Tu ban than huu là gì trong chủ nghĩa mác năm 2024

Nhân ngày Doanh nhân Việt Nam [13/10], TS Nguyễn Sĩ Dũng có bài bàn về chủ nghĩa tư bản thân hữu, một thứ quan hệ có ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia...

Sự liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân với các quan chức nhà nước là một rủi ro rất lớn của quá trình chuyển đổi. Như một định mệnh nó là loại rủi ro dễ nhận thức, nhưng khó vượt qua.

Ở nước ta, các doanh nghiệp tư nhân đang đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Vai trò này đã được cả xã hội ghi nhận. Trong bối cảnh như vậy, và nhân ngày doanh nhân Việt Nam [13/10] lại nói về sự liên kết của các doanh nghiệp tư nhân với các quan chức nhà nước thật chẳng khác gì cái việc "thổi tù và" trong dàn hợp xướng nhạc giao hưởng vậy.

Tuy nhiên, chuyện "thổi tù và ngược" nhiều khi chướng tai, nhưng không phải hoàn toàn vô ích. Nếu sự liên kết nói trên, còn được gọi là chủ nghĩa tư bản thân hữu [trong tiếng Anh là crony capitalism],có thể làm cho quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị gắn kết với nhau hình thành nên một thứ mafia toàn năng thì rủi ri cho đất nước là khôn lường. Trong sự liên kết này, nhiều hợp đồng béo bở, nhiều nguồn lực quan trọng sẽ bị các quan chức tìm cách chuyển cho các công ty tư nhân quen biết. Đến lượt mình, các công ty này sẽ lại quả và cung phụng chu đáo cho các quan chức. So với các công ty của nhà nước, các công ty tư nhân có thể làm điều này một cách dễ dàng hơn và “hợp pháp” hơn. Lý lẽ thường được đưa ra là: “Tiền của tôi, tôi muốn cho ai là quyền của tôi”.

Chủ nghĩa tư bản thân hữu còn được dùng để chỉ tình trạng bố làm chính trị, còn con cái thì làm kinh tế. Gia đình giàu có lên nhanh chóng nhờ “tài kinh doanh” của những người con. Tuy nhiên, đằng sau cái “tài kinh doanh” đó bao giờ cũng thấp thoáng hình bóng của ông bố. Vị trí lãnh đạo của ông bố đã đưa lại những hợp đồng giá trị, những mối quan hệ làm ăn dễ dàng cho những người con. Chẳng mấy chốc những người con đã có thể thâu tóm hầu hết những ngành kinh tế quan trọng của đất nước.

Đất nước Indonesia dưới thời của Tổng thống Xuhactô đã từng phải đối mặt với chủ nghĩa tư bản thân hữu với những biểu hiện đặc trưng nhất. Tất cả các ngành kinh tế mũi nhọn như xuất nhập khẩu, xây dựng, ngân hàng, tài chính đều do những người con của ông Xuhactô nắm giữ. Đất nước Indonesia đã phải trả giá cho điều này bằng bạo loạn và mất ổn định về kinh tế và chính trị - xã hội như thế nào là điều tất cả chúng ta đều biết. Nước Nga dưới thời của Tổng thống Enxin là một ví dụ nhãn tiền khác. Tất cả các ngành kinh tế quan trọng của đất nước như dầu lửa, ngân hàng v.v. đã lọt vào tay những người thân quen hoặc có quan hệ “người nhà” với gia đình của Tổng thống.

Ở Việt Nam ta bao nhiêu công ty tư nhân đã phất lên nhờ sự đỡ đầu trực tiếp của các quan chức nhà nước? Có lẽ chưa nhiều. Ít nhất thì chưa đến mức mà dư luận xã hội bị đánh động. Tuy nhiên, những mối quan hệ thân thiết thì đã bắt đầu hình thành. Và không ít hợp đồng cũng đã được chuyển cho các công ty tư nhân theo sự thân quen.

Chúng ta ủng hộ sự phát triển lành mạnh của các công ty tư nhân. Nhưng đó phải là sự phát triển theo đúng quy luật cạnh tranh của thị trường chứ không phải theo mô hình của chủ nghĩa tư bản thân hữu. Ngày Doanh nhân Việt Nam là dịp để chúng ta thổi lên tiếng tù và báo động về hiểm hoạ của chủ nghĩa tư bản thân hữu đối với đất nước ta.

Tiến sỹ Đỗ Mạnh Hồng, nhà nghiên cứu về kinh tế Đông Nam Á và Việt Nam của Obirin University, Tokyo, nói với Quốc Phương của BBC Tiếng Việt về chủ nghĩa tư bản thân hữu ở Việt Nam:

"Bản chất của họ là tư bản thân hữu. Họ chỉ sử dụng quan hệ để mưu cầu đặc lợi. Họ thầu nhiều công trình bằng những thông tin độc quyền họ có được. Họ đấu thầu các dự án, khi đấu thầu được rồi thì họ bán cho các nhà thầu khác.

“Hình thức tư nhân trá hình này cần phải được làm rõ.

“Dạng thứ nhất [của tư bản thân hữu] bắt nguồn từ các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Không phải tất cả các hành vi của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đều là hình thức tư bản thân hữu mà chỉ có một bộ phận.

“Ví dụ trong ngành công nghiệp ô tô. Các doanh nghiệp sản xuất ô tô thực ra chỉ là lắp ráp. Họ lobby để chống lại chính sách tự do hóa nhập khẩu ô tô.

“Mặc dù công nghiệp ô tô ở Việt Nam đã được nuôi dưỡng khoảng hơn 30 năm nay rồi nhưng chi phí để lắp ráp một chiếc ô tô trong nước đắt hơn so với ở nước ngoài rất nhiều.

“Tại sao lại có chuyện vô lý như thế? Là vì có sự hiện diện của những hành vi có thể gọi là tư bản thân hữu.

“Rõ ràng là những hành vi mang tính tư bản thân hữu này chỉ tìm kiếm những đặc lợi đặc quyền không phản ánh giá trị gia tăng do bản thân họ làm ra. Họ chỉ tìm kiếm phần chênh lệch có được do chính sách ngăn cấm.”

Cần phải nói rằng khái niệm “chủ nghĩa tư bản thân hữu” trước nay được nhắc đến nhiều, tuy nhiên nó chỉ thực sự được xem xét cẩn thận khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 nổ ra ở Đông và Đông Nam Á. Trước khi cuộc khủng hoảng này nổ ra, thành công trong tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế mới nổi như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Koong, và Singapore được coi là thành công thần kỳ [spectacular success – theo cách nói của World Bank năm 1993]. Nhiều học giả thời đó tìm cách giải thích sự thần kỳ của 4 “con hổ Châu Á” này và các chú “tiểu hổ” tiếp theo ở Đông Nam Á [bao gồm Thái Lan, Malaysia, và Indonesia] bằng nhiều lý thuyết khác nhau như “mô hình tăng trưởng đông á” hoặc là “nhà nước phát triển” – ám chỉ vai trò dẫn dắt của một nhà nước thông minh nhằm định hướng cho thị trường vượt qua các “bẫy” của kinh tế tự do để đạt được thành công nhanh hơn.

Tuy nhiên, nói như Jong-Sung You [Đại học Harvard], thì “cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á đã làm thay đổi cách nhìn của thế giới về các nước này, đặc biệt là Hàn Quốc. Rất nhiều người, bao gồm cả IMF, đã cho rằng chủ nghĩa tư bản thân hữu ở Hàn Quốc và các nền kinh tế khác trong khu vực chính là thủ phạm gây ra khủng hoảng. Vì thế mà chỉ trong một đêm, Hàn Quốc từ chỗ là hình mẫu lý tưởng của một “nhà nước phát triển” với hệ thống cai trị tốt chuyển sang một đất nước đầy những tệ tham nhũng và bè phái.”

Điều này tạo ra nhiều bí ẩn khó giải thích: tại sao vẫn là các nền kinh tế này, vẫn những hệ thống chính trị đó, vẫn các mối quan hệ mang tính bè phái và tham nhũng đó, nhưng lại có thời kỳ lại tạo ra những điều thần kỳ trong phát triển, còn những lúc khác lại đem đến khủng hoảng và đổ vỡ? Thêm nữa, các nền kinh tế Đông Á đều có mức độ tham nhũng cao, đều là chủ nghĩa tư bản thân hữu, nhưng có những nền kinh tế thành công hơn về mọi mặt [như Hàn Quốc] nhưng lại có những nền kinh tế tệ hơn về mọi mặt [như Philippines]?

David C. Kang – giáo sư đại học Dartmouth – có lẽ là học giả có nghiên cứu sâu sắc nhất về lĩnh vực này. Cuốn sách của ông “Crony Capitalism: Corruption and Development in South Korea and the Philipipnes” là một cuốn sách được nhắc đến thường xuyên trong các nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản thân hữu ở Châu Á. Trong cuốn sách này, Kang đưa ra một lý thuyết về chủ nghĩa tư bản thân hữu nhằm giải đáp cho bí ẩn trên. Cách tiếp cận của Kang là cách tiếp cận chính trị thực dụng. Theo Kang, bản chất của mối quan hệ giữa các doanh nghiệp và nhà nước là mối quan hệ mang tính tìm kiếm lợi ích từ chính sách [rent seeking]. Rent được hiểu là món lợi nhuận đặc biệt tạo ra từ các chính sách.

Thí dụ một chính sách hạn chế nhập khẩu sẽ bóp méo thị trường trong nước về hàng nhập khẩu đó, làm cho nguồn cung bị hạn chế lại và vì thế những doanh nghiệp nào nhận được quotas để nhập khẩu sẽ được lợi vì có thể bán được giá cao. Vì thế chính sách này tạo ra một thứ lợi ích vốn dĩ không có nếu không có chính sách này ra đời, món lợi đó được gọi là rent.

Một thí dụ khác là các chính sách hỗ trợ phát triển, theo đó nhà nước thành lập ra các quỹ [thí dụ quỹ để kích cầu] và cho một số doanh nghiệp nhất định hưởng các khoản ưu đãi lấy ra từ quỹ này như cho vay với chi phí lãi vay rất thấp hoặc bằng không, hay là mua hàng hoá từ các doanh nghiệp này với số lượng lớn [thí dụ như đổ tiền làm cơ sở hạ tầng].

Các quan chức nhà nước có quyền lực để tạo ra các chính sách nhất định và các chính sách này lại tạo ra rent. Các doanh nghiệp biết rõ điều này, và vì thế, họ luôn tìm cách tác động lên các quan chức nhà nước để bộ máy nhà nước sản sinh ra các chính sách tạo ra rent và họ là người hưởng lợi. Các quan chức cũng biết rõ điều này, vì vậy trong khuôn khổ cho phép, họ cũng tìm cách tạo ra các chính sách bóp méo để tạo rent, và phân phát các lợi ích này tới các doanh nghiệp “thân hữu” của họ để các thân hữu này lại chia cho họ một phần rent kiếm được.

Rent seeking là bản chất của quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà nước. Thế nhưng, theo Kang, mức độ mà các quan chức tạo ra rent và đi kèm với nó là mức độ tham nhũng, lại phụ thuộc vào cấu trúc của hệ thống doanh nghiệp cũng như cấu trúc của hệ thống chính trị. Lý thuyết của Kang có thể được tóm lược bằng một bảng hai chiều mô tả quan hệ này.

Ông mô tả quyền lực của nhà nước theo hai nhóm: Thứ nhất là các nhà nước mạnh – là các nhà nước mà các quan chức lãnh đạo đất nước có thể tuỳ ý ra các quyết định/chính sách mà không chịu sự ảnh hưởng đáng kể nào từ xã hội hoặc các chính đảng cạnh tranh [thí dụ như nhà nước độc tài của Park Chung-Hee ở Hàn Quốc].

Thứ hai là các các nhà nước yếu – là các nhà nước mà các quan chức lãnh đạo đất nước không thể tuỳ tiện ban hành các quyết định hay chính sách mà các quyết định này chịu sự chi phối mạnh mẽ của môi trường chính trị [thí dụ có các chính đảng đối lập mạnh], hoặc của khối doanh nghiệp và các thế lực xã hội khác [thí dụ nhà nước mới thành lập].

Ông cũng mô tả quyền lực của khối doanh nghiệp thành hai nhóm:

Thứ nhất là các nền kinh tế với hệ thống doanh nghiệp tập trung, bao gồm một số ít các doanh nghiệp quy mô rất lớn và có quyền lực hùng mạnh trong xã hội [thí dụ như mô hình các đại công ty Cheabol của Hàn Quốc hoặc Keiretsu của Nhật Bản].

Thứ hai là các nền kinh tế với hệ thống doanh nghiệp khá phân tán và không có các đại công ty có sức mạnh chi phối hệ thống [thí dụ các nền kinh tế thị trường đã phát triển với nhiều công ty, tập đoàn lớn, nhưng không có công ty, tập đoàn nào có sức mạnh lấn át các đối thủ khác].

Nhà nước mạnh Nhà nước yếu Doanh nghiệp tập trung Loại 1: Cùng là con tin Mô thức: cấu kết Mức độ tham nhũng: vừa Loại 2: Tìm kiếm rent Mô thức: từ dưới lên Mức độ tham nhũng: lớn Doanh nghiệp không tập trung Loại 3: Nhà nước thợ săn Mô thức: từ trên xuống Mức độ tham nhũng: lớn Loại 4: Kinh tế tự do Mô thức: phân tán Mức độ tham nhũng: thấp

Theo Kang, nếu hệ thống chính trị, nền tảng xã hội, luật pháp không cho phép các quan chức nhà nước tuỳ tiện hành động nhằm tìm kiếm rent, và hệ thống doanh nghiệp cũng không tập trung để có một nhóm nhỏ các doanh nghiệp có thể thao túng, thì nền kinh tế ấy rơi vào tình trạng nền kinh tế tự do.

Các doanh nghiệp không dễ vận động hành lang và các quan chức cũng không dễ tạo ra các chính sách bóp méo để thu rent vì cả hai cấu trúc này đều quá phân tán về quyền lực. Đó là mô hình của các nền kinh tế thị trường đã phát triển với hệ thống luật pháp minh bạch và nền chính trị dân chủ đã trưởng thành. Trong trường hợp này, tham nhũng ở mức thấp, và sự cấu kết giữa doanh nghiệp và quan chức, nếu có, chỉ ở mức lẻ tẻ và phân tán. Các biểu hiện của “chủ nghĩa tư bản thân hữu” không đáng kể, và không nghiêm trọng. [còn tiếp]

* Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Chủ Đề