Thuốc làm tê liệt thần kinh

Liệt là một trong những lý do phổ biến nhất mà bệnh nhân đến gặp với các bác sỹ chăm sóc y tế ban đầu. Liệt là tình trạng mất cơ lực, mặc dù nhiều bệnh nhân còn sử dụng thuật ngữ này khi họ cảm thấy mệt mỏi hoặc có những hạn chế về chức năng [ví dụ do đau hoặc khớp hạn chế vận động] mặc dù cơ lực bình thường.

Liệt có thể ảnh hưởng đến một vài hoặc nhiều cơ và tiến triển đột ngột hoặc từ từ. Các triệu chứng khác có thể xuất hiện tùy thuộc vào nguyên nhân. Liệt các nhóm cơ đặc biệt có thể gây rối loạn vận nhãn, nói khó, khó nuốt, hoặc liệt hô hấp.

Sinh lý bệnh của yếu

Vận động hữu ý được chỉ huy tại vỏ não vận động, ở phần sau của thùy trán. Các nơ-ron liên quan [nơ ron vận động trên hoặc bó vỏ gai] kết nối qua sy náp với các nơ-ron trong tủy sống [các tế bào thần kinh vận động dưới]. Tế bào thần kinh vận động dưới truyền các xung động đến khớp nối thần kinh cơ để gây co cơ.

Do vậy, các cơ chế chung của liệt bao gồm rối loạn chức năng

  • Tế bào thần kinh vận động trên [tổn thương bó vỏ gai bag và vỏ hành]

  • Tế bào thần kinh vận động dưới [ví dụ, do các bệnh đa dây thần kinh ngoại vi hoặc tổn thương tế bào sừng trước]

  • Synap thần kinh cơ

  • Cơ [ví dụ, do bệnh cơ]

Vị trí của một số thương tổn tương quan với các triệu chứng thực thể:

  • Các rối loạn chức năng của nơ-ron vận động trên gây mất ức chế nơ-ron vận động dưới, làm tăng trương cơ [co cứng] và tăng phản xạ căng cơ [tăng phản xạ]. Phản xạ da gan bàn chân [dấu hiệu Babinski] dương tính đặc hiệu đối với rối loạn chức năng bó vỏ gai. Tuy nhiên, rối loạn chức năng nơ-ron vận động trên có thể làm giảm phản xạ và trương lực cơ nếu liệt đột ngột và trầm trọng [ví dụ như cắt ngang tủy sống, trương lực cơ sẽ giảm trong vài ngày đầu, sau đó tăng dần qua nhiều ngày đến vài tuần] hoặc nếu tổn thương gây tổn thương vỏ não vận động ở khu vực trước rãnh trung tâm và không tổn thương các khu vực vận động liên hợp lân cận.

  • Sự rối loạn chức năng nơron vận động dưới phá vỡ các cung phản xạ, gây giảm phản xạ và giảm trương lực cơ [liệt mềm], và có thể gây giật bó cơ; và teo cơ theo thời gian.

  • Các bệnh đa dây thần kinh ngoại vị có xu hướng dễ nhận thấy nhất trong các dây thần kinh dài nhất [liệt ưu thế ở ngọn chi hơn gốc chi, chân nặng hơn tay] và gây ra các dấu hiệu rối loạn chức năng nơ-ron vận động thấp [ví dụ, giảm phản xạ và trương lực cơ].

  • Bệnh lý phổ biến nhất tại synap thần kinh cơ -bệnh nhược cơ Nhược cơ Bệnh nhược cơ liên quan đến sự yếu cơ và tình trạng dễ mệt mỏi do sự phá hủy các thụ thể acetylcholine qua trung gian tế bào và tự kháng nguyên. Bệnh phổ biến hơn ở phụ nữ trẻ hơn nam giới già... đọc thêm -thường gây liệt dao động, nặng lên khi vận động và giảm đi khi nghỉ.

  • Rối loạn chức năng cơ lan tỏa [ví dụ trong các bệnh cơ] có xu hướng dễ nhận thấy nhất trong các nhóm cơ lớn nhất [các cơ bắp gốc chi].

Căn nguyên của yếu

Nhiều nguyên nhân gây yếu cơ được phân loại theo vị trí tổn thương [xem bảng ]. Thông thường, các thương tổn ở một vị trí nhất định có các biểu hiện lâm sàng tương tự nhau. Tuy nhiên, một số bệnh lý có đặc điểm của tổn thương ở nhiều khu vực. Ví dụ, những bệnh nhân bị chứng xơ cứng cột bên teo cơ Bệnh xơ cột bên teo cơ [ALS] và bệnh thần kinh vận động khác [MND] Bệnh xơ cột bên teo cơ và các bệnh lý thần kinh vận động khác được đặc trưng bởi sự thoái hóa liên tục, lan dần tới các bó dẫn truyền, tế bào sứng trước tủy sống, các nhân vận động hành não... đọc thêm [ALS] có thể có triệu chứng của cả rối loạn chức năng nơ-ron vận động trên và dưới. Các rối loạn của tủy sống có thể ảnh hưởng đến các bó xuất phát từ các nơ-ron vận động trên, nơ-ron vận động dưới [các tế bào sừng trước], hoặc cả hai.

Nguyên nhân thường gặp của liệt khu trú bao gồm

  • Đột quỵ Tổng quan về Đột quỵ Đột quỵ là một nhóm bệnh không đồng nhất liên quan đến sự gián đoạn đột ngột và cục bộ của dòng máu não gây ra tổn thương thần kinh. Đột quỵ có thể là Thiếu máu cục bộ [80%], điển hình là do... đọc thêm

    [nguyên nhân phổ biến nhất của liệt một bên]

  • Bệnh thần kinh Bệnh lý thần kinh ngoại biên Bệnh lý thần kinh ngoại biên là rối loạn chức năng của một hoặc nhiều dây thần kinh ngoại biên [phần tận dây thần kinh cho đến rễ và đám rối]. Bao gồm nhiều hội chứng đặc trưng bởi các rối loạn... đọc thêm , bao gồm những trường hợp gây ra bởi chấn thương hoặc chèn ép [ví dụ như hội chứng ống cổ tay Hội chứng đường hầm cổ tay Hội chứng đường hầm cổ tay hình thành do thần kinh giữa bị chèn ép khi đi qua vùng cổ tay. Các triệu chứng bao gồm đau và dị cảm vùng chi phối của thần kinh giữa. Chẩn đoán dựa vào các triệu... đọc thêm ] và qua miễn dịch qua trung gian [ví dụ: liệt Bell Liệt thần kinh mặt Liệt thần kinh mặt [dây thần kinh số VII] thường nguyên phát [trước đây gọi là liệt Bell]. Liệt mặt nguyên phát diễn ra đột ngột, liệt mặt ngoại biên một bên. Triệu chứng là liệt cả nửa trên... đọc thêm

    ]

  • Chèn ép rễ thần kinh tủy sống [ví dụ, thoát vị đĩa đệm Thoát vị nhân tủy Thoát vị nhân đĩa đêm là sự lồi nhân đĩa đêm qua 1 chỗ rách trên mô xơ xung quanh đĩa đệm. Rách gây đau; do các dây thần kinh trong đĩa đệm, và khi nhân đĩa chạm đến các rễ thần kinh xung quanh... đọc thêm

    ]

  • Ép tủy sống Chèn ép tủy Các tổn thương khác nhau có thể chèn ép tủy sống, gây ra sự suy giảm cảm giác, vận động, phản xạ và cơ tròn kiểu phân đoạn tủy. Chẩn đoán bằng MRI. Điều trị hướng vào giải chèn ép. [Xem thêm... đọc thêm

    [ví dụ: như vẹo cột sống cổ, di căn màng cứng, chấn thương]

  • Đa xơ cứng Xơ cứng rải rác [MS] Xơ cứng rải rác [MS] được đặc trưng bởi mất các mảng myelin ở não và tủy sống. Các triệu chứng thường gặp gồm những bất thường về vận nhãn, dị cảm, yếu cơ, co cứng, rối loạn tiểu tiện và rối... đọc thêm

Liệt cục bộ tạm thời có thể xuất hiện trong bệnh cảnh liệt Todd, thường thoái lui trong vài giờ, tai biến thoáng qua Cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua [TIA] Một cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua [TIA] là sự thiếu máu cục bộ não gây ra thiếu sót thần kinh đột ngột, thoáng qua và không kèm theo nhồi máu não vĩnh viễn [nghĩa là, kết quả âm tính trên... đọc thêm hoặc do hạ đường huyết Hạ đường huyết Hạ đường máu không liên quan đến liệu pháp insulin ngoại sinh là một hội chứng lâm sàng không phổ biến đặc chưng bởi tình trạng glucose huyết thanh thấp, kích thích thần kinh giao cảm có triệu... đọc thêm ; khi điều trị, tình trạng hạ đường huyết và liệt sẽ biến mất.

Các nguyên nhân phổ biến nhất của liệt toàn thể là

  • Mất chức năng do không hoạt động [teo cơ do không vận động] do bệnh tật hoặc tình trạng dễ bị tổn thương, nhất là ở người cao tuổi

  • Tiêu cơ toàn thân do bất động kéo dài khi điều trị tại Khoa hồi sức tích cực [ICU] [bệnh cơ ICU] - một tình trạng gọi là bệnh cơ khoa Hồi sức tích cực

  • Bệnh đa dây thần kinh khi bị bệnh rất nặng [bệnh thần kinh ICU]

  • Các bệnh cơ [myopathy] thường gặp [ví dụ, bệnh cơ do rượu, hạ kali máu, bệnh cơ do corticosteroid]

  • Sử dụng thuốc gây liệt ở bệnh nhân phải chăm sóc tích cực

Bảng

Mệt mỏi

Nhiều bệnh nhân nói bị liệt khi vấn đề của họ là mệt mỏi Mệt mỏi Mệt mỏi xảy ra hầu hết là một phần của phức hợp triệu chứng, nhưng đôi khi nó xuất hiện đơn độc hoặc là một triệu chứng chính, mệt mỏi là một trong những triệu chứng phổ biến nhất. Mệt mỏi là... đọc thêm . Mệt mỏi có thể ngăn cản nỗ lực tối đa và hiệu suất cơ trong quá trình kiểm tra sức cơ.

Các nguyên nhân thường gặp của sự mệt mỏi bao gồm bệnh trầm trọng cấp tính do bất kỳ nguyên nhân nào, ung thư, nhiễm trùng mãn tính [ví dụ HIV Nhiễm trùng HIV/AIDS ở người Nhiễm vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người [HIV] là hậu quả của nhiễm 1 trong số 2 retrovirus tương tự nhau [HIV-1 và HIV-2] chúng phá hủy tế bào lympho CD4 + và làm giảm khả năng miễn dịch... đọc thêm

, viêm gan Nguyên nhân gây viêm gan Hepatitis is an inflammation of the liver characterized by diffuse or patchy necrosis. Viêm gan có thể là cấp tính hoặc mạn tính [thường được định nghĩa là kéo dài > 6 tháng]. Hầu hết các trường... đọc thêm , viêm nội tâm mạc Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn Viêm nội tâm mạc nhiễm trùng là nhiễm trùng của màng ngoài tim, thường do vi khuẩn [thường do các vi khuẩn như streptococci hoặc staphylococci] hoặc nấm. Triệu chứng điển hình là gây sốt, nhịp... đọc thêm
, mononucleosis Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn Bệnh bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn do siêu vi khuẩn Epstein-Barr [EBV, herpesvirus type 4] và có đặc điểm là mệt mỏi, sốt, viêm họng, và hạch to. Mệt mỏi có thể kéo dài hàng tuần hoặc hàng tháng... đọc thêm
], rối loạn nội tiết, suy thận Bệnh thận mạn Bệnh thận mạn [BTM] là sự suy giảm chức năng thận tiến triển, kéo dài. Các triệu chứng tiến triển chậm và trong các giai đoạn tiến triển có các triệu chứng bao gồm chán ăn, buồn nôn, nôn, viêm... đọc thêm
, suy gan Suy gan cấp Nguyên nhân thường gặp nhất của suy gan cấp là thuốc và virus viêm gan. Các triệu chứng chính là vàng da, rối loạn đông máu, và bệnh não. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng. Điều trị chủ yếu là hỗ trợ... đọc thêm , suy tim Suy tim [HF] Suy tim [HF] là một hội chứng rối loạn chức năng tâm thất. Suy tim trái gây khó thở và mệt mỏi, suy tim phải gây ứ trệ tuần hoàn ngoại biên; các tình trạng suy tim trên có thể tiến triển đồng... đọc thêm
và thiếu máu Nguyên nhân của thiếu máu Thiếu máu là sự giảm về số lượng hồng cầu [RBCs], dẫn đến giảm lượng hematocrit và hemoglobin. [Xem thêm Sản xuất hồng cầu.] Khối hồng cầu đại diện cho sự cân bằng giữa sản xuất và tiêu hủy... đọc thêm . Bệnh đa xơ cứng có thể gây ra mệt mỏi hàng ngày tăng lên khi tiếp xúc với nhiệt độ và độ ẩm.

Bệnh nhân có chứng đau xơ cơ Hội chứng đau xơ cơ Bệnh đau xơ cơ là một bệnh lý ngoài khớp thường gặp chưa rõ nguyên nhân với triệu chứng đặc trưng là đau toàn thân [đôi khi triệu chứng nặng]; đau lan tỏa ở cơ, các vùng quanh điểm bám gân và... đọc thêm , trầm cảm Các rối loạn trầm cảm Các rối loạn trầm cảm được đặc trưng bởi buồn trầm trọng hoặc dai dẳng đủ để ảnh hưởng vào hoạt động chức năng và thường là do giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong các hoạt động. Nguyên nhân... đọc thêm , hoặc là Hội chứng mệt mỏi mãn tính Hội chứng mệt mỏi mạn tính Hội chứng mệt mỏi mạn tính [CFS, còn được gọi là viêm cơ não tủy/hội chứng mệt mỏi mjn tính [ME/CFS]] là một hội chứng mệt mỏi thay đổi cuộc sống kéo dài > 6 tháng không rõ nguyên nhân và kèm... đọc thêm có thể báo cáo bị liệt hoặc mệt mỏi nhưng không có bất thường khách quan nào cả.

Đánh giá yếu

Việc đánh giá yếu nên cố gắng phân biệt liệt thật sự với mệt mỏi, sau đó kiểm tra các triệu chứng giúp xác định cơ chế hoặc vị trí gây bệnh [ví dụ, liệt do rối loạn chức năng của não, tủy sống, đám rối, dây thần kinh ngoại vi, khớp thần kinh cơ hoặc cơ] khi có thể, xác định nguyên nhân.

Lịch sử

Bệnh sử hiện tại nên bắt đầu với các câu hỏi mở, yêu cầu bệnh nhân mô tả chi tiết những gì họ đang trải qua khi bị liệt. Sau đó, có thể hỏi những câu hỏi cụ thể, đặc biệt về khả năng làm các công việc cụ thể, bao gồm đánh răng hoặc chải tóc, nói, nuốt, đứng dậy khỏi ghế, leo lên cầu thang và đi bộ.

Các thầy thuốc lâm sàng cũng nên hỏi về sự khởi phát yếu [đột ngột hoặc từ từ] và tiến triển [ví dụ, cố định, xấu đi, không liên tục] của các triệu chứng. Cần hỏi câu hỏi đóng để phân biệt khởi phát đột ngột với sự phát hiện đột ngột; bệnh nhân có thể đột nhiên nhận ra các triệu chứng chỉ sau khi liệt tiến triển chậm vượt qua ngưỡng làm ngăn cản họ thực hiện một số công việc thông thường [ví dụ như đi bộ, buộc giày].

Các triệu chứng quan trọng liên quan bao gồm thay đổi cảm quan, thị giác kép, mất trí nhớ, khó sử dụng ngôn ngữ, động kinh và nhức đầu. Các yếu tố làm liệt nặng lên, như nhiệt độ nóng [gợi ý bệnh xơ cứng rải rác] hoặc sử dụng lặp đi lặp lại một cơ [gợi ý nhược cơ].

Thăm khám toàn thân nên tìm kiếm các triệu chứng gợi ý về nguyên nhân có thể gây ra, bao gồm những biểu hiện sau:

  • Mệt mỏi và yếu cơ hàng ngày tăng lên khi nóng và ẩm: Đa xơ cứng

  • Phát ban: Viêm da cơ Viêm cơ tự miễn Viêm cơ tự miễn dịch được đặc trưng bởi các tổn thương viêm và thoái hóa ở cơ [viêm đa cơ] hoặc ở da và cơ [viêm da cơ]. Các biểu hiện bao gồm yếu cơ đối xứng 2 bên, có thể kèm theo đau cơ,... đọc thêm

    , bệnh Lyme Bệnh Lyme Bệnh Lyme là một bệnh lây truyền qua đường lây truyền do the spirochete Borrelia burgdorferi. Triệu chứng ban đầu bao gồm ban đỏ da đỏ, có thể xảy ra sau vài tuần lễ sau đó do các bất... đọc thêm
    , hoặc giang mai Bệnh giang mai Bệnh giang mai do xoắn khuẩn Treponema pallidum và được đặc trưng bởi 3 lâm sàng tuần tự, giai đoạn triệu chứng cách nhau bởi các giai đoạn nhiễm trùng tiềm tàng không triệu chứng. Các... đọc thêm

  • Sốt: Nhiễm trùng mãn tính

  • Đau cơ: Viêm cơ

  • Đau cổ: Bệnh tủy cổ Gai đốt sống cổ và bệnh lý thần kinh cột sống cổ Gai đốt sống cổ là tình trạng thoái hóa tại cột sống cổ gây chứng hẹp ống tủy và đôi khi gây bệnh lý tủy cổ do sự xâm lấn tiến triển tại cột sống phần tủy cổ thấp, đôi khi gây ảnh hưởng tới... đọc thêm

  • Ói mửa và/hoặc tiêu chảy: Bệnh ngộ độc bệnh ngộ độc Ngộ độc thịt [botulism] gây ra bởi độc tố của Clostridium botulinum và gây ảnh hưởng đến dây thần kinh ngoại vi. Có thể nhiễm botulism mà không gây bệnh nếu nuốt, tiêm hoặc hít phải độc... đọc thêm

  • Hụt hơi thở: Suy tim Suy tim [HF] Suy tim [HF] là một hội chứng rối loạn chức năng tâm thất. Suy tim trái gây khó thở và mệt mỏi, suy tim phải gây ứ trệ tuần hoàn ngoại biên; các tình trạng suy tim trên có thể tiến triển đồng... đọc thêm

    , rối loạn phổi, hoặc thiếu máu Nguyên nhân của thiếu máu Thiếu máu là sự giảm về số lượng hồng cầu [RBCs], dẫn đến giảm lượng hematocrit và hemoglobin. [Xem thêm Sản xuất hồng cầu.] Khối hồng cầu đại diện cho sự cân bằng giữa sản xuất và tiêu hủy... đọc thêm

  • Chán ăn và giảm cân: Ung thư hoặc các bệnh mãn tính khác

  • Thay đổi màu nước tiểu: Đái Porphyrin Tổng quan về Porphyrias Porphyrias là những rối loạn hiếm gặp trong đó hemoglobin được chuyển hóa một cách bất thường do sự thiếu hụt di truyền hoặc mắc phải của các enzym của con đường sinh tổng hợp heme. Những thiếu... đọc thêm hoặc rối loạn gan hoặc thận

  • Không chịu được nóng hoặc lạnh: Rối loạn chức năng tuyến giáp

  • Khí sắc trầm, tập trung kém, lo âu và mất hứng thú trong các hoạt động bình thường: Rối loạn khí sắc Tổng quan về Rối loạn khí sắc Các rối loạn khí sắc là các rối loạn cảm xúc bao gồm một quãng thời gian kéo dài buồn chán quá mức, vui quá mức, hoặc cả hai. Rối loạn khí sắc có thể xảy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên [xem... đọc thêm

Tiền sử y khoa nên xác định các rối loạn đã biết có thể gây ra yếu hoặc mệt mỏi, bao gồm

  • Rối loạn tuyến giáp, gan, thận hoặc tuyến thượng thận

  • Ung thư hoặc các yếu tố nguy cơ ung thư [hội chứng cận u Hội chứng cận u Hội chứng cận u gồm các triệu chứng xảy ra ở vị trí xa khối u hoặc vị trí di căn. Mặc dù cơ chế bệnh sinh chưa được sáng tỏ nhưng người ta cho rằng các triệu chứng này có thể do các chất tiết... đọc thêm

    -Eg, hội chứng Eaton-Lambert] như hút thuốc lá nặng

  • Viêm xương khớp [bệnh lý tủy cổ]

  • Nhiễm trùng

Các thầy thuốc lâm sàng cần đánh giá các yếu tố nguy cơ đối với các nguyên nhân có thể, bao gồm các yếu tố nguy cơ nhiễm trùng [ví dụ như quan hệ tình dục không an toàn, truyền máu, tiếp xúc với lao] và đột quỵ [ví dụ, tăng huyết áp, rung nhĩ, xơ vữa động mạch].

Nên xem xét toàn bộ tiền sử các thuốc đã dùng.

Tiền sử gia đình nên bao gồm các rối loạn về di truyền đã biết [ví dụ rối loạn cơ di truyền, bệnh lý kênh ion, bệnh cơ chuyển hóa, các bệnh thần kinh di truyền] và các triệu chứng tương tự trong các thành viên gia đình [gợi ý một rối loạn di truyền không nhận dạng được]. Bệnh thần kinh vận động di truyền thường không được nhận ra trong các gia đình vì biểu hiện kiểu hình khác nhau, không đầy đủ. Ngón chân hình búa, bàn chân lõm, và chơi thể thao kém có thể gợi ý một bệnh thần kinh vận động di truyền không được chẩn đoán.

Tiền sử xã hội cần lưu ý những điều sau:

  • Sử dụng rượu: Gợi ý bệnh cơ do rượu

  • Sử dụng ma túy trái phép: Gợi ý tăng nguy cơ nhiễm HIV/AIDS, nhiễm khuẩn, lao hoặc đột quỵ do sử dụng cocaine

  • Việc tiếp xúc trong nghề nghiệp hoặc tiếp xúc với các chất độc khác [ví dụ, thuốc trừ sâu photphas hữu cơ, kim loại nặng, dung môi công nghiệp]

  • Đi du lịch gần đây: Gợi ý bệnh Lyme, liệt do côn trùng đốt, bệnh bạch hầu, hoặc nhiễm ký sinh trùng

  • Những căng thẳng xã hội: Gợi ý trầm cảm

Khám thực thể

Khám thần kinh và cơ toàn diện để xác định vị trí hoặc các triệu chứng phục vụ chẩn đoán. Những triệu chứng chính thường liên quan

  • Thần kinh sọ

  • Chức năng vận động

  • Phối hợp

  • Dáng đi

  • Cảm giác

  • Phản xạ

Khám thần kinh sọ Đánh giá thần kinh sọ não như thế nào [Xem thêm Bệnh thần kinh sọ não và thần kinh-nhãn khoa và Giới thiệu về Khám Thần kinh.] Mùi, chức năng của dây thần kinh sọ I [khứu giác], thường chỉ được đánh giá sau chấn thương đầu hoặc... đọc thêm bao gồm khám mặt tìm sự mất cân xứng rõ rệt và sụp mi; sự mất cân xứng nhẹ ở mặt có thể bình thường. Kiểm tra các cử động nhãn cầu và cơ mặt, bao gồm cả cơ nhai [cơ lực]. Liệt hầu họng được phát hiện khi nói giọng mũi; kiểm tra phản xạ ho sặc và nhìn trực tiếp vào vòm họng ít giá trị hơn. Liệt lưỡi được gợi ý khi không phát âm được rõ ràng một số phụ âm [ví dụ nói "ta-ta-ta"] và nói không trôi chảy [nói khó do rối loạn phát âm]. Sự mất cân xứng nhẹ khi đưa lưỡi ra trước có thể là bình thường. Kiểm tra cơ lực của các cơ ức đòn chũm và cơ thang bằng cách cho bệnh nhân xoay đầu và nhún vai chống lại sức đề kháng. Bệnh nhân được yêu cầu chớp mắt nhiều lần để xem liệu có gây mỏi cơ không.

khám vận động Đánh giá Hệ vận động như thế nào Các chi và đai vai phải được bộc lộ đầy đủ, sau đó tìm kiếm những thông tin dưới đây: Teo cơ Phì đại cơ Phát triển không đối xứng Giật bó cơ đọc thêm bao gồm kiểm tra, đánh giá trương lực cơ và kiểm tra cơ lực. Khám toàn thân để tìm chứng vẹo cột sống [đôi khi gợi ý bằng triệu chứng liệt mạn tính của cơ cạnh sống], các vết sẹo phẫu thuật và do chấn thương. Tư thế loạn trương lực [ví dụ: vẹo cổ] có thể cản trở các động tác, và biểu hiện giống liệt. Khám cơ để tiềm dấu hiệu giật bó cơ và teo cơ; cả hai có thể khởi đầu khu trú hoặc không đối xứng trong bệnh xơ cứng cột bên teo cơ [ALS]. Giật bó cơ có thể nhìn thấy rõ nhất ở lưỡi những bệnh nhân bị ALS giai đoạn nặng. Teo cơ lan tỏa có thể rõ nhất ở bàn tay, mặt và vùng đai vai.

Trương lực cơ được đánh giá bằng cử động thụ động. Gõ vào một cơ [ví dụ, cơ mô út] có thể gây giật bó cơ trong các bệnh thần kinh ngoại vi hoặc co rút cơ trong bệnh loạn dưỡng cơ.

Kiểm tra cơ lực Đánh giá cơ lực như thế nào Bệnh nhân phàn nàn yếu có thể có nghĩa là mệt mỏi, vụng về, hoặc yếu cơ thực sự. Do đó, người khám phải xác định chính xác đặc điểm của các triệu chứng, bao gồm vị trí, thời gian xuất hiện,... đọc thêm nên bao gồm các cơ vùng gốc chi, ngọn chi, cơ duỗi và cơ gấp. Một số xét nghiệm các cơ lớn vùng gốc chi bao gồm đứng lên từ tư thế ngồi; ngồi xổm và đứng lên; và uốn cong, duỗi dài, và xoay đầu chống lại sự đề kháng.

Cơ lực thường được đánh giá theo thang điểm từ 0 đến 5:

  • 0: Không có sự co cơ

  • 1: Nhìn thấy co cơ nhưng không gây di chuyển được chi

  • 2: Cử động được chi nhưng không chống lại được trọng lực

  • 3: Động tác chống lại được trọng lực nhưng không chống được lực đối kháng

  • 4: Yếu khi làm nghiệm pháp đối kháng

  • 5: Cơ lực bình thường

Mặc dù những con số này có vẻ khách quan, nhưng đánh giá cơ lực từ 3 đến 5 [những mức điển hình trong liệt giai đoạn sớm, khi thường có chẩn đoán] lại khá chủ quan; nếu triệu chứng một bên, việc so sánh với bên không bị ảnh hưởng sẽ cải thiện khả năng phân biệt. Mô tả cụ thể những gì mà bệnh nhân có thể hoặc không thể làm thường hữu ích hơn là chỉ đơn giản đưa ra mức độ liệt, nhất là để đánh giá sự thay đổi của liệt theo thời gian. Suy giảm nhận thức có thể gây mất khả năng duy trì vận động [không có khả năng tập trung chú ý vào việc hoàn thành một nhiệm vụ vận động], động tác lặp lại nhiều lần, thất dụng, hoặc nỗ lực không đầy đủ. Sự giả vờ và những kiểu liệt chức năng khác thường đặc trưng bởi kiểu liệt đột ngột, trong đó đột ngột mất đi cơ lực bình thường khi gắng sức.

Kiểm tra khả năng phối hợp Làm thế nào để Đánh giá Dáng đi, Tư thế và Phối hợp động tác Dáng đi, tư thế và phối hợp động tác bình thường đòi hỏi sự toàn vẹn của con đường vận động, tiền đình, tiểu não, và nhận cảm cảm giác [ xem thêm Bệnh lý vận động và tiểu não]. Một tổn thương... đọc thêm bao gồm nghiệm pháp ngón tay chỏ-mũi và gót chân-đầu gối, bước đi nối gót để kiểm tra rối loạn chức năng tiểu não. Rối loạn này có thể xảy ra khi bị đột quỵ vùng tiểu não, teo thùy nhung tiểu não [ví dụ: do lạm dụng rượu], , bệnh đa xơ cứng Xơ cứng rải rác [MS] Xơ cứng rải rác [MS] được đặc trưng bởi mất các mảng myelin ở não và tủy sống. Các triệu chứng thường gặp gồm những bất thường về vận nhãn, dị cảm, yếu cơ, co cứng, rối loạn tiểu tiện và rối... đọc thêm

, và hội chứng Miller Fisher, một biến thể của hội chứng Guillain-Barré Hội chứng Guillain - Barre [GBS] Hội chứng Guilain - Barre là bệnh cấp tính, tiến triển nhanh, đặc trưng bởi quá trình viêm tự miễn nhiều dây thần kinh, gây ra yếu cơ và giảm cảm giác nơi thần kinh chi phối. Nguyên nhân gây... đọc thêm .

Dáng đi được quan sát để tìm những triệu chứng sau:

  • Mất khả năng khởi phát động tác [đông cứng tạm thời tại chỗ khi bắt đầu đi, tiếp theo là dáng đi không dừng lại được]: Bệnh Parkinson Bệnh Parkinson Bệnh Parkinson là một rối loạn thoái hóa chậm tiến triển, được đặc trưng bởi run tĩnh trạng, tăng trương lực cơ, giảm vận động và vận động chậm, và sau cùng ổn định tư thế và/hoặc dáng đi. Chẩn... đọc thêm

  • Thất dụng, như khi bàn chân dính chặt xuống sàn: Tràn dịch não áp lực bình thường hoặc rối loạn thùy trán khác

  • Dáng đi không kìm lại được: Bệnh Parkinson

  • Mất cân xứng chi, như khi bệnh nhân đi phải kéo lê một chân, giảm độ vung cánh tay, hoặc cả hai: Đột quỵ ở bán cầu

  • Thất điều: Bệnh đường giữa tiểu não

  • Mất ổn định khi quay người: Hội chứng Parkinson Hội chứng Parkinson thứ phát và không điển hình Hội chứng parkinson thứ phát đề cập đến một nhóm rối loạn có các đặc điểm tương tự như các bệnh Parkinson nhưng có nguyên nhân khác nhau. Hội chứng parkinson không điển hình đề cập đến một nhóm... đọc thêm

Kiểm tra khả năng đi trên ngón chân và gót chân; yếu cơ ngọn chi làm cho những động tác này trở nên khó khăn. Đi bộ trên gót đặc biệt khó khăn khi tổn thương đường họng là nguyên nhân của sự yếu đuối. Đi giày dép là đáng chú ý đối với việc kéo [chân hơi cong ở hông và đầu gối, khiến cho đầu gối, đùi và đùi đập hoặc nhảy theo kiểu kéo] và đi bộ trên ngón chân. Dáng đi bàn chân ngựa và bước chân rơi có thể xuất hiện trong bại não thần kinh peroneal.

Khám cảm giác Đánh giá cảm giác Để đánh giá khả năng cảm nhận được một vật sắc nhọn,test sàng lọc tốt nhất là sử dụng một chiếc đinh ghim an toàn hoặc vật sắc nhọn khác để chạm nhẹ vào mặt, thân mình, và tứ chi; bệnh nhân... đọc thêm ; rối loạn cảm giác có thể giúp định vị một số tổn thương gây liệt [ví dụ như mức độ cảm giác làm tổn thương đến một phần của tủy sống] hoặc gợi ý một số nguyên nhân cụ thể gây liệt [ví dụ: mất cảm giác xa giúp xác nhận nghi ngờ lâm sàng hội chứng Guillain-Barré].

Cảm giác ngứa ran và áp lực trong phân bố da liễu là một dấu hiệu tủy sống xảy ra với cả tổn thương bên trong và bên ngoài.

Kiểm tra Làm thế nào để Đánh giá Phản xạ [Xem thêm Giới thiệu về Khám Thần kinh] Khám phản xạ gân xương [căng cơ] đánh giá các sợi hướng tâm, các kết nối synap trong tủy sống, dây thần kinh vận động và các con đường vận động đi xuống... đọc thêm phản xạ. Nếu mất phản xạ gân xương, có thể làm phản xạ gân xương bộc lộ rõ hơn bằng nghiệm pháp Jendrassik [móc hai tay vào nhau và cố gắng kéo tay ngược nhau ra ngoài]. Giảm phản xạ gân xương có thể là bình thường trong suốt cuộc đời hoặc xảy ra khi lão hóa, nhưng đáp ứng phải đối xứng và cần thực hiện các biện pháp để các phản xạ bộc lộ rõ hơn. Kiểm tra phản xạ da gan bàn chân [duỗi, gấp lên]. Các đáp ứng sau đây gợi ý một số rối loạn hoặc vị trí của tổn thương:

  • Dấu hiệu Babinski cổ điển [ngón chân cái gấp lên và các ngón còn lại cụp xuống và xòe ra như nan quạt] rất đặc hiệu đối với tổn thương bó tháp.

  • Tăng phản xạ gân xương ở tứ chi và phản xạ hàm bình thường gợi ý tổn thương cột sống cổ làm ảnh hưởng đến bó vỏ gai, thường là chứng hẹp ống sống cổ.

  • Trương lực hậu môn, phản xạ co thắt hậu môn, hoặc cả hai đều giảm hoặc mất trong chấn thương tủy sống nhưng vẫn còn trong liệt lan lên do hội chứng Guillain-Barré.

  • Phản xạ da bụng mất ở phía dưới mức tủy sống bị chấn thương.

  • Phản xạ da bìu có thể kiểm tra sự toàn vẹn của tủy thắt lưng trên và rễ thần kinh ở nam giới.

Việc đánh giá cũng bao gồm

  • Gõ cột sống tìm điểm đau và ổ áp xe [biểu hiện khi viêm đốt sống, một số khối u đốt sống và áp xe ngoài màng cứng]

  • Nâng thẳng chân lên [xuất hiện đau khi bị tổn thương dây thần kinh tọa]

  • Kiểm tra dấu hiệu xệ vai [gợi ý liêt cơ đai vai]

Kiểm tra tổng quát

Nếu bệnh nhân không liệt vận động rõ ràng, thì khám toàn thân rất quan trọng; ở những bệnh nhân này, cần tìm kiếm các rối loạn không do thần kinh cơ.

Cần lưu ý dấu hiệu suy hô hấp [ví dụ như thở nhanh, thở yếu]. Kiểm tra dấu hiệu vàng da, nhợt nhạt, phát ban, và sưng tấy. Những phát hiện quan trọng khác trong quá trình khám bệnh bao gồm mặt tròn như mặt trăng của hội chứng Cushing và sưng vùng mang tai, da trơn không có lông, cổ trướng và sao mạch do uống rượu kéo dài.

Nên khám hạch vùng cổ, nách, và vùng bẹn; lưu ý tuyến giáp to.

Nghe tim và phổi để phát hiện ral nổ, tiếng khò khè, kéo dài thì thở ra, tiếng thổi và tiếng ngựa phi.

Khám bụng tìm khối u, cầu bàng quang nếu rối loạn chức năng tủy sống.

Khám trực tràng để kiểm tra máu trong phân.

Đánh giá phạm vi chuyển động của khớp.

Nếu nghi ngờ liệt do côn trùng đốt cần phải kiểm tra kỹ, da, đặc biệt là da đầu, để tìm vết đốt.

Các dấu hiệu cảnh báo

Những phát hiện sau đây cần được quan tâm đặc biệt:

  • Liệt tiến triển nặng hơn trong vài ngày hoặc ít hơn

  • Khó thở

  • Không thể nâng đầu chống lại trọng lực

  • Các triệu chứng của hành tủy [ví dụ như khó nhai, nói chuyện và nuốt]

  • Mất khả năng đi lại

Giải thích các dấu hiệu

Bệnh sử giúp phân biệt liệt với mệt mỏi, xác định quá trình tiến triển theo thời gian của bệnh, và đưa ra những triệu chứng để định khu giải phẫu của liệt. Liệt không hoàn toàn và mệt mỏi có xu hướng gây ra các triệu chứng khác nhau:

  • Liệt không hoàn toàn: Bệnh nhân thường phàn nàn họ không thể làm những công việc cụ thể. Họ cũng có thể nói rằng các chi của mình có cảm giác nặng hoặc cứng. Liệt thường có một mô hình nhất định theo thời gian, giải phẫu, hoặc cả hai.

  • Mệt mỏi: Triệu chứng mệt mỏi khi bị bệnh nhân nhầm lẫn với liệt thường có xu hướng không có khuôn mẫu thời gian [ví dụ, "mệt mỏi suốt ngày"] hoặc không có định khu giải phẫu cụ thể [ví dụ, "yếu ở khắp cơ thể"]; triệu chứng tập trung nhiều hơn về cảm giác mệt mỏi hơn là không thể làm được những hoạt động cụ thể.

Các mô hình thời gian của các triệu chứng rất hữu ích.

  • Liệt tiến triển nặng hơn trong vài phút hoặc ngắn hơn thường là do chấn thương nặng hoặc đột quỵ; trong đột quỵ, thường liệt một bên và mức độ nhẹ hoặc nặng. Liệt đột ngột, tê và đau dữ dội ở một chi có thể do tắc động mạch khu trú và thiếu máu cục bộ chi. Điều này có thể được phân biệt bằng khám mạch máu [ví dụ như mạch đập, màu sắc, nhiệt độ, nghiệm pháp đo thời gian đổ đầy mao mạch, tỉ số huyết áp chi trên chi dưới đo qua siêu âm Doppler]. Ép tủy cũng có thể gây liệt, tiến triển trong vài phút [nhưng thường qua hàng giờ hoặc nhiều ngày] và dễ phân biệt bằng đại tiểu tiện không tự chủ được và những triệu chứng lâm sàng về cảm giác và vận động.

  • Liệt tiến triển tăng dần qua nhiều giờ đến nhiều ngày có thể do các bệnh lý cấp tính hoặc bán cấp [ví dụ, ép tủy, viêm tủy ngang, thiếu máu cục bộ hoặc xuất huyết tủy sống, hội chứng Guillain-Barré, đôi khi teo cơ do một bệnh nặng, tiêu cơ vân, ngộ độc bệnh ngộ độc Ngộ độc thịt [botulism] gây ra bởi độc tố của Clostridium botulinum và gây ảnh hưởng đến dây thần kinh ngoại vi. Có thể nhiễm botulism mà không gây bệnh nếu nuốt, tiêm hoặc hít phải độc... đọc thêm độc tố vi khuẩn ngộ độc thịt, ngộ độc phosphate hữu cơ Ngộ độc Phospho hữu cơ và Ngộ độc Carbamate Các chất phospho hữu cơ và cacbamate là các thuốc trừ sâu thông thường ức chế hoạt tính của cholinesterase, gây ra hiện tượng muscarinic cấp tính [ví dụ như tăng tiết nước bọt, chảy nước mắt... đọc thêm ].

  • Liệt tiến triển trong vài tuần tới vài tháng có thể do các bệnh lý bán cấp hoặc mạn tính [ví dụ: bệnh lý tủy cổ, bệnh đa dây thần kinh di truyền hoặc mắc phải, bệnh nhược cơ Nhược cơ Bệnh nhược cơ liên quan đến sự yếu cơ và tình trạng dễ mệt mỏi do sự phá hủy các thụ thể acetylcholine qua trung gian tế bào và tự kháng nguyên. Bệnh phổ biến hơn ở phụ nữ trẻ hơn nam giới già... đọc thêm , rối loạn nơ-ron vận động, bệnh cơ mắc phải, hầu hết các khối u].

  • Liệt dao động từ ngày này sang ngày khác có thể do xơ cứng rải rác và đôi khi là do bệnh cơ chuyển hóa.

  • Liệt dao động trong ngày có thể do bệnh nhược cơ, hoặc liệt chu kỳ Liệt chu kỳ có tính chất gia đình Liệt chu kì có tính chất gia đình là một di truyền trội nhiễm sắc thể thường hiếm gặp với biến đổi đáng kể đặc trưng bởi các giai đoạn của liệt mềm với tổn thương mất phản xạ gân xương và sự... đọc thêm .

Các mô hình giải phẫu của liệt được đặc trưng bởi những khó khăn khi thực hiện các động tác. Các mô hình giải phẫu gợi ý một số chẩn đoán nhất định:

  • Liệt cơ gốc chi gây khó khăn khi làm động tác với lên cao [ví dụ như chải tóc, nâng vật qua đầu], đi lên cầu thang, hoặc đứng dậy từ tư thế ngồi; mô hình này là điển hình của bệnh cơ.

  • Liệt cơ ngọn chi gây khó khăn khi làm các động tác như bước qua lề đường, cầm cốc, viết, cài khuy hoặc sử dụng chìa khóa; mô hình này điển hình cho bệnh đa dây thần kinh và chứng loạn dưỡng cơ. Nhiều bệnh lý [ví dụ bệnh đa dây thần kinh hủy myelin mạn tính Viêm đa rễ dây thần kinh mất myelin mạn tính [CIDP] Viêm đa rễ dây thần kinh mất myelin mãn tính là bệnh gây ra do trung gian miễn dịch, có đặc điểm là yếu đồng đều đối xứng cơ gốc chi và ngọn chi, kéo dài > 2 tháng. [Xem thêm Tổng quan về bệnh... đọc thêm , hội chứng Guillain-Barré Hội chứng Guillain - Barre [GBS] Hội chứng Guilain - Barre là bệnh cấp tính, tiến triển nhanh, đặc trưng bởi quá trình viêm tự miễn nhiều dây thần kinh, gây ra yếu cơ và giảm cảm giác nơi thần kinh chi phối. Nguyên nhân gây... đọc thêm , bệnh nhược cơ, bệnh lý rễ thần kinh, hội chứng Eaton-Lambert] gây liệt gốc và ngọn chi, nhưng thường có một mô hình liệt nổi trội hơn tại thời điểm khởi phát.

  • Liệt hành tủy có thể gây liệt mặt, khó nói, và khó nuốt, có hoặc không rối loạn vận nhãn; các biểu hiện này điển hình cho một số rối loạn thần kinh cơ, như bệnh nhược cơ, hội chứng Eaton-Lambert, hoặc bệnh ngộ độc thịt, một số rối loạn nơ ron vận động, như xơ cứng cột bên teo cơ Bệnh xơ cột bên teo cơ [ALS] và bệnh thần kinh vận động khác [MND] Bệnh xơ cột bên teo cơ và các bệnh lý thần kinh vận động khác được đặc trưng bởi sự thoái hóa liên tục, lan dần tới các bó dẫn truyền, tế bào sứng trước tủy sống, các nhân vận động hành não... đọc thêm hoặc liệt trên nhân tiến triển. Liệt trên nhân tiến triển [PSP] Liệt trên nhân tiến triển là bệnh lý thoái hóa hệ thần kinh trung ương hiếm gặp, gây liệt vận nhãn tiến triển, chậm vận động, co cứng cơ, loạn trương lực quanh trục tiến triển, giả liệt hành... đọc thêm

Khám thực thể tiếp tục giúp định khu tổn thương. Thứ nhất, các mô hình chung được phân biệt:

  • Liệt chủ yếu ở các cơ gốc chi sẽ gợi ý bệnh cơ.

  • Liệt đi kèm với tăng phản xạ và tăng trương lực cơ gợi ý các rối loạn chức năng nơ-ron vận động trên [bó vỏ gai hoặc các bó vận động khác], đặc biệt nếu phản xạ da gan bàn chân [dấu hiệu Babinski] dương tính.

  • Rối loạn không đều động tác tính vi của các ngón tay [ví dụ các động tác kẹp kiểu gọng kìm, chơi piano] với cơ lực được duy trì tương đối cho thấy sự gián đoạn chọn lọc của bó vỏ gai [bó chóp].

  • Liệt hoàn toàn kèm theo mất phản xạ và giảm nặng trương lực cơ [liệt mềm] xảy ra khi tổn thương tủy sống nặng, đột ngột [choáng tủy].

  • Liệt đi kèm giảm phản xạ, giảm trương lực cơ [có hoặc không có giật bó cơ] và teo cơ mãn tính gợi ý rối loạn chức năng nơron vận động thấp.

  • Liệt các cơ được chi phối bởi các sợi thần kinh dài nhất [nghĩa là liệt ngọn chi nhiều hơn gốc chi, chân nặng hơn tay], nhất là mất cảm giác ngọn chi, gợi ý rối loạn chức năng nơ ron vận động thấp do bệnh đa thần kinh ngoại vi.

  • Không có các bất thường thần kinh [tức là phản xạ bình thường, không có teo cơ hay giật bó cơ, cơ lực bình thường hoặc gắng sức không tốt khi kiểm tra cơ lực] hoặc gắng sức không tốt ở những bệnh nhân bị mệt mỏi hoặc liệt nhưng không có mô hình thời gian hoặc giải phẫu phù hợp gợi ý chứng mệt mỏi hơn là liệt thật sự. Tuy nhiên, nếu liệt không liên tục và tại thời điểm khám không liệt, các bất thường có thể bị bỏ sót.

Những phát hiện bổ sung có thể giúp định khu tổn thương chính xác hơn. Ví dụ,

  • liệt đi kèm các dấu hiệu tổn thương nơ ron vận động trên cùng với các dấu hiệu khác như thất ngôn, rối loạn chức năng tâm thần hoặc rối loạn chức năng vỏ não khác gợi ý tổn thương não: Tổn thương não

  • Dấu hiệu tổn thương nơ ron vận động trên một bên [co cứng, tăng phản xạ, dấu hiệu Babinski dương tính] và liệt một tay và một chân cùng bên: Tổn thương bán cầu bên đối diện, thường là do đột quỵ

  • Dấu hiệu tổn thương nơ ron vận động trên hoặc dưới [hoặc cả hai] cùng với mất cảm giác phía dưới mức một đoạn tủy nhất định và mất kiểm soát ruột hoặc bàng quang [hoặc cả hai]: Tổn thương tủy sống

Liệt đi kèm các dấu hiệu tổn thương nơ ron vận động dưới có thể do một rối loạn gây ảnh hưởng đến một hoặc nhiều dây thần kinh ngoại vi; rối loạn như thế có kiểu biểu hiện liệt rất đặc trưng [ví dụ, bàn tay rủ cổ cò trong chấn thương thần kinh quay]. Khi bị tổn thương đám rối cánh tay hoặc thắt lưng cùng, các rối loạn vận động, cảm giác và phản xạ thường không đều và không theo bất kỳ sự phân bố của dây thần kinh ngoại vi nào.

Xác định bệnh lý căn nguyên cụ thể

Đôi khi việc kết hợp các dấu hiệu sẽ gợi ý một số nguyên nhân [xem bảng ].

Bảng

Nếu không có triệu chứng hoặc dấu hiệu của liệt thật sự [ví dụ, các mô hình giải phẫu và thời gian đặc trưng, các dấu hiệu khách quan] và bệnh nhân chỉ phàn nàn yếu toàn thân, mệt mỏi hoặc thiếu năng lượng, thầy thuốc lâm sàng nên xem xét các rối loạn không phải thần kinh. Tuy nhiên, trong số những bệnh nhân lớn tuổi cảm thấy quá yếu để đi bộ, xác định sự đóng góp của yếu cơ có thể khó khăn bởi vì rối loạn dáng đi thường do nhiều yếu tố .

Bệnh nhân có nhiều bệnh có thể bị hạn chế chức năng nhưng không mất cơ lực thực sự. Ví dụ, rối loạn chức năng tim phổi hoặc thiếu máu có thể gây ra sự mệt mỏi do khó thở hoặc không dung nạp các bài tập. Rối loạn chức năng khớp [ví dụ, do viêm khớp] hoặc đau cơ [ví dụ, do đau đa cơ dạng thấp hoặc đau cơ xơ] có thể gây khó khăn cho các hoạt động thể chất. Những rối loạn thể chất này gây ra nhiều than phiền về liệt [ví dụ: cúm, nhiễm trùng tăng bạch cầu đơn nhân, suy thận] thường đã được chẩn đoán hoặc được gợi ý bởi những phát hiện trong bệnh sử, khám thực thể, hoặc cả hai.

Nhìn chung, nếu bệnh sử và khám thực thể không phát hiện các bất thường gợi ý các rối loạn thực thể thì các rối loạn này khó xảy ra; Các rối loạn gây mệt mỏi liên tục, toàn thân không kèm theo kiểu thái dương hoặc giải phẫu sinh lý [ví dụ: trầm cảm; hội chứng mệt mỏi mãn tính; bệnh toàn thân chưa được phát hiện như thiếu máu nặng, suy giáp hoặc bệnh Addison; tác dụng phụ của thuốc] cần được xem xét.

Xét nghiệm

Hỏi tiền sử và vào việc xác định các biểu hiện tinh tế của các căn bệnh tiềm ẩn [đặc biệt là các bệnh nhiễm trùng, rối loạn nội tiết và thấp khớp, thiếu máu và trầm cảm] có thể được sử dụng để hướng dẫn kiểm tra.

Mặc dù nhiều xét nghiệm có thể được thực hiện nếu bệnh nhân bị liệt thật sự, nhưng các xét nghiệm như vậy thường chỉ hỗ trợ.

Nếu không có liệt thật sự, các triệu chứng lâm sàng khác [ví dụ, khó thở, nhợt, vàng da, tiếng thổi ở tim], nếu có, được sử dụng để định hướng xét nghiệm.

Nếu bệnh nhân không có bất thường trên lâm sàng, thì thường kết quả xét nghiệm sẽ không bất thường. Trong những trường hợp như vậy, các phương pháp xét nghiệm rất khác nhau. Các xét nghiệm ban đầu thường bao gồm một số kết hợp của công thức máu [CBC], chất điện giải [bao gồm canxi và magiê], glucose, xét nghiệm chức năng thận và gan, hormone kích thích tuyến giáp [TSH], tốc độ máu lắng [ESR] và xét nghiệm huyết thanh viêm gan C.

Nếu liệt toàn thân đột ngột hoặc nghiêm trọng hoặc có bất kỳ triệu chứng hô hấp, cần phải kiểm tra dung tích sống gắng sức và dung tích hít vào tối đa để đánh giá nguy cơ suy hô hấp cấp. Bệnh nhân có dung tích sống

Chủ Đề