Trình bày công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc từ năm 1979 đến nay

Nêu những thành tựu của công cuộc cải cách - mở cửa ở Trung Quốc từ cuối năm 1978 đến nay.

Đề bài

Nêu những thành tựu của công cuộc cải cách - mở cửa ở Trung Quốc từ cuối năm 1978 đến nay.

Phương pháp giải - Xem chi tiết

Lời giải chi tiết

Những thành tựu của công cuộc cải cách - mở cửa ở Trung Quốc từ cuối năm 1978 đến nay:

- Nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới.

+ Tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt giá trị 8740,4 tỉ nhân dân tệ, đứng hàng thứ bảy thế giới.

+ Tổng giá trị xuất nhập khẩu năm 1997 lên tới 325,00 tỉ USD.

+ Nhiều doanh nghiệp đầu tư vào Trung Quốc.

- Thu nhập bình quân tính theo đầu người tăng.

- Đối ngoại:

+ Vai trò và địa vị kinh tế của nước này ngày càng nâng cao.

+ Trung Quốc đã thu hồi chủ quyền đối với Hồng Kông (7-1997) và Ma Cao (12-1999). Đài Loan là một bộ phận riêng mà Trung Quốc nhưng đến nay chưa kiểm soát được.

Loigiaihay.com

  • Trình bày công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc từ năm 1979 đến nay

    Trình bày ý nghĩa của những thành tựu đó khi Trung Quốc bước sang thời kỉ XXI

    Giải bài tập Bài 2 trang 20 SGK Lịch sử 9

  • Trình bày công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc từ năm 1979 đến nay

    Hãy nêu hậu quả của đường lối "Ba ngọn cờ hồng" và "Đại cách mạng văn hoá vô sản" đối với Trung Quốc thời kì này

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 18 SGK Lịch sử 9

  • Trình bày công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc từ năm 1979 đến nay

    Hãy trình bày những thành tựu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953 - 1957) của nhân dân Trung Quốc

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 18 SGK Lịch sử 9

  • Trình bày công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc từ năm 1979 đến nay

    Hãy cho biết ý nghĩa lịch sử của sự ra đời nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 16 SGK Lịch sử 9

  • Trình bày công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc từ năm 1979 đến nay

    Lý thuyết Các nước châu Á

    Lý thuyết Các nước châu Á

Trung Quốc: Nhìn lại quá trình 40 năm cải cách, mở cửa

Ngày đăng: 22/11/2018 07:12
Mặc định Cỡ chữ
Trình bày công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc từ năm 1979 đến nay
Trình bày công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc từ năm 1979 đến nay
Hội nghị Trung ương 3 khóa XI Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1978) mang ý nghĩa lịch sử quan trọng, mở ra một thời kỳ mới cho nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trong công cuộc cải cách, mở cửa, hội nhập quốc tế. Trải qua 40 năm, sự nghiệp cải cách, mở cửa của Trung Quốc đạt nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo cơ sở vững chắc đưa quốc gia này tiếp tục tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
Trình bày công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc từ năm 1979 đến nay
Vận chuyển hàng hóa tại Liên Vận Cảng, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Ảnh: TTXVN

Các giai đoạn cải cách, mở cửa

Giai đoạn đầu chuyển đổi thể chế kinh tế (1978 - 1991)

Đảng Cộng sản Trung Quốc với phương châm “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị”, chuyển trọng tâm công tác từ “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” sang “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm” nhằm mục tiêu xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. Giai đoạn đầu tập trung vào chuyển đổi thể chế kinh tế với việc “khoán ruộng đất”, “phát triển xí nghiệp hương trấn” ở nông thôn, sau đó tiến hành mở rộng thí điểm quyền tự chủ kinh doanh của xí nghiệp quốc hữu ở thành phố, tiến hành mở cửa, xây dựng đặc khu kinh tế, xây dựng các loại thị trường. Việc xây dựng các đặc khu kinh tế (SEZs) ở Trung Quốc tương đối thành công. SEZs đã phát huy được vai trò “cửa sổ” và “cầu nối” có ảnh hưởng tích cực đối với trong và ngoài nước. SEZs của Trung Quốc đã đạt được thành công bước đầu trong sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường. Những năm 1984 - 1991, cải cách xí nghiệp quốc hữu là trọng tâm, cải cách giá cả là then chốt trong toàn bộ cuộc cải cách. Trong giai đoạn chuyển đổi thể chế kinh tế (1979 - 1991), Trung Quốc đã tìm tòi, tổ chức thí điểm, từng bước tiếp nhận cơ chế thị trường, sửa chữa những khuyết điểm của thể chế kinh tế kế hoạch.

Giai đoạn xây dựng khung thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (1992 - 2002)

Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, Liên Xô giải thể, đảng cộng sản ở các nước Đông Âu mất địa vị cầm quyền. Chiến tranh lạnh kết thúc, nhiều nước tiến hành điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại.

Tại Trung Quốc, sự nghiệp cải cách, mở cửa đối mặt với nhiều thách thức to lớn. Vấn đề cải cách, mở cửa thành công hay thất bại, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa (họ Xã) hay tư bản chủ nghĩa (họ Tư) thổi bùng các cuộc tranh luận (đại luận chiến). Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương gác lại các cuộc tranh luận, tiến hành “Ba điều có lợi” (có lợi cho phát triển sức sản xuất xã hội chủ nghĩa, có lợi cho đất nước, có lợi cho đời sống nhân dân), mạnh dạn xông pha vào thực tiễn và lấy thực tiễn để kiểm nghiệm. Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1992) nêu mục tiêu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh mở cửa. Đây được coi là cuộc giải phóng tư tưởng lần thứ hai, là mốc qụan trọng trong tiến trình cải cách, mở cửa ở Trung Quốc.

Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3 khóa XIV (năm 1993) thông qua “Quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, trong đó chỉ rõ: “lấy chế độ công hữu làm chủ thể, nhiều thành phần kinh tế khác cùng phát triển,... xây dựng chế độ phân phối thu nhập, lấy phân phối theo lao động làm chính, ưu tiên hiệu quả, quan tâm tới công bằng, khuyến khích một số vùng, một số người giàu có lên trước, đi con đường cùng giàu có”(1). Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1997) đã xác định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa.

Giai đoạn đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (2002 - 2012), cải cách theo chiều sâu

Năm 2001 Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này đánh dấu tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng của Trung Quốc. Từ Đại hội XVI (năm 2002) Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đứng đầu là Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào đã nêu ra quan điểm phát triển khoa học, xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy phát triển toàn diện hài hòa và bền vững kinh tế - xã hội. Đại hội XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 2007) nêu chủ trương từ “tam vị nhất thể” - bao gồm kinh tế, chính trị và văn hoá sang “tứ vị nhất thể” - bao gồm kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội.

Bước sang thế kỷ XXI, Trung Quốc đã xây dựng được cục diện cải cách, mở cửa toàn phương vị, đa tầng nấc; hình thành các cực tăng trưởng, Trước đó, Tiểu Chu Giang với nòng cốt là Quảng Châu, Thâm Quyến được coi là cực tăng trưởng thứ nhất của Trung Quốc, hình thành trong giai đoạn đầu của cải cách, mở cửa với việc xây dựng 4 đặc khu (Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Môn). Tiếp đó, từ năm 1984, Trung Quốc tiến hành mở cửa 14 thành phố ven biển, ven sông, ven biên giới. Từ năm 1990, Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng Phố Đông, coi đây là “đầu tàu” lôi kéo và kết nối các điểm tăng trưởng hạ lưu sông Trường Giang và ven biển Đông Hải. Sự ra đời của Phố Đông (Thượng Hải) đánh dấu sự xuất hiện cực tăng trưởng thứ hai của Trung Quốc. Ngày 6-6-2006, Chính phủ Trung Quốc đã công bố “Ý kiến về mấy vấn đề thúc đẩy mở cửa phát triển Khu mới Tân Hải Thiên Tân”, đánh dấu việc chủ trương đưa Thiên Tân vươn lên trở thành cực tăng trưởng thứ ba của Trung Quốc, gắn liền các điểm tăng trưởng xoay quanh vịnh Bột Hải. Tiếp đó, vùng Thành Đô - Trùng Khánh (Xuyên Du), Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ (Quảng Tây), Khu kinh tế bờ Tây (Phúc Kiến) cũng phấn đấu trở thành cực tăng trưởng tiếp theo ở Trung Quốc. Năm 2008, Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn “Cương yếu quy hoạch Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ”, thể hiện quyết tâm của Trung Quốc trong xây dựng cực tăng trưởng mới - cực tăng trưởng kết nối giữa Trung Quốc và ASEAN.

Giai đoạn cải cách toàn diện và sâu rộng (từ năm 2012 đến nay)

Từ Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII thông qua Nghị quyết về cải cách toàn diện và sâu rộng, thực hiện “giấc mộng Trung Quốc”, “phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”. Tổng Bí thư Tập Cận Bình với tư cách là “hạt nhân lãnh đạo” đã kế thừa, phát huy và hoàn thiện cương lĩnh, đường lối phát triển của Trung Quốc, hình thành nên “Bố cục tổng thể”: phát triển “5 trong 1” (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường) và bố cục chiến lược “Bốn toàn diện”. Kinh tế bước vào giai đoạn “trạng thái bình thường mới”, “Made in China 2025”... tìm kiếm chuyển đổi phương thức tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và động lực phát triển mới. Sáng kiến “Vành đai, Con đường” được xem là giải pháp chiến lược, vừa thúc đẩy cải cách trong nước, vừa phát huy vai trò đối ngoại.

Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới đã được Đại hội XIX khẳng định, đưa vào Điều lệ Đảng, trở thành tư tưởng chỉ đạo đối với Đảng và Nhà nước Trung Quốc sau khi Hiến pháp được bổ sung, sửa đổi năm 2018. Trung Quốc đẩy mạnh cải cách, mở cửa toàn diện và sâu rộng hướng tới mục tiêu trở thành cường quốc xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

Thành tựu và những vấn đề đặt ra trong tiến trình cải cách, mở cửa của Trung Quốc

Thành tựu

Trong hai thập niên cuối thế kỷ XX, ở Trung Quốc đã diễn ra những thay đổi to lớn. Trung Quốc đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội với bước chuyển biến lịch sử là “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm”. Thể chế kinh tế, xã hội có bước chuyển biến mạnh mẽ theo hướng xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Trung Quốc cũng đạt được nhiều thành công trong ổn định tình hình trước những biến động lớn của thế giới. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đứng trước những thách thức to lớn, như phân hóa giàu nghèo, phân cực đô thị - nông thôn, ô nhiễm môi trường, nợ công của các địa phương, tham nhũng... Xây dựng Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa trở thành phương hướng cải cách và phát triển chính trị ở Trung Quốc trước thềm thế kỷ XXI. Nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, kiện toàn hệ thống chính trị, đẩy mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa trở thành yêu cầu và đòi hỏi quan trọng để Trung Quốc ứng phó thành công với khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á (năm 1997) và đặc biệt là chủ động mở cửa, đưa Trung Quốc phát triển vượt bậc khi gia nhập WTO. Năm 2010, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế có tổng lượng GDP lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ(2). Mức tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1997 - 2008 bình quân đạt trên 8%/năm.

Từ khi bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI đến nay, kinh tế Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu. Năm 2017, GDP của Trung Quốc đạt 82.712,2 tỷ nhân dân tệ (NDT), tăng 6,9% so với năm 2016(3). Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP của Trung Quốc trong giai đoạn 2013 - 2017 là 7,1%, trong khi mức tăng trưởng trung bình của toàn cầu là 2,6% và của các nền kinh tế đang phát triển là 4%. Mức đóng góp trung bình của Trung Quốc vào tăng trưởng kinh tế thế giới trong giai đoạn 2013 - 2017 là khoảng 30%, lớn nhất trong tất cả các quốc gia và cao hơn cả tổng mức đóng góp của Mỹ, các nước trong khu vực đồng ơ-rô và Nhật Bản(4). Một điểm đáng chú ý nữa là GDP của Trung Quốc năm 2016 đã đạt 10.730 tỷ USD, hoàn thành sớm hơn 4 năm mục tiêu GDP năm 2020, tăng gấp 4 lần năm 2000. Tỷ trọng GDP của Trung Quốc trong GDP toàn cầu từ 1,8% năm 1978 tăng lên 15% năm 2018.

Sáng tạo trở thành định hướng và giải pháp quan trọng trong chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế của Trung Quốc. Mức chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) đã tăng 52,2% kể từ năm 2012, đạt 1.570 tỷ NDT vào năm 2016. Tỷ lệ chi tiêu cho R&D trong GDP đã tăng từ 1,91% lên 2,11% (từ năm 2012 đến 2016). Số lượng các đơn xin cấp bằng sáng chế mà Trung Quốc nhận được trong năm 2016 tăng 69% kể từ năm 2012, trong khi số bằng sáng chế được cấp năm 2016 tăng 39,7% kể từ năm 2012. Năm 2017, chi cho R&D là 1.750 tỷ NDT, tăng 11,6% so với năm 2016.

Từ năm 2013, Trung Quốc đã trở thành quốc gia hàng đầu trên toàn cầu về doanh số bán rô-bốt công nghiệp. Cường quốc rô-bốt sẽ là một nhiệm vụ chiến lược để Trung Quốc thúc đẩy mạnh mẽ Chiến lược “Made in China 2025”. Năm 2016, Trung Quốc đầu tư cho R&D là 1.567,67 tỷ NDT; nguồn tài chính dành cho khoa học công nghệ là 776,07 tỷ NDT. Năm 2016, trong số 53 doanh nghiệp khoa học công nghệ tiến hành IPO trên thế giới (phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu), Trung Quốc có 18 doanh nghiệp. Năm 2016, Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu các sản phẩm khoa học công nghệ cao đứng đầu châu Á. Các hạng mục khoa học lớn được hoàn thành, như máy tính Thiên Hà, tàu vũ trụ Thần Châu, trạm vũ trụ Thiên Cung, máy lặn Giao Long, máy bay vận tải cỡ lớn..

Về kinh tế đối ngoại, giá trị của thương mại hàng hóa đạt 27,7 nghìn tỷ NDT vào năm 2017, chiếm hơn 11% tổng khối lượng thương mại toàn cầu. Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của hơn 120 nước.

Mức độ đô thị hóa từ 17,9% năm 1978 tăng lên 58,5% năm 2017. Số thành phố từ 193 tăng lên 657 thành phố. Hiện nay, Trung Quốc có 136.000km đường cao tốc và 25.000km đường sắt cao tốc. Năm 2017, đường sắt cao tốc chuyên chở hơn 3 tỷ lượt khách(5).

Thu nhập của người dân được nâng cao, với mức bình quân đầu người tăng từ 7.311 NDT năm 2012 lên 23.821 NDT năm 2016, tỷ lệ tăng hằng năm là 7,4%. Năm 2017, thu nhập bình quân cư dân đạt 25.974 NDT. Thu nhập bình quân đầu người của người dân nông thôn ở khu vực nghèo tăng bình quân 10,7% trong giai đoạn 2013 - 2016, tăng nhanh hơn mức bình quân 8% đối với tất cả người dân nông thôn. Số người nghèo ở nông thôn từ 97,5% năm 1978 giảm xuống 3,1% năm 2017, còn khoảng 30,46 triệu người nghèo(6). Mạng lưới an sinh xã hội đã được hình thành rộng khắp. Bảo hiểm dưỡng lão xã hội đã bao phủ tới 900 triệu dân, bảo hiểm y tế cơ bản đã tới hơn 1,3 tỷ người dân.

Năm 2017, dân số Trung Quốc là 1,39 tỷ người, trong đó dân số đô thị khoảng 813,47 triệu người. Số nghiên cứu sinh là 2,63 triệu người, sinh viên đại học, cao đẳng: 27,53 triệu, số học sinh trung học phổ thông: 23,74 triệu; trung học cơ sở: 44,42 triệu; tiểu học: 1.009 triệu. Từ năm 2011, số lượng nhân lực khoa học - công nghệ đã vượt 63 triệu người, năm 2017 đạt 81 triệu người. Số sinh viên du học nước ngoài trở về nước là hơn 1,1 triệu người. Năm 2016, số lượng đăng ký bản quyền tác giả là 1.257.439 (WIPO). Năm 2017, Trung Quốc đứng thứ 25 trong bảng xếp hạng “sức mạnh mềm” thế giới.

Những vấn đề đặt ra đối với Trung Quốc hiện nay

Sau 40 năm tiến hành cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt, song cũng đang đứng trước nhiều vấn đề, thách thức lớn. Trung Quốc đang tìm kiếm sự thay đổi về phương thức và mô hình phát triển thay thế phương thức tăng trưởng chủ yếu dựa vào tài nguyên và nhân công rẻ, dựa vào đầu tư lớn và xuất khẩu mạnh trước đây. Kinh tế Trung Quốc nằm trong xu thế suy giảm tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc năm 2014 là 7,4%, mức thấp nhất trong 24 năm kể từ năm 1990, năm 2015 là 6,9%; năm 2016: 6,7%; năm 2017: 6,9%. Vấn đề đặt ra đối với kinh tế Trung Quốc hiện nay là chất lượng tăng trưởng kinh tế vẫn còn thấp, mất cân bằng, không hợp lý và không bền vững. Vấn đề nợ công và vấn đề sản xuất thừa vẫn chưa được giải quyết. Do tăng trưởng tốc độ cao trong một thời gian dài, những hệ lụy để lại cho nền kinh tế Trung Quốc vẫn chưa được giải quyết triệt để, chưa được khắc phục kịp thời, như cạn kiệt các nguồn tài nguyên và ô nhiễm môi trường, mức độ chênh lệch giàu - nghèo cao, phát triển không cân đối... vượt qua “bẫy thu nhập trung bình”, hướng tới thu nhập cao, chất lượng cao, phát triển xã hội và quản trị xã hội vẫn là những thức thức lớn. Từ năm 2018, vận hành kinh tế Trung Quốc là vượt qua ba trận chiến phòng ngừa hóa giải rủi ro lớn, xóa đói, giảm nghèo chuẩn xác, phòng, chống ô nhiễm(7) ; phát triển từ “tốc độ cao” sang “chất lượng cao” đặt ra nhiều thử thách lớn không dễ giải quyết nhanh chóng.

Trọng tâm của cải cách, xây dựng hiện đại hóa của Trung Quốc sẽ mở rộng từ kinh tế sang chính trị, xã hội. Qua bốn thập niên cải cách, mở cửa, các tầng lớp xã hội mới xuất hiện, sự di động xã hội giữa các tầng lớp và khu vực diễn ra mạnh mẽ. Sự xuất hiện của các tầng lớp xã hội mới, đặc biệt là tầng lớp trung lưu gắn với xây dựng xã hội khá giả sẽ là nhân tố không thể bỏ qua trong quá trình cải cách chính trị ở Trung Quốc. Việc chuyển đổi mô hình phát triển, cải cách xã hội đòi hỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc phải chuyển đổi phương thức lãnh đạo và nâng cao năng lực cầm quyền. Xây dựng và thúc đẩy pháp trị, dân chủ trở thành yêu cầu bức thiết.

Cục diện thế giới có nhiều diễn biến mới với vai trò và vị thế của Trung Quốc được nâng cao khi tổng lượng kinh tế đã đứng thứ hai thế giới. Mặt khác, Trung Quốc cũng phải đối mặt với những thách thức về vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, giữa cải cách trong nước và mở cửa đối ngoại, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, đặc biệt là cạnh tranh chiến lược với các nước lớn hiện nay.

Bài học kinh nghiệm

Qua bốn mươi năm cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho các mô hình chuyển đổi.

Thứ nhất, giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị. Cải cách, mở cửa trước hết phải giải phóng tư tưởng, đổi mới tư duy. Chuyển từ “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” sang “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm” là bước đột phá về giải phóng tư tưởng, đổi mới tư duy; “thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất kiểm nghiệm chân lý”, lấy cải cách kinh tế làm trọng tâm, phát triển miền duyên hải phía Đông giàu có lên trước; đó còn là nhận thức và giải quyết các mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội, nhận thức về thời đại của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Thứ hai, cải cách theo định hướng thị trường: Cải cách, mở cửa là quá trình thay đổi nhận thức và hành động cải cách theo định hướng thị trường; phát huy được các nguồn lực trong xã hội. Qua 40 năm cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã gây dựng được các loại thị trường của các loại hàng hóa, ngành, nghề; xây dựng các chuỗi giá trị theo các ngành nghề, hàng hóa; các nguồn vốn xã hội được huy động và phát huy. Kinh tế dân doanh trở thành lực lượng quan trọng. Năm 2017, Trung Quốc có 65,79 triệu hộ công thương cá thể, có hơn 27,2 triệu doanh nghiệp công thương dân doanh, đóng góp thuế vượt 50% tổng thuế thu; đóng góp cho GDP và đầu tư ra nước ngoài đều vượt 60%, chiếm hơn 70% doanh nghiệp kỹ thuật cao mới(8).

Thứ ba, tiến trình cải cách, mở cửa là tiến trình xử lý các cặp quan hệ giữa cải cách - phát triển và ổn định, giữa nhà nước với thị trường và xã hội, giữa kinh tế với chính trị và xã hội. Cải cách ở Trung Quốc tiến hành theo phương thức tiệm tiến, lấy cải cách kinh tế làm trọng tâm; thí điểm trước, nhân rộng sau.

Tiến trình cải cách, phát triển ở Trung Quốc 40 năm qua phản ánh quá trình kết hợp giữa cải cách thể chế kinh tế và thể chế chính trị (như thực hiện chế độ khoán ở nông thôn, cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách hành chính, chuyển chức năng của chính quyền theo hướng xây dựng chính phủ pháp trị, phục vụ; thực hiện chiến lược phát triển phối hợp vùng, miền...) Tuy nhiên, để cải cách sâu rộng, toàn diện thì cải cách thể chế phải đi trước một bước. Cải cách chính trị, xã hội phải có sự thích ứng trước những biến đổi của tình hình mới, yêu cầu mới. Phải đổi mới tư duy và tháo gỡ về thể chế để mở đường, dẫn dắt. Trung Quốc cũng chú ý giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, quan tâm phát triển xã hội, bảo đảm công bằng và bình đẳng.

Một trong những bài học kinh nghiệm lớn của Trung Quốc qua 40 năm cải cách, mở cửa là thực hiện kết hợp giữa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân làm chủ và quản trị đất nước theo pháp luật; giải quyết mối quan hệ giữa cải cách kinh tế và cải cách chính trị - xã hội; phát huy sáng tạo của đội ngũ trí thức, tính tích cực của các tầng lớp xã hội. Xây dựng hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả, hiệu lực pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật, minh bạch... Nâng cao năng lực quản trị quốc gia.

Từ cải cách mở cửa, thể chế chính trị đã được hình thành với mô thức: “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, quản trị đất nước theo pháp luật” và bốn chế độ cơ bản “chế độ đại hội đại biểu nhân dân, chế độ hợp tác đa đảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo và hiệp thương chính trị; chế độ tự trị dân tộc và chế độ tự trị quần chúng cơ sở”. Theo thống kê năm 2016, Trung Quốc có 4,518 triệu tổ chức cơ sở đảng với 89,447 triệu đảng viên(9). Đây là lực lượng chính và cơ sở để Đảng Cộng sản Trung Quốc triển khai các công tác. Đây cũng là lực lượng lãnh đạo xã hội, lực lượng nòng cốt trong thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Từ quá trình cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã vượt qua hai cuộc khủng hoảng kinh tế (năm 1997 và năm 2007), vượt qua thách thức chu kỳ kinh tế. Trung Quốc cũng vượt qua thách thức của bất ổn xã hội (đỉnh cao là sự kiện Thiên An Môn năm 1989).

Trung Quốc đã lợi dụng tốt thời cơ gia nhập WTO, đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng, tận dụng tốt các nguồn lực trong và ngoài nước, bứt phá trong phát triển, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Trung Quốc cũng chú trọng giải quyết vấn đề “tam nông”, bảo đảm các vấn đề về an ninh, quản lý và phát triển xã hội. Trung Quốc cũng đã có nhiều kinh nghiệm trong sử dụng “thời kỳ cơ hội chiến lược”, xử lý quan hệ với các nước lớn, đặc biệt là với Mỹ.

Trung Quốc đang nỗ lực phấn đấu hướng tới mục tiêu xây dựng thành công xã hội khá giả toàn diện, hướng tới mục tiêu cơ bản hoàn thành hiện đại hóa vào năm 2035 và trở thành cường quốc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

Trung Quốc cũng bước vào “thời đại mới”, với sự chuyển biến từ “xây dựng kinh tế làm trung tâm” sang “lấy nhân dân làm trung tâm”, giải quyết các mâu thuẫn chủ yếu mới. Về kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh chuyển biến từ “tốc độ cao” sang “chất lượng cao” qua các giải pháp, như xây dựng hệ thống kinh tế hiện đại hóa, tiếp tục thúc đẩy ý tưởng chiến lược “Vành đai, Con đường”, đẩy mạnh thực hiện thí điểm các khu mậu dịch tự do mới, tiêu biểu là khu mậu dịch tự do thí điểm Hải Nam. Trung Quốc đang hướng tới mục tiêu cường quốc với sự tin tưởng về con đường, lý luận, chế độ và văn hóa (4 tự tin).

Tuy nhiên, Trung Quốc tiến hành cải cách giai đoạn mới trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực biến đổi nhanh chóng và khó lường. Đặc biệt là sự đối nghịch giữa xu hướng đẩy mạnh toàn cầu hóa kinh tế và chống toàn cầu hóa kinh tế, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, chủ nghĩa dân tộc, dân túy... trong khi tình hình địa - chính trị xung quanh Trung Quốc có nhiều thách thức, như vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan, vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển với một số nước Đông Á..., cạnh tranh giữa các nước lớn trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là cạnh tranh chiến lược Trung Quốc - Mỹ, thể hiện trực tiếp qua cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc hiện nay.

Bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, dự báo Trung Quốc về cơ bản giữ được ổn định xã hội, kinh tế giữ tốc độ tăng trưởng trung bình, song những mâu thuẫn lớn có khả năng phát sinh từ nửa cuối thập niên thứ ba thế kỷ XXI. Chúng ta trông chờ Trung Quốc tiếp tục phát triển phồn vinh, đóng góp tích cực cho hòa bình và phát triển trong khu vực và trên thế giới. /.

TS.Nguyễn Xuân Cường - Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

---------------------------------------------------------

(1) http://www.china.com.cn/chinese/archive/131747.htm
(2) http://finance.sina.com.cn/roll/20100818/01258499585.shtml
(3) Công báo thống kê kinh tế xã hội Trung Quốc 2017 (人民日报 2018年03月01日 10 版)
(4) http://europe.chinadaily.com.cn/business/2017-10/11/content_33104818.htm
(5) http://www.gov.cn/xinwen/2018-02/14/content_5266772.htm
(6) http://www.xinhuanet.com/politics/2018-09/04/c_1123374403.htm
(7) http://politics.people.com.cn/n1/2017/1221/c1001-29719813.html (21-12-2017)
(8) http://www.xinhuanet.com/fortune/2018-05/02/c_1122769552.htm
(9) http://www.xinhuanet.com/politics/2017-06/30/c_1121242478.htm

Theo: tapchicongsan.org.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Mục lục

  • 1 Quá trình của cải cách
    • 1.1 Tình trạng hiện tại và xu hướng trong tương lai
  • 2 Tham khảo

Cải cách kinh tế Trung Quốc (giản thể: 改革开放; bính âm: Găigé kāifàng) (Cải cách khai phóng); (chi tiết theo từng chữ:cải cách và mở cửa; được nói ở phương Tây là Mở cửa Trung Quốc) nói tới những chương trình cải cách kinh tế được đặt tên là"Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc" và "kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa" ở Cộng hòa nhân dân Trung Quốc chương trình mà những nhà cải cách trong Đảng cộng sản Trung Quốc - được lãnh đạo bởi Đặng Tiểu Bình- đã bắt đầu vào 18 tháng 12 năm 1978.

Trước cải cách, nền kinh tế Trung Quốc bị chi phối bởi sở hữu nhà nước và kế hoạch hóa tập trung. Từ năm 1950 tới 1973, GDP thực tế bình quân đầu người của Trung Quốc tăng trung bình 2,9% mỗi năm; mặc dù sự thay đổi thất thường bắt nguồn từ Đại nhảy vọt và Cách mạng văn hóa. Mức này gần với mức trung bình của những quốc gia châu Á trong thời kì này, so với những quốc gia tư bản như Nhật Bản, Nam Triều Tiên và của Đài Loan thì tỉ lệ tăng của Trung Quốc thấp hơn nhiều. Bắt đầu năm 1970, nền kinh tế đã bước vào một giai đoạn trì trệ, và sau cái chết của Mao Trạch Đông, lãnh đạo Đảng cộng sản hướng vào cải cách theo định hướng thị trường để cứu sự sụp đổ của nền kinh tế.

Những người cầm quyền Đảng cộng sản đã thực hiện những cải cách thị trường trong hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên, khoảng cuối những năm thập kỷ 70 và đầu những năm thập kỷ 80, bao gồm phi tập thể hóa nông nghiệp, mở của đất nước để đón nhận đầu tư nước ngoài, và cho phép doanh nhân bắt đầu công việc kinh doanh. Tuy niên hầu hết nền công nghiệp vẫn thuộc sở hữu nhà nước. Giai đoạn hai của cải cách, khoảng cuối những năm thập kỉ 80 và đầu thập kỉ 90, bao gồm tư nhân hóa và rút vốn khỏi nhiều ngành công nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và bãi bỏ những chính sách kiểm soát giá cả, chủ nghĩa bảo hộ, và các quy định, mặc dù sự độc quyền nhà nước trong nhiều lĩnh vực như ngân hàng và dầu mỏ vẫn còn. Khu vực tư nhân đã phát triển đặc biệt, chiếm 70% tổng sản phẩm quốc nội khoảng năm 2005. Từ năm 1978 cho tới 2013, sự phát triển chưa từng thấy đã xảy ra, với nền kinh tế tăng khoảng 9.5% một năm. Chính quyền bảo thủ của Hồ Cẩm Đào đã điều chỉnh và quản lý nền kinh tế chậm chạp hơn sau năm 2005, đảo chiều một vài cải cách.

Bài học kinh nghiệm từ quá trình cải cách hành chính tại Trung Quốc

01/07/2010

Nguyễn Văn Cường, TS. Phó Vụ trưởng Vụ Địa phương, Văn phòng Chính phủ

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã có bước phát triển vượt bậc về mọi mặt, đặc biệt là từ sau cải cách mở cửa năm 1979. Có được những thành công đó là do Trung Quốc đã kiên trì thực hiện công cuộc đổi mới và tiến hành cải cách hành chính (CCHC) một cách sâu rộng và đồng bộ trên các mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Từ năm 1982 đến nay, Trung Quốc đã tiến hành sáu cuộc cải cách với quy mô lớn. Kết quả thu được khá toàn diện trên các lĩnh vực của hệ thống hành chính; thể chế hành chính quan liêu bao cấp đã chuyển mạnh sang thể chế hành chính thích ứng với cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Trung Quốc và Việt Nam là hai nước đang từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, đều đang tiến hành CCHC. Kinh nghiệm của Trung Quốc là bài học có giá trị đối với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Trung Quốc là một nước XHCN, có hệ thống chính trị đặc thù. Chế độ chính trị cơ bản của Trung Quốc là chế độ đa đảng hợp tác và hiệp thương chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thực hiện chế độ Đại hội đại biểu nhân dân và chế độ tự trị quần chúng cơ sở trên một quốc gia có nhiều dân tộc thống nhất với bộ máy tổ chức nhà nước.
Thực hiện đường lối cải cách mở cửa, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển trong nước và quốc tế, Trung Quốc đã tiến hành cải cách khá toàn diện trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó CCHC cơ quan hành pháp đóng vai trò quan trọng.
1. Sáu cuộc cải cách
Từ 1979 đến nay, Trung Quốc đã tiến hành sáu cuộc cải cách. Có thể điểm qua nội dung chính của các cuộc cải cách như sau:
Lần thứ nhất: Năm 1982, trọng tâm đợt này là tinh giản bộ máy và biên chế; đưa ra phương châm tứ hóa "cách mạng hoá, trẻ hoá, tri thức hoá, chuyên nghiệp hóa" đội ngũ cán bộ, công chức; xây dựng chế độ về hưu; nới lỏng quyền hạn quản lý kinh tế, thu chi tài chính và quản lý nhân sự.
Lần thứ hai: Năm 1988, tiếp tục cải cách cơ cấu gắn với chuyển đổi chức năng của chính quyền, thực hiện tách bạch chính quyền với doanh nghiệp, tinh giản các cơ quan chuyên môn, mở rộng các lĩnh vực CCHC, tăng cường các cơ quan điều tiết vĩ mô.
Lần thứ ba: Năm 1993, mục tiêu cải cách nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế thị trường XHCN; mở rộng và đi sâu trong cải cách cơ cấu, lấy chuyển đổi chức năng chính quyền làm trọng điểm, đề ra phương châm tách bạch giữa chính quyền và doanh nghiệp là con đường căn bản của chuyển đổi chức năng.
Lần thứ tư: Năm 1998, mục tiêu xây dựng thể chế quản lý hành chính nhằm thích ứng với kinh tế thị trường XHCN, kết quả đã giải thể hàng loạt các cơ quan quản lý kinh tế công nghiệp và các công ty, tổng hội có tính chất hành chính.
Lần thứ năm: Năm 2003, tách rời chính quyền và doanh nghiệp, tiến thêm một bước chuyển đổi chức năng của chính quyền, điều chỉnh việc sắp xếp cơ cấu của chính quyền, phân công hợp lý chức năng của các Bộ, ngành, cải cách thể chế quản lý tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
Lần thứ sáu: Năm 2008, tập trung vào việc giải quyết vấn đề nhân sinh và những mâu thuẫn nổi cộm ảnh hướng đến phát triển khoa học và ổn định xã hội còn tồn tại trong quản lý chính quyền, nhấn mạnh cải thiện điều tiết kinh tế, giám sát chặt chẽ thị trường, đẩy mạnh quản lý xã hội, chú trọng đến dịch vụ công. Để phục vụ mục đích của cải cách lần này, cơ cấu của Quốc vụ viện cũng được cải cách một cách mạnh mẽ.
2. Thành tựu nổi bật qua các lần cải cách và một số hạn chế
Sau 30 năm thực hiện cải cách mở cửa, Trung Quốc đã thành công trong việc phát triển kinh tế, thể chế kinh tế đã chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường đầy năng động. Thành tựu nổi bật qua các lần cải cách được thể hiện nổi bật 6 mặt sau đây:
Thứ nhất, tinh giản cơ cấu chính quyền và chuyển giao quyền lực cho doanh nghiệp, phát huy tính tích cực của địa phương, doanh nghiệp, các đơn vị cơ sở và quần chúng nhân dân:
Cải cách cơ chế quản lý tập trung quyền lực cao độ của cơ chế kinh tế bao cấp, chuyển sang việc giao quyền lực cho chính quyền địa phương và doanh nghiệp. Phương châm đổi mới chức năng quản lý nhà nước của Chính phủ được xác định là "quản lý vĩ mô, giám sát thị trường, quản lý xã hội và dịch vụ công". Theo đó, bảy lĩnh vực Chính phủ trung ương tập trung quản lý là quốc phòng, ngoại giao, chính sách tài chính, ngân hàng, điện lực, thông tin, đường sắt. Các lĩnh vực còn lại thực hiện phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương.
Tinh giản biên chế mà biện pháp quan trọng nhất là sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp; chuyển một bộ phận lớn các đơn vị sự nghiệp công thành doanh nghiệp để xoá bỏ chế độ bao cấp. Ví dụ: ở Thượng Hải đã chuyển 144 đơn vị sự nghiệp thành 354 doanh nghiệp độc lập, giảm được 15% biên chế.; thành phố chỉ trợ cấp cho các bệnh viện 3-4% kinh phí, còn lại là tự trang trải; các trường đại học nhà nước cấp 40% kinh phí, còn lại nhà trường tự trang trải.
Thứ hai, từng bước tối ưu hóa cơ cấu tổ chức của chính quyền, không ngừng tinh giản cơ cấu và cán bộ.
Thông qua cải cách tối ưu hóa chính quyền, các bộ ngành quản lý kinh tế công nghiệp của cơ chế kinh tế bao cấp cơ bản bị tháo gỡ, bước đầu xây dựng khung hệ thống cơ cấu thích ứng với cơ chế thị trường XHCN, lấy các bộ, ngành điều tiết vĩ mô, quản lý giám sát thị trường, quản lý xã hội và dịch vụ công làm chủ chốt. Năm 1981, Quốc vụ viện có 100 cơ quan, năm 1998 giảm còn 29 cơ quan, năm 2008 chỉ còn 27 cơ quan.
Chính quyền địa phương được tổ chức thành ba cấp hoàn thiện hơn, trong đó cấp tỉnh và tương đương gồm 31 đơn vị (22 tỉnh, bốn thành phố trực thuộc trung ương, năm khu tự trị) và hai khu hành chính đặc biệt. Về cơ cấu xã, trước đổi mới, xã bao gồm các đội sản xuất, hiện nay được tổ chức thành làng, lập ra Uỷ ban làng tự quản do dân trực tiếp bầu, nhiệm kỳ ba năm. Chính quyền đô thị ở Trung Quốc được tổ chức thành hai cấp (thành phố và quận), cấp hành chính được tổ chức cấp thành phố, quận và khu phố. Mục tiêu cải cách cơ cấu trong thời gian qua là giảm thiểu các doanh nghiệp nhà nước, bỏ cơ chế chính quyền trực tiếp quản lý doanh nghiệp; sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp. Hiện tại, Trung Quốc chỉ còn 189 doanh nghiệp nhà nước do trung ương trực tiếp quản lý (trong tổng số 300.000 doanh nghiệp quốc hữu); cơ bản không còn doanh nghiệp thuộc bộ. Trung Quốc đã thành lập Uỷ ban Quản lý tài sản quốc hữu ở cấp trung ương và đang triển khai ở cấp địa phương.
Năm 2004 thông qua Luật Hành chính, tinh thần của luật là giảm thiểu nội dung quản lý nhà nước, trên cơ sở đó tiếp tục thu gọn bộ máy quản lý hành chính. Biên chế cơ quan Đảng, chính quyền toàn quốc giảm từ 7,39 triệu người xuống còn 6,24 triệu người, tổng cộng tinh giản 1,15 triệu người.
Thứ ba, có một bước tiến quan trọng trong việc chuyển đổi chức năng của chính quyền, vai trò quan trọng của thị trường trong việc điều phối các nguồn lực tăng lên một cách rõ nét.
Việc tách rời giữa chính quyền và doanh nghiệp đã mở đường cho việc giảm thiểu sự can dự của chính quyền vào các hoạt động kinh tế vi mô, chức năng quản lý tài sản và quản lý công được tách bạch. Vai trò của nền kinh tế thị trường, nguồn lực cơ bản đã chuyển từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp sang chịu sự phân phối của cơ chế thị trường. Chế độ xét duyệt hành chính được cải tiến một cách mạnh mẽ, tiến bộ, trước đây Quốc vụ viện xét duyệt 3.605 hạng mục, qua bốn lần cải cách đã giảm và điều chỉnh chỉ còn 1.994 hạng mục, chiếm 55,3% hạng mục.
Thứ tư, không ngừng hoàn thiện chức năng quản lý xã hội và dịch vụ công của chính quyền.
Hoàn thiện chức năng dịch vụ công của chính quyền, tiến một bước dài trong lĩnh vực dịch vụ công và các sự nghiệp xã hội; đầu tư vào dịch vụ công không ngừng gia tăng, diện bao phủ của dịch vụ công không ngừng mở rộng và đạt hiệu quả rõ rệt. Ví dụ, số người tham gia bảo hiểm dưỡng lão ở thành phố và thị trấn tăng từ 57 triệu người năm 1989 lên 219 triệu người năm 2008, bảo hiểm y tế tăng từ bốn triệu người năm 1994 lên 318 triệu năm 2008. Số người tham gia chế độ hợp tác y tế nông thôn mô hình mới đạt 815 triệu người năm 2009 (đã cơ bản thực hiện phủ kín nhân khẩu khu vực nông thôn). Tỷ lệ nhập học tiểu học đúng độ tuổi của trẻ em Trung Quốc tăng lên 99%, quy mô sinh viên đại học năm 2008 tăng lên 27 triệu người, đứng đầu thế giới. Chi phí giáo dục văn hóa từ 1,5 tỷ năm 1978 tăng lên 10,8 tỷ năm 2006 (tăng 73 lần).
Thứ năm, ngày càng hoàn thiện cơ chế vận hành của Chính phủ, thúc đẩy toàn diện nền hành chính tuân thủ pháp luật
Quốc vụ viện Trung Quốc có đề cương thúc đẩy toàn diện nền hành chính tuân thủ pháp luật, nhằm mục tiêu xây dựng nền hành chính tuân thủ pháp luật. Trong Chương trình thực hiện quản lý hành chính toàn diện năm 2004 đã làm rõ các tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu cụ thể, nguyên tắc cơ bản, yêu cầu và nhiệm vụ chủ yếu để thực hiện việc quản lý toàn diện hệ thống hành chính trong 10 năm. Chính phủ tập trung cải cách thể chế chính quyền, mục tiêu của cải cách thể chế là chuyển đổi hơn nữa chức năng của Chính phủ, hoàn thiện cơ cấu thể chế Chính phủ...
Đã có 82 thành phố được thí điểm có quyền lực xử phạt hành chính tập trung được Chính phủ trao quyền, 190 chính quyền thành phố và 804 chính quyền huyện đã triển khai quyền lực xử phạt hành chính tập trung.
Cuối năm 2007, đã có 24 cơ quan thuộc Quốc vụ viện quy định chuyên môn về thủ tục hành chính. Công tác giám sát phòng chống tham nhũng trong cơ quan Đảng và cơ quan hành chính được quy định cụ thể, chặt chẽ hơn.
Những năm gần đây, theo yêu cầu của Đại hội Đại biểu nhân dân và “Luật xem xét lại về mặt hành chính”, chính quyền và các cơ quan quản lý ở tất cả các cấp đã liên tục cải thiện hệ thống phối hợp và thủ tục chi tiết để xem xét lại về mặt hành chính, cho phép xem xét lại về mặt hành chính trong giải quyết tranh chấp hành chính, xây dựng mối liên kết chặt chẽ hơn giữa chính quyền và nhân dân, giảm bớt mâu thuẫn xã hội, duy trì sự ổn định và hài hòa xã hội.
Thứ sáu, Chính phủ không ngừng sáng tạo phương pháp quản lý, công cuộc xây dựng của Chính phủ đạt được hiệu quả rõ rệt với hai hình thức chủ yếu là:
Chương trình tin học hoá và xây dựng Chính phủ điện tử: Cho đến nay, các bộ đều đã xây dựng được mạng nội bộ. Giao dịch bằng điện tử đã được thực hiện giữa các bộ với các tỉnh, khu tự trị trực thuộc trung ương. Các bộ, các tỉnh và khu tự trị cũng xây dựng được trang Web riêng. Ở một số thành phố lớn, người dân đã có thể truy cập được thông tin của Chính phủ trên mạng Internet. Ở một số khu vực kinh tế phát triển và đô thị, những dịch vụ hành chính công chủ yếu như đăng ký thuế, hải quan… đã thực hiện thông qua mạng điện tử. Thành phố Bắc Kinh đã thiết lập mạng nội bộ mang tên "Cửa sổ thành phố".
Uỷ ban cải cách cơ cấu Trung Quốc: Ủy ban cải cách cơ cấu trung ương là cơ quan trực thuộc Quốc vụ viện, có thẩm quyền đặc biệt chịu trách nhiệm chung về chương trình CCHC ở Trung Quốc. Chủ nhiệm Uỷ ban là Thủ tướng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban là Phó Chủ tịch nước. Các thành viên khác gồm: Chủ nhiệm Văn phòng Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc vụ viện, Bộ trưởng Bộ Nhân sự và một số Bộ trưởng khác. Tất cả các nội dung và quá trình cải cách đều đặt dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban này.
Bên cạnh những thành tựu và kết quả đã đạt được qua sáu lần cải cách, CCHC ở Trung Quốc vẫn còn một số tồn tại như: trình độ dịch vụ công của chính quyền được nâng cao rõ rệt, song vẫn khó lòng thỏa mãn được nhu cầu xã hội ngày càng tăng; bộ máy các cơ quan chính quyền vẫn còn nhiều cồng kềnh, chức trách chồng chéo, ảnh hưởng đến việc quản lý tổng quát đối với kinh tế - xã hội; chế độ quản lý của chính quyền vẫn chưa hoàn thiện; chế độ quản lý dự toán công, khống chế vốn hành chính còn phải cải cách hơn nữa; cách thức quản lý và dịch vụ của chính quyền vẫn còn hạn chế, hiệu suất không cao, không thích ứng với yêu cầu cạnh tranh của nền kinh tế; công dân hoặc doanh nghiệp khi cần giải quyết thủ tục phải qua nhiều khâu, nhiều hạng mục và nhiều cấp xét duyệt; môi trường đầu tư và môi trường thương nghiệp cần cải thiện một cách cấp bách và cần thiết; tình trạng tham ô, tham nhũng của một số cán bộ trong bộ máy hành chính vẫn xảy ra do chưa có quy định cụ thể và có biện pháp phòng chống có hiệu quả, làm ảnh hưởng lòng tin trong quần chúng nhân dân.
3. Năm mục tiêu tổng thể của cách thể chế hành chính đến năm 2020
Để phát huy những thành tựu đã đạt được và hạn chế những tồn tại của cải cách nền hành chính hiện nay của Trung Quốc,ngày 27/2/2008, tại phiên họp toàn thể lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nhiệm kỳ 17 đã thông qua văn kiện về cải cách cơ chế quản lý hành chính, đề ra năm mục tiêu tổng thể của cách thể chế hành chính đến năm 2020 của Trung Quốc, đó là:
Thứ nhất, kiên trì cải cách nhằm thích ứng với nền kinh tế thị trường XHCN, tiến thêm một bước mới trong việc tinh giản cơ cấu biên chế chính quyền và chuyển giao quyền lực; phát huy tốt hơn nữa vai trò căn bản của thị trường trong việc phân phối các nguồn lực, vai trò của công dân và các tổ chức xã hội trong việc quản lý các sự vụ công cộng của xã hội, phát huy vai trò chủ thể cung cấp đa lĩnh vực trong dịch vụ công.
Thứ hai, thực hiện đầy đủ chức năng của chính quyền, hoàn thiện hệ thống dịch vụ công, xây dựng một chính phủ theo mô hình dịch vụ, xây dựng chế độ chi trong dịch vụ công.
Thứ ba, xúc tiến cải cách cơ cấu của Chính phủ, thực hiện chuyển đổi cơ bản cơ cấu tổ chức và biên chế nhân viên của Chính phủ theo hướng khoa học hóa, quy phạm hóa bằng cách nghiên cứu xây dựng, kiện toàn kết cấu quyền lực và cơ chế vận hành vừa chế ước lẫn nhau vừa phối hợp nhịp nhàng với nhau giữa quyền quyết sách, quyền chấp hành và quyền giám sát; hoàn thiện các quy định quản lý đối với biên chế trong cơ cấu và pháp luật pháp quy của tổ chức Chính phủ, đẩy nhanh xúc tiến quá trình pháp chế hóa đối với quản lý biên chế.
Thứ tư, tăng cường xây dựng chế độ và một nền hành chính tuân thủ pháp luật, trọng điểm là quy phạm hành vi lập pháp của Chính phủ thêm một bước, hoàn thiện hệ thống pháp luật XHCN mang màu sắc Trung Quốc, kiện toàn thể chế chấp pháp đối với hành chính, thực hiện chặt chẽ chế độ chấp pháp đối với hành chính, thiết thực nâng cao khả năng chấp hành của Chính phủ cũng như sự tin tưởng của công chúng đối với Chính phủ
Thứ năm, quy phạm mối quan hệ trung ương và địa phương: Phân chia một cách hợp lý chức trách và quyền hạn của các cấp chính quyền ở trung ương và địa phương, làm rõ trọng điểm quản lý và dịch vụ của chính quyền các cấp, nghiên cứu tìm ra con đường mới nhằm điều chỉnh một cách hợp lý kết cấu quyền lực Chính phủ theo ngành dọc.
4. Một số bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào công cuộc cải cách hành chính ở Việt Nam
Qua phân tích nội dung, kết quả và phương hướng của CCHC của Trung Quốc, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm:
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết của Đảng cộng sản Trung Quốc
Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra chủ trương cải cách mở cửa và là người lãnh đạo, chỉ đạo bảo đảm về chính trị để các mục tiêu cải cách thành công. Với thể chế chính trị một đảng lãnh đạo, Trung Quốc coi thành công của cải cách phải xuất phát từ sự lãnh đạo kiên quyết và thống nhất của Đảng. Để phát triển kinh tế trong điều kiện của một đất nước có xuất phát điểm thấp và là một quốc gia đông dân nhất thế giới, Trung Quốc đã cho phép thí điểm và tập trung nguồn lực để xây dựng các vùng kinh tế trọng điểm (Thẩm Quyến, Thiên Tân, Thượng Hải, Bắc Kinh, Trùng Khánh...), tạo đà phát triển lan tỏa sang các vùng khác.
Sau 30 năm thực hiện thành công chính sách phát triển kinh tế, từ năm 2005, Chính phủ Trung Quốc bắt đầu chuyển sang tập trung vào chính sách phát triển xã hội hài hòa, tạo sự hài hòa về phát triển kinh tế và xã hội, khắc phục những vấn đề khoảng cách giàu - nghèo, lao động, việc làm và ô nhiễm môi trường. Nhà nước có chính sách quy định trách nhiệm của các vùng giàu, phát triển đối với các vùng nghèo, kém phát triển; xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội cơ bản như chính sách hỗ trợ về giáo dục, y tế, bảo hiểm cho người nghèo. Mục tiêu là xây dựng Nhà nước theo nguyên tắc "phục vụ", lấy lợi ích của người dân và cộng đồng làm cơ sở.
- Cải cách bắt đầu từ thay đổi nhận thức
Mục tiêu của cải cách là thay đổi nhận thức về vai trò và chức năng của Nhà nước trong bối cảnh phát triển mới, chứ không chỉ là nhằm giảm bộ máy, giảm số lượng công chức. Đây là một giải pháp tổng hợp từ nhận thức đến quan điểm và những quy tắc, phương thức tổ chức hoạt động nhằm chuyển đổi vai trò của Nhà nước, mà trước hết là tạo được nhận thức về sự thay đổi vai trò của Nhà nước, thích hợp với yêu cầu mới của nền kinh tế và xã hội phát triển. Tạo sự đồng thuận, thống nhất trong quan điểm, nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức về chủ trương, đường lối cải cách mở cửa do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Hoạt động của Nhà nước được thiết lập trên cơ sở phân biệt rõ bốn mối quan hệ: giữa Chính phủ với chính quyền địa phương, giữa Chính phủ với thị trường, giữa Chính phủ với cơ quan sự nghiệp (cơ quan, tổ chức làm dịch vụ) và giữa Chính phủ với các đặc khu kinh tế. Nhà nước tập trung vào bốn loại chức năng cơ bản: điều tiết kinh tế, giám sát thị trường, quản lý xã hội và cung ứng dịch vụ công.
Mục tiêu của cải cách là lấy yêu cầu của người dân, cộng đồng và doanh nghiệp làm cơ sở cho những quyết sách của Nhà nước. Thủ tục hành chính phải công khai, minh bạch và thuận lợi.
- Biện pháp triển khai thực hiện cần tiến hành một cách kiên trì, lâu dài và đồng bộ, toàn diện trong toàn bộ hệ thống hành chính
Trung Quốc đã tiến hành cải cách từ năm 1979 và cải cách liên tục, kéo dài đến nay và tiếp tục trong thời gian tới; cải cách được tiến hành toàn diện tại các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong đó CCHC tại cơ quan hành pháp giữ vai quan trọng.
- Xây dựng bộ máy nhà nước đủ năng lực, có khả năng thích ứng với yêu cầu mới
Với quan điểm này, Trung Quốc chú trọng:
+ Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức về năng lực thực hành, kỹ năng giải quyết các vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Việc đưa ra các quyết sách phù hợp với từng địa phương, với từng hoàn cảnh và điều kiện, trên cơ sở các mục tiêu chung, đòi hỏi cán bộ, công chức phải có năng lực phù hợp và liên tục được tăng cường. Trung Quốc đã cử nhiều tổ chức, cá nhân đi nghiên cứu học tập CCHC tại nhiều nước trên thế giới để về vận dụng vào nước mình.
+ Quan tâm đến chính sách đối với cán bộ công chức, trước hết là chế độ lương và các điều kiện bảo đảm cho cán bộ công chức toàn tâm và trách nhiệm với công việc.
+ Hoàn thiện hệ thống thể chế trong nền công vụ, bảo đảm rõ ràng về thẩm quyền, tính trách nhiệm đối với từng vị trí, chức danh.
CCHC là yêu cầu tất yếu đối với mọi nền hành chính phát triển. Đảng, Nhà nước Trung Quốc đã quyết tâm ban hành các quyết sách, lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện công cuộc CCHC, xác định CCHC là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của Đảng và Nhà nước với sự đồng thuận và ủng hộ của hệ thống chính trị và toàn thể người dân.
Quá trình cải cách của Trung Quốc đã tiến hành một cách liên tục, toàn diện và sâu rộng. Phạm vi cải cách được tiến hành đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Bộ máy hành chính nhà nước và số lượng cán bộ, công chức được tinh giản hơn, hiệu quả, hiệu lực nền hành chính được nâng cao, bước đầu đáp ứng nhu cầu phát triển của thể chế kinh tế thị trường XHCN.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước có nhiều điểm tương đồng về thể chế chính trị và nền hành chính, đều đang tiến hành cải cách nhằm xây dựng một nền hành chính tuân thủ pháp luật, chuyên nghiệp và hiện đại, phục vụ ngày càng tốt hơn cho doanh nghiệp và người dân.
Một số bài học rút ra qua quá trình cải cách của Trung Quốc về nâng cao nhận thức, chỉ đạo kiên quyết của Đảng, về triển khai thực hiện đồng bộ có giá trị không những đối với Trung Quốc mà còn có giá trị đối với các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam. Chúng ta có thể nghiên cứu, triển khai vận dụng vào CCHC tại Việt Nam theo hướng:
- Để cơ quan chỉ đạo và triển khai CCHC có thẩm quyền đặc biệt nhằm đạt kết quả cao trong công tác, có thể thành lập Cơ quan CCHC quốc gia, đứng đầu là Thủ tướng Chính phủ, các thành viên khác gồm có lãnh đạo Nhà nước, Trung ương Đảng, Quốc hội, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ…
-Cần tiến hành CCHC một cách tích cực, có trọng tâm, trọng điểm, trước mắt tập trung vào CCHC trong một số lĩnh vực nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất phát triển, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo tăng trưởng bền vững, giải quyết tốt vấn đề an sinh xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, trong đó cần thực hiện ngay trên các lĩnh vực như:
+ Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, thủ tục thanh quyết toán trong đầu tư xây dựng cơ bản; ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn luật (có thể thuê chuyên gia, tư vấn nhằm giải quyết cơ bản và dứt điểm tình trạng luật có hiệu lực nhưng Nghị định, thông tư chưa ban hành);
+ Nghiên cứu, ban hành các cơ chế chính sách nhằm huy động vốn đầu tư, khai thác và sử dụng có hiệu quả đất công, đất triển khai dự án đường giao thông, thí điểm cho phép các địa phương một số thẩm quyền trong xử phạt hành chính
+ Cho phép các địa phương, các vùng kinh tế thực hiện nhiều mô hình thí điểm, sau đó rút kinh nghiệm, nhân rộng điển hình.
+ Cần có chế độ, chính sách đặc thù cho cán bộ làm công tác CCHC để họ có thể cống hiến và sáng tạo tốt hơn.