Xuyên vẫn còn lưu lại những tên gọi địa danh ghi dấu trận chiến năm 1258. Tại đền thờ một bộ tướng của Hai Bà Trưng xã Sơn Lôi [huyện Bình Xuyên] còn đôi câu đối, trong đó có một vế nhắc lại chiến công trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất này: "Trần phá Nguyên binh vạn cổ anh linh lưu bất tử" [Nhà Trần đánh quân Nguyên, anh linh ngàn năm bất diệt].

- Cuộc kháng chiến lần thứ hai năm 1285

Sau thất bại năm 1258, quân Mông Cổ vẫn nuôi dã tâm xâm lược Đại Việt. Năm 1279, Mông Cổ tiêu diệt nhà Tống, Hốt Tất Liệt lên ngôi, thiết lập triều Nguyên. Triều Nguyên nhiều lần cho sứ giả sang dụ dỗ, đe dọa vua tôi triều đình Đại Việt. Nhà Trần đã khôn khéo đấu tranh, kéo dài thời gian hòa hoãn để chuẩn bị về mọi mặt. Năm 1279, mượn cớ đánh Chiêm Thành, nhà Nguyên âm mưu đưa quân vào Đại Việt. Năm 1282, quân Nguyên do Toa Đô chỉ huy vượt biển đánh Chămpa, để từ đó đánh lên Đại Việt từ phía nam. Cuối tháng 1 năm 1285, 50 vạn quân Nguyên [gồm cả cánh quân đánh Chămpa năm 1282] từ hai hướng Vân Nam và Lạng Sơn vượt biên giới tấn công Đại Việt.

Trong thời gian này, nhà Trần đã mở hội nghi Bình Than [1282] và Diên Hồng [1285], phát động và cổ vũ tinh thần toàn quân, toàn dân tham gia đánh giặc.

Đạo quân Nguyên từ Vân Nam do Nạp Tốc Đạt Đinh thống lĩnh theo lưu vực sông Chảy tiến xuống, bị quân ta do tướng Trần Nhật Duật chỉ huy chặn đánh ở Thu Vật [Yên Bình]. Song, do thế giặc mạnh và với phương châm chỉ đánh tiêu hao nhằm cản bước tiến của địch để bảo toàn lực lượng, Trần Nhật Duật rút quân về Bạch Hạc. Tại đây, ông tiếp tục thực hiện chiến thuật trên.

Chiếm được Thăng Long, nhưng quân Nguyên không tiêu diệt được bộ chỉ huy cuộc kháng chiến, lại gặp nhiều khó khăn về lương thực, khí hậu. Ngược lại, quân đội Đại Việt vẫn bảo toàn được lực lượng, tạo thời cơ để tổ chức cuộc phản công chiến lược. Chiến thắng Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương đã buộc Thoát Hoan phải rút quân khỏi kinh thành Thăng Long, theo hướng Lạng Sơn rút quân về nước. Trên đường rút chạy, quân Nguyên tiếp tục bị quân ta chặn đánh, đến mức Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới thoát chết.

Đạo quân do Nạt Tốc Lạt Đinh chỉ huy rút chạy về Vân Nam theo hướng sông Lô, khi qua địa phận Phù Ninh, bị quân Hà Đặc đuổi đánh đến vùng Quảng Nạp [A Lạp]. Hà Đặc hi sinh, em Hà Đặc là Hà Chương nhân đêm tối, tiếp tục tập kích vào trại giặc.

- Cuộc kháng chiến lần thứ ba năm 1288

Mặc dù đã hai lần thất bại song quân Nguyên vẫn chưa từ bỏ ý đồ xâm lược nước ta. Để chuẩn bị cho lần viễn chinh thứ ba này, Hốt Tất Liệt đã huy động hàng chục vạn quân, chia làm 3 mũi tiến vào từ 3 phía: Vân Nam, Lạng Sơn, đạo quân thủy do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp vượt biển, qua Quảng Ninh ngược sông Bạch Đằng để vào nội địa.

Ngả sông Hồng, đạo quân Mông Nguyên do Ái Lỗ [A Rục], A Tri và Mông Khu Đai chỉ huy nhiều lần bị quân của Trần Nhật Duật chặn đánh. Trước thế mạnh ban đầu của giặc, Trần Nhật Duật đã chủ động rút quân từ Tuyên Quang về lập phòng tuyến chống địch tại Bạch Hạc. Ngày 11 tháng 12 năm 1287, sau những trận chiến đấu quyết liệt tại Bạch Hạc, Trần Nhật Duật tiếp tục rút lui.

Cũng như hai lần trước, quân Nguyên tràn vào Thăng Long, song không tiêu diệt được bộ chỉ huy cuộc kháng chiến, quân Nguyên hung hãn tấn công xuống Thiên Trường. Do mất toàn bộ đoàn thuyền lương Vân Đồn, Thoát Hoan lo thiếu lương thực, sợ bị tiêu diệt, vội vã tính chuyên tháo chạy. Theo đúng dự tính của Trần Hưng Đạo, quân dân Đại Việt đã tổ chức phục kích, đánh tan cánh quân thủy trên sông Bạch Đằng. Hàng vạn quân Mông Nguyên bị tiêu diệt, bị bắt sống, [trong đó có các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ] thu về hơn 400 chiến thuyền.

Chiến thắng Bạch Đằng đã đập tan mưu đồ xâm lược Đại Việt của quân Mông Nguyên, bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.

Trong ba lần kháng chiến chống Mông Nguyên, trên vùng đất Vĩnh Phúc, hưởng ứng lời kêu gọi của triều đình, đã có nhiều dân người đứng lên, tập hợp và tổ chức dân binh phục kích, tiêu hao nhiều sinh lực địch.

Ngày nay, trên địa bàn Vĩnh Phúc còn truyền tụng những câu chuyện về bảy anh em họ Lỗ, ba ông quận tham gia đánh giặc Nguyên. Thần tích ghi 7 anh em họ Lỗ quê xã Bồ Lí, tổng Yên Dương, huyện Tam Dương, gia cảnh nghèo khổ, phải kiếm củi nuôi nhau. Khi nghe tin quân Nguyên xâm lược, liền bỏ nghề kiếm củi, tập hợp dân làng đi đánh giặc, địa bàn hoạt động của họ suốt từ tả ngạn sông Lô đến tả ngạn sông Hồng, từ Bạch Hạc đến Chèm [Hà Nội ngày nay]. Sau khi đánh giặc xong, lại trở về quê cũ kiếm củi. Sau bảy anh em được lập đền thờ các xã: Đình Thúy, Gẩu, Tích Sơn [thành phốVĩnh Yên], đình Hướng Đạo, Lai Sơn, Nhân Mĩ, Long Đậu, Láng [huyện Tam Dương].

Sau kháng chiến chống xâm lược Mông Nguyên, trên vùng đất Vĩnh Phúc, dọc các triền sông Lô, sông Hồng - con đường giặc ngoại xâm đã tràn qua, làng xóm bị tàn phá khá nặng nề. Nhân dân Vĩnh Phúc cùng với quân dân cả nước lại bắt tay vào công cuộc khôi phục đất nước, quê hương.

Video liên quan

Chủ Đề