Trình bày sự ra đời nhà nước đầu tiên của người Việt có

.

Cập nhật lúc: 08:24, 24/04/2018 (GMT+7)

Trong lịch sử dựng nước, thời kỳ các vua Hùng với Nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên của Việt Nam được hình thành với những đặc trưng của hình thái nhà nước nguyên thủy, đã để lại dấu ấn về nền văn hóa đặc sắc cho dân tộc.

Trình bày sự ra đời nhà nước đầu tiên của người Việt có
Người dân viếng Đền thờ Hùng Vương ở tỉnh Phú Thọ. Ảnh: T.THÚY

Theo Đại Việt sử ký toàn thư của sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở thế kỷ 15, Lạc Long Quân (theo truyền thuyết là cháu 5 đời của Thần Nông) cùng vợ là Âu Cơ (con gái Đế Lai) sinh được 100 người con trai; 50 người theo cha về bờ Biển Đông, 50 người theo mẹ về núi và suy tôn người con cả lên làm vua lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc - Phú Thọ.

* Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Nhà nước Văn Lang được hình thành vào khoảng năm 2879 TCN và kết thúc vào năm 258 TCN, có lãnh thổ phía đông giáp Nam Hải (tức Biển Đông), Tây tới Ba Thục, Bắc tới hồ Động Đình, Nam tới nước Hồ Tôn Tinh (còn gọi là nước Hồ Tôn, sau này là Chiêm Thành); lãnh thổ chia thành 15 bộ, còn gọi là quận. Còn dựa trên các di tích văn hóa đồ đồng đã được phát hiện, cho thấy lãnh thổ nước Văn Lang bao gồm khu vực Bắc bộ và 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, có thể kéo dài tới Quảng Trị.

Có thể nói, Nhà nước Văn Lang là dạng nhà nước sơ khai, không thể xếp vào dạng nào trong 5 hình thái nhà nước của lịch sử phát triển thế giới; sự phân hóa xã hội và phân chia giai cấp chưa rõ rệt, nhưng chắc chắn đã hình thành sự phân tầng. Quyền lực của giai cấp thống trị chưa thấy xuất hiện ở thời đại này, thể hiện qua việc phong tục thuần hậu, mộc mạc, “vua tôi cùng đi cày, cha con tắm chung sông không chia giới hạn, không phân biệt uy quyền, thứ bậc” (Lịch triều hiến chương loại chí).

Trong hội thảo về văn hóa Hùng Vương năm 2011, có học giả Trung Quốc cho rằng Hùng Vương là người… Trung Quốc, bởi người Việt không có họ Hùng. Đây là lập luận “cưỡng từ đoạt lý”. Theo các nhà ngôn ngữ học, “Hùng” xuất phát từ “Kun” của người Mường, từ “Khun” trong tiếng Môn - Khmer và tiếng Thái, nhằm để chỉ tù trưởng hoặc thủ lĩnh. Vua Hùng hay Hùng Vương là từ chỉ chức danh của người tù trưởng bộ lạc Văn Lang - bộ lạc lớn mạnh nhất trong tất cả các bộ lạc định cư vùng Bắc bộ và Bắc Trung bộ thời bấy giờ, cơ sở tiền đề hình thành Nhà nước Văn Lang. Cách biến âm này có thể thấy ở tên gọi của vùng đất Mê Linh vốn có từ gốc là Mling - tên của một loài chim được tôn là vật tổ (totem) của bộ lạc.

Dưới Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Nước Văn Lang có 15 bộ (trước là 15 bộ lạc), tổ chức hành chính dưới bộ là các công xã nông thôn (gọi là kẻ, chiềng, chạ) mà đứng đầu là bố chính. Tuy nhiên, nhà vua không áp đặt quản lý ở các đơn vị hành chính cơ sở mà do dân suy cử những người, dòng họ có thế lực, có uy tín. Như vậy, so với chế độ công xã nguyên thủy, với xã hội của các thị tộc trước đó, Nhà nước Văn Lang đã đưa toàn bộ các bộ lạc Việt cổ bước sang một thời đại mới, phù hợp với tiến trình phát triển của thế giới.

Về 18 đời vua Hùng kéo dài trong 2.622 năm, nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần cho rằng 18 vua Hùng không phải là 18 người cụ thể, mà là 18 chi (nhánh/ngành); mỗi chi có nhiều vị vua thay phiên nhau trị vì và dùng chung vương hiệu. Thậm chí con số 18 có thể chỉ nên hiểu là con số tượng trưng ước lệ, vì 18 là bội số của 9 - vốn là con số thiêng trong văn hóa người Việt.

* Những thành tựu rực rỡ

Thời đại Văn Lang có sự phát triển mạnh về nông nghiệp. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, cư dân Văn Lang đã biết trồng lúa nước, theo nước triều lên xuống mà làm ruộng, gọi là ruộng Lạc; biết khắc phục thiên nhiên (truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh), sử dụng dụng cụ nông nghiệp (cày, cuốc, mai, thuổng) và dùng sức trâu bò thay sức người, nhờ vậy người dân có cuộc sống vật chất và tinh thần khá phong phú. Với nguồn lương thực chính là thóc gạo (gạo nếp và gạo tẻ), dân Văn Lang đã biết lấy ống tre thổi cơm (cơm lam), làm bánh (sự tích bánh chưng, bánh giầy); ngoài ra còn có khoai, sắn, thực phẩm có các loại cá, gia súc, gia cầm, rau củ. Đặc biệt, thời này người dân đã biết làm mắm và nước mắm, cũng biết lấy gạo làm rượu, men rượu được chế biến từ lá, vỏ, rễ một số loại cây, giống như rượu cần ngày nay.

Trình bày sự ra đời nhà nước đầu tiên của người Việt có
Dâng lễ vật, hương hoa ở đền thờ Hùng Vương phường Bình Đa, TP.Biên Hòa.

Cư dân Văn Lang có tập quán ở nhà sàn, nhuộm răng đen, ăn trầu (sự tích trầu cau), xăm mình. Theo Lĩnh Nam chích quái, dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá thường bị giao long (thuồng luồng) làm hại nên tâu lại với Hùng Vương. Hùng Vương bảo dân ta ở núi là loài rồng cùng với thủy tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại. Bèn dạy dân lấy mực xăm hình thủy quái trên người, tránh được nạn giao long cắn hại. Tục xăm mình của người Việt cổ bắt đầu từ đây.

Ban đầu, người dân Văn Lang lấy vỏ cây làm áo mặc, phụ nữ mặc áo váy, nam giới đóng khố; biết dệt cỏ ống làm chiếu nằm, sau đó biết sáng chế dụng cụ xe sợi bằng đất nung - tiền đề của việc dệt vải. Cả nam lẫn nữ đều thích dùng đồ trang sức. Người dân cũng biết gác cây làm nhà để tránh thú dữ, giống nhà sàn hiện nay. Tín ngưỡng phổ biến của cư dân Văn Lang là sùng bái tự nhiên, thờ thần Mặt Trời (ngôi sao nhiều cánh ở giữa mặt trống đồng là tượng trưng cho thần Mặt Trời), thần Sông, thần Núi… Người Việt cũng có tín ngưỡng phồn thực thể hiện niềm tin của con người trong nguyện cầu được sinh sôi nảy nở, phát triển giống nòi, ước mong sản xuất phồn thịnh, mùa màng được bội thu, nhưng không thờ sinh thực khí. Ngoài ra, người Việt cổ còn có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng kính các vị anh hùng, người có công với làng nước (thờ Thánh Gióng, thần Tản Viên…), mà đỉnh cao là tục thờ cúng Hùng Vương. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương mùng 10-3 âm lịch là ngày lễ truyền thống của Việt Nam được giữ gìn, kế thừa đến tận ngày nay.

Một thành tựu lớn khác là người dân biết sử dụng đồ đồng. Tư liệu khảo cổ cho thấy giai đoạn cực thịnh của nền văn hóa Đông Sơn là trong thời đại Hùng Vương. Khu vực phía Bắc nước ta vốn có nhiều mỏ kim loại như: vàng, bạc, chì, sắt, đồng. Một số mỏ nông và lộ thiên, dễ khai thác thủ công, là điều kiện phù hợp để phát triển một nền văn hóa đồ đồng rực rỡ mà đỉnh cao là trống đồng cùng các loại thạp, thố với tỷ lệ hợp kim nguyên liệu lý tưởng và hoa văn sắc sảo miêu tả chân thật sinh hoạt của con người thời kỳ này như lễ “khánh thành” trống đồng, lễ chiêu hồn, đám tang, lễ cầu mùa, giã gạo, đánh trống, bơi chải...

 Trống đồng Đông Sơn hiện đã tìm thấy được ở nhiều nơi, là bằng chứng khắc họa tiêu biểu cho nền văn hóa thời đại Hùng Vương. Trên mặt trống chạm khắc những hình người thổi kèn, diễn tấu các loại chuông nhạc, lục lạc, khèn, trống đồng, vũ công đầu đội mũ lông chim trĩ, chim công (một loài chim tiêu biểu của vùng nhiệt đới) hoặc đeo mặt nạ.

Sự có mặt của trống đồng Đông Sơn ở một số nước trong khu vực như: Thái Lan, Malaysia, Indonesia cũng như phát hiện về những lưỡi qua đồng thời Chiến quốc (Trung Quốc) ở nhiều di tích văn hóa Đông Sơn; đồng thời ghi chép trong Thông giám cương mục là năm Mậu Thân thứ 5 đời Đường Nghiêu (năm 2353 TCN), Hùng Vương sai sứ sang tặng vua Nghiêu con rùa thần dài hơn 3 thước, trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau; vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy lịch; năm 1110 TCN Hùng Vương cũng sai sứ qua Trung Quốc, tặng Thành Vương nhà Chu chim trĩ trắng, cho thấy nền móng ngoại giao giữa Nhà nước Văn Lang với các triều đại phong kiến phương Bắc cùng sự giao thương, trao đổi hàng hóa giữa cư dân Văn Lang với các quốc gia quanh vùng.

Thanh Thúy

Sự ra đời của Nhà Nước là kết quả của một quá trình lịch sử lâu dài, đánh dấu sự phát triển vượt bậc của xã hội loài người. Nhà nước xuất hiện trong điều kiện là sức sản xuất phát triển đến đỉnh cao xuất hiện sự phân hóa xã hội, dẫn đến những mâu thuẫn không thể điều hòa được.

Tuy nhiên, quy luật trên không hoàn toàn đúng với tất cả các nhà nước trên thế giới. Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc là một điển hình, sự ra đời của hai nhà nước này có những đặc thù riêng, tách biệt với các nhà nước khác. Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: “Phân tích đặc thù trong quá trình ra đời nhà nước Văn Lang – Âu Lạc” 

Danh mục tài liệu tham khảo

  • Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam.

Quy luật hình thành Nhà nước trên thế giới theo lý luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác.

Theo lý luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, có hai yếu tố dẫn đến sự hình thành nhà nước đó là: xuất hiện chế độ tư hữu và có mẫu thuẫn xã hội gay gắt đến mức không thể tự dung hòa được.

Trong lịch sử phát triển của loài người đã trải qua ba lần phân công lao động: lần phân công thứ nhất, chăn nuôi đã trở thành một ngành kinh tế độc lập và tách ra khỏi trồng trọt; lần phân công thứ hai, thủ công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp, lần phân công thứ ba; sản xuất tách bạch với trao đổi dẫn đến sự xuất hiện của tầng lớp thương nhân.

Từ đây, lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến năng suất lao động tăng, của cải làm ra ngày càng nhiều, và dẫn đến có của cải dư thừa kèm theo đó là sự tích trữ, đồng thời xuất hiện một bộ phận chiến đoạt của cải dư thừa đó (do nắm quyền quản lý, cai quản) hoặc giàu lên nhờ tích trữ, đầu cơ từ đây đã có sự phân hóa giàu nghèo, giữa người có của và người không có của,

Sự phân hóa giàu nghèo này dẫn đến hiện tượng phân tầng xã hội, phân chia thành các tầng lớp khác nhau từ đó dẫn đến phân chia giai cấp đồng thời và kéo theo xuất hiện mâu thuẫn giai cấp và điều không tránh khỏi là đấu tranh giai cấp, lúc này nhà nước đã có tiền đề rõ ràng cho sự ra đời của mình.

Trình bày sự ra đời nhà nước đầu tiên của người Việt có
Phân tích đặc thù trong quá trình ra đời nhà nước Văn Lang – Âu Lạc

Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hoà được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội, tạo ra một tình trạng loạn lạc hỗn độn.

Xã hội lúc này đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy, hoặc cùng lắm là để làm cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi là hợp pháp và để thảm hoạ đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời và đó chính là nhà nước.

Và như vậy là Nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, nó là sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, nó không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt và xã hội mà là một lực lượng nảy sinh từ xã hội, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự.

phân tích đặc thù trong quá trình ra đời nhà nước văn lang – âu lạc

Đặc thù trong quá trình ra đời của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc

Đặc thù trong tiền đề ra đời

Như đã nói ở trên, nhà nước xuất hiện trên cơ sở kinh tế – xã hội là xuất hiện chế độ tư hữu và mâu thuẫn xã hội gay gắt đến mức không thể tự mình điều hòa được. Tuy nhiên, trong sự ra đời của nhà nước Văn Lang, Âu lạc thì tiền đề kinh tế – xã hội cần thiết cho nhà nước ra đời đã xuất hiện nhưng chưa thực sự chín muồi. Cụ thể:

Về cơ sở kinh tế: thời kỳ này đã có sự biến đổi từ nền kinh tế tự nhiên nguyên thủy sang nền kinh tế sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, đồng thời xuất hiện nghề trồng lúa nước, chăn nuôi, nghề gốm, cũng như sự xuất hiện của nghề luyện kim đồng thau. Việc xuất hiện các nghề trồng trọt, chăn nuôi và các công cụ lao động bằng đồng, sắt đã tạo ra năng suất lao động cao, và tạo ra của cải dư thừa cho xã hội.

Từ đây, mầm mống của chế độ tư hữu đã xuất hiện, tuy nhiên, tư liệu sản xuất chính là ruộng đất vẫn thuộc sở hữu chung của công xã nông thôn. Sở hữu tư nhân xuất hiện nhưng phát triển chậm, chủ yếu là sở hữu với sản phẩm lao đông, đất ở, cồn cụ lao động.

Về cơ sở xã hội: Những gia đình nhỏ trở thành những đơn vị kinh tế độc lập. Chế độ mẫu hệ dần dần chuyển sang chế độ phụ hệ. Công xã thị tộc dần dần tan rã và nhường chỗ cho công xã nông thôn, kết hợp cả 3 quan hệ láng giềng, địa lý và huyết thống. Xã hội có sự phân hóa rõ nét ở cả sự phân hóa giàu nghèo và sự phân hóa về địa vị xã hội nhưng chưa sâu sắc, chưa mang tính đối kháng.

Trên cơ sở kinh tế – xã hội thực sự chín muồi như vậy, nhà nước Văn Lang – Âu Lạc vẫn xuất hiện do có sự tác động của các yếu tố bên ngoài:

Thứ nhất, do sự tác động của nhu cầu trị thủy, thủy lợi. Thiên nhiên nước ta có nhiều thuận lợi đối với cuộc sống con người. Cuối thời Hùng Vương, dân cư đã tràn xuống chinh phục vùng đồng bằng châu thổ của các con sông lớn và phát triển nông nghiệp trồng lúa nước nên công cuộc trị thủy – thủy lợi đóng vai trò rất quan trọng. Chính điều này đã đặt ra nhu cầu gắn kết cộng đồng lại bởi một người hay một nhóm người không thể làm được công việc đó.

Thứ hai, do tác động của yếu tố chiến tranh. Vị trí địa lý nước ta nằm trên những luồng giao thông tự nhiên nên yếu tố tự vệ chống lại các nối đe dọa từ bên ngoài ngày càng trở nên cấp thiết. Các tư liệu khảo cổ đã ghi nhận được rằng trong giai đoạn Phùng Nguyên, tỷ lệ vú khí so với toàn tộ hiện vật rất nhỏ như ở di tích Văn Điển là 0,28%, di tích Phùng Nguyên là 0,84%.

Tuy nhiên, đến giai đoạn Đông Sơn, tỷ lệ vũ khí tăng vọt lên trên trên 50%. Như vậy, thời bấy giờ chiến tranh đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong xã hội, đòi hỏi các cộng cộng đồng, thị tộc, bộ lạc phải gắn kết với nhau để bảo vệ lợi ích chung.

Như vậy, dù cơ sở kinh tế – xã hội chưa thực sự chín muồi nhưng do các yếu tố khác thúc đẩy nên nhà nước Việt cổ đã được hình thành sớm.

Trình bày sự ra đời nhà nước đầu tiên của người Việt có
Phân tích quá trình ra đời nhà nước Văn Lang – Âu Lạc

Đặc thù trong con đường hình thành nhà nước

Trong chế độ công xã nguyên thủy ở nước ta lúc đầu chưa có quyền lực nhà nước, mà chỉ có quyền lực xã hội do cộng đồng giao cho một người hoặc một nhóm người để thực hiện chức năng quản lý xã hội. Ban đầu, quyền lực này được trao cho những người có uy tín trong xã hội, thứ quyền lực này xuất phát từ trong xã hội và đại diện cho lợi ích của toàn xã hội.

Người đừng đầu có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng trong xã hội, do đó họ cũng đồng thời được trao cho quyền lực rất lớn. Và dần dần, họ nhận ra ưu thế khi sử dụng thứ quyền lực này, vì vậy, thay vì được trao cho những người có uy tín, kinh nghiệm quản lý trong xã hội thì thứ quyền lực này đã trở thành một “thứ tài sản” đặc biệt để thừa kế cho các thế hệ tiếp sau.

Bên cạnh các biện pháp dân chủ vốn đặc trưng trong công xã nguyên thủy, các biện pháp cưỡng chế để thực hiện quyền lực của cá nhân ngày càng phổ biến, trong xu hướng đó, quá trình chuyển hướng quyền lực diễn ra và quyền lực xã hội được trao nhằm để thực hiện chức năng xã hội dần dần biến thành quyền lực nhà nước. Những người thực hiện chức năng xã hội dần biến thành quan chức, những quan chức hợp thành bộ máy nhà nước. Đối với họ, quản lý xã hội trở thành một nghề chuyên nghiệp, họ là những người tách ra khỏi xã hội và tựa hồ đứng trên xã hội.

Như vậy, quá trình chuyển hóa từ quyền lực xã hội sang quyền lực nhà nước chính là một đặc thù của sự hình thành nhà nước Văn Lang – Âu Lạc.

Đặc thù trong thiết chế nhà nước và pháp luật

Thiết chế nhà nước và pháp luật thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc được tổ chức đơn giản, sơ khai, bảo tồn nhiều yếu tố của thị tộc.

Bộ máy nhà nước Văn Lang – Âu Lạc rất đơn giản, đứng đầu là vương, giúp việc cho Vương có Lạc hầu, Lạc tường (Các bộ) và cuối cùng là Bồ chính (Công xã nông thôn).

Trong hệ thống pháp luật của thời Văn Lang – Âu Lạc, tập quan giữ vai trò chủ đạo và phổ biến nhất. Đó là những tập quán vốn có từ thời nguyên thủy và được bảo đảm thực hiện không chỉ bằng sự tự nguyện mà bằng cả sức mạnh cưỡng chế của nhà nước; là những tập quán chính trị, được hình thành trong quá trình vận máy nhà nước và điều hành xã hội như tập quán truyền ngôi cho con, tập quán cống nạp… Ngoài ra còn có pháp luật kiểu khẩu truyền, là những mệnh lệnh của vua được sứ giả truyền đi các nơi.

Sở dĩ thiết chế nhà nước và pháp luật thời kỳ này còn sơ khai đơn giản là do được xây dựng trên một cơ sở nền tảng kinh tế – xã hội chưa chín muồi, khi mà chế độ tư hữu chưa thật sự rõ ràng, mâu thuần trong xã hội cũng không đến mức quá gay gắt do đó mà thiết chế nhà nước và pháp luật cũng không cần quá chặt chẽ.

Bên cạnh đó, do được hình thành sớm nên còn bảo lưu yếu tố của thi tộc, bộ lạc, đặc biệt là của công xã nông thôn với lối sống tự quản, tự trị. Ngoài ra do thời gian tồn tại ngắn nên cũng khó có thể hoàn thiện được bộ máy nhà nước và pháp luật một cách tối ưu.

Những ảnh hưởng của các đặc thù trên ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử của nhà nước Việt Nam

Thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc là thời kỳ dựng nước của dân tộc ta, đặt nền móng để từ đây viết nên nhiều trang sử chói lọi. Chính vì vậy, các di tồn của thời kỳ này có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình xây dựng nhà nước và pháp luật Việt Nam trong tiến trình lịch sử:

Thứ nhất, những di tồn về nhà nước:

  • Nguyên tắc tổ chức: luôn tổ chức nhà nước dựa trên nguyên tắc tập quyền.
  • Bản chất của nhà nước: tính xã hội nổi trội hơn tính giai cấp.
  • Chức năng của nhà nước: hai yếu tố trị thủy – thủy lợi và chiến tranh tự vệ chi phối đến việc thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước.
  • Do tổ chức bộ máy nhà nước ban đầu sơ khai, đơn giản nên những yếu tố tự trị, tự quản làng xã được duy trì để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Từ đây, hình thành chế độ tự trị, tự quản làng xã có ảnh hưởng đến lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, những di tồn về pháp luật:

  • Pháp luật Việt Nam luôn tôn trọng và duy trì những tập quán đã được hình thành và còn phù hợp.
  • Việc ban hành những quy định của pháp luật luôn đảm bảo phù hợp với truyền thống, văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Từ những phân tích trên đây, có thể thấy trong quá trình hình thành nhà nước Văn Lang – Âu Lạc có những nét đặc thù riêng, xuất phát từ hoàn cảnh thực tế của đất nước thời bấy giờ. Những đặc thù trên không chỉ ảnh hưởng đến sự ra đời của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc mà những di tồn của nó còn ảnh hưởng đến nhà nước Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử.

Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Phân tích đặc thù trong quá trình ra đời nhà nước Văn Lang – Âu Lạc. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn pháp luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.

Trân trọng./.