Theo quan niệm nhà Nho công danh là gì

Nợ công danh mà tác giả nói tới trong hai câu thơ cuối có thể hiểu theo nghĩa nào? Phân tích ý nghĩa của nỗi thẹn trong hai câu thơ cuối.

Nợ công danh mà tác giả nói tới trong bài thơ Tỏ lòng được hiểu như thế nào

Trang trước Trang sau

Câu hỏi: “Nợ” công danh mà tác giả nói tới trong bài thơ “Tỏ lòng” được hiểu như thế nào?

Trả lời:

Quảng cáo

Nợ công danh được hiểu theo hai nghĩa:

- Theo tinh thần Nho giáo, nam nhi phải lập công danh, đây là lý tưởng sống cao đẹp của nam nhi thời phong kiến

+ Lý tưởng này cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, nhụt chí để sống có ích hơn.

+ Nợ công danh chính là món nợ cần phải trả của đấng nam nhi giữa trời đất.

- Cách hiểu thứ hai, nợ công danh được hiểu chưa hoàn thành trách nhiệm với đất nước, dân tộc.

+ Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ chí làm trai phải chống giặc.

→ Nợ công danh hay chí làm trai chính là việc ý thức trách nhiệm với dân, với nước của Phạm Ngũ Lão là quan niệm cao đẹp, có nghĩa tích cực với mọi người.

Quảng cáo

Xem thêm các câu hỏi ôn tập về các tác phẩm Ngữ văn lớp 10 chọn lọc, có đáp án chi tiết hay khác:

Trang trước Trang sau

“Nợ” công danh mà tác giả nói tới trong bài thơ có thể hiểu theo nghĩa nào

Bài viết số 2 lớp 11 đề 3: Nhân cách nhà nho chân chính

  • Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát
    • Dàn ý nhân cách nhà nho trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát
    • Nhân cách nhà nho trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát - Mẫu 1
    • Nhân cách nhà nho trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát - Mẫu 2
    • Nhân cách nhà nho trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát - Mẫu 3
  • Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng
    • Dàn ý nhân cách nhà nho trong Bài ca ngất ngưởng
    • Nhân cách nhà nho trong Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 1
    • Nhân cách nhà nho trong Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 2
    • Nhân cách nhà nho trong Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 3

1.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh tráng lệ với âm hưởng hào hùng, sảng khoái:

Hoành sóc giang san kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Hai câu thơ có hai hình ảnh: Hình ảnh tráng sĩ [con người thời Trần] và hình ảnh ba quân [quân đội thời Trần, thời đại, dân tộc]. Tráng sĩ hiện lên trong hành động cắp ngang ngọn giáo với mục đích gìn giữ non sông đã mấy thu rồi. Các bản dịch thơ dịch “hoành sóc” bằng “múa giáo”. Theo tôi, cách dịch như vậy là hay nhưng chưa có sức âm vang. “Múa giáo” thể hiện sự điêu luyện, bền bỉ, dẻo dai nhưng thiếu đi độ cứng rắn, mạnh mẽ. “Cầm ngang ngọn giáo” khắc họa được tư thế hiên ngang, lẫm liệt, vững chãi của người trai thời Trần. Câu thơ nguyên tác dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ đất nước. Đó chính là dáng đứng của con người Việt Nam đời Trần.

Văn học Việt Nam giai đoạn thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV phát triển trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt: Dân tộc ta giành được quyền độc lập tự chủ vào cuối thế kỉ X, lập nhiều kì tích trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược [chống quân Tống thế kỉ XI, chống quân Nguyên - Mông thế kỉ XIII]. Sau những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là công cuộc xây dựng đất nước trong hòa bình.
Chế độ phong kiến Việt Nam đang ở thời kì phát triển. Những người cầm bút là vua quan, tăng lữ và nhà Nho. Sáng tác của họ ít nhiều đều chịu ảnh hưởng tư tưởng của Nho, Phật, Đạo giáo và đều in dấu ấn tâm lí của tầng lớp trên nhưng nói chung vẫn tiếp thu được truyền thống tinh thần của dân tộc, gắn bó với đất nước, vẫn thể hiện tâm hồn, khí phách cao đẹp Việt Nam.

Nếu câu thơ đầu thể hiện vẻ đẹp của con người với tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao, kì vĩ thì câu thơ thứ hai tô đậm hình ảnh “ba quân” tượng trưng cho sức mạnh dân tộc.

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

“Tam quân” là chỉ quân đội, dân tộc; “Ngưu” có hai nghĩa: Là sao Ngưu, là trâu. Hình ảnh ba quân trong tư thế xông lên giết giặc với khí thế bừng bừng. Thủ pháp nghệ thuật so sánh vừa cụ thể hóa sức mạnh vật chất vừa hướng tới sự khái quát hóa sức mạnh tinh thần của “hào khí Đông A”. Câu thơ gây ấn tượng mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan và cảm nhận chủ quan, giữa hiện thực và lãng mạn.

Tác giả Trần Trọng Kim dịch là “Ba quân hùng khí át sao Ngưu”, còn Bùi Văn Nguyên dịch “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Tôi thích cách dịch của Trần Trọng Kim, bởi lẽ dịch “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” nói được sức mạnh, khí thế dũng mãnh “Sát Thát” của quân đội, sẵn sàng lăn xả vào bọn giặc dữ một khi chúng ồ ạt tràn tới... nhưng chưa nói được tầm vóc. Hơn nữa dịch “át sao Ngưu”... câu thơ có lẽ giàu hình ảnh, gợi cảm hơn, kết hợp với câu thơ thứ nhất mở ra cả một không gian rộng lớn, vì thế ý thơ cũng giàu sức khái quát hơn.

Hai câu thơ nhỏ mà mang hai hình ảnh lớn: Hình ảnh một tráng sĩ cắp ngang ngọn giáo đi cứu nước ròng rã bao năm mà chưa hề mảy may mệt mỏi; hình ảnh “ba quân” xông lên giết giặc bừng bừng hùng khí át cả sao Ngưu, nghĩa là át cả trời cao. Bút pháp miêu tả, so sánh, phóng đại, phép đối hài hòa, giọng thơ hào hùng, sôi nổi tạo ra cách nói hấp dẫn và ấn tượng.

Hình ảnh tráng sĩ còn có tính chất cụ thể ít nhiều, hình ảnh ba quân thì rõ ràng là chỉ là từ ấn tượng, từ cảm hứng chủ quan, dĩ nhiên là rất mãnh liệt và sảng khoái. “Ở đây chủ quan mà lại chân thực, chân thực của ấn tượng chứ không phải chân thực của thị giác. Chân thực ở cái hồn của sự việc chứ không phải ở cái sự việc cụ thể. Xét cho cùng, chính đó là cái chân thực của thời đại, của đất nước” [Nguyễn Đình Chú].

Nếu cái tư thế của tráng sĩ với hình ảnh cây trường giáo như đo bằng chiều ngang của non sông thì tư thế của ba quân lớn mạnh đo bằng chiều dọc. Nghĩa là không gian mở ra theo chiều rộng của núi sông và mở theo chiều cao đến tận sao Ngưu thăm thẳm. Con người kì vĩ như át cả không gian bao la trong một bối cảnh không - thời gian kì vĩ. Hình ảnh tráng sĩ lồng vào trong hình ảnh dân tộc thật đẹp có tính chất sử thi, hoành tráng. Đó chính là sức mạnh, âm vang của thời đại, vẻ đẹp của người trai thời Trần. Đó chính là sản phẩm của “hào khí Đông A”. Nói cách khác, đó là hình ảnh con người vũ trụ, mang tầm vóc lớn lao.

Con người mang tầm vóc vũ trụ này vì ai mà xông pha, quyết chiến...? Tất cả xuất phát từ trách nhiệm, ý thức dân tộc và nền thái bình đất nước... Vì thế con người vũ trụ gắn với con người trách nhiệm, con người ý thức, bổn phận, con người hành động, đó chính là những biểu hiện của con người cộng đồng, con người xả thân vì đất nước. Điều đặc biệt ở đây là, khác với văn học Trung Quốc hay Ấn Độ, con người vũ trụ, con người cộng đồng trong văn học Việt Nam nói chung và Thuật hoài nói riêng gắn với lòng tự hào, tự tôn dân tộc, gắn với thời đại và đất nước.

Đền Ủng - nơi thờ tướng quân Phạm Ngũ Lão. Ảnh minh họa

Viết bài văn số 2 lớp 11 đề 3: Nhân cách nhà nho chân chính

THPT Sóc Trăng Send an email
0 14 phút

Dựa vào dàn ý trước đó trongSoạn bài viết bài làm văn số 2 lớp 11thì THPT Sóc Trăng cũng gợi ý thêm cho các em 2 bài văn mẫu để phân tích nhân cách nhà nho chân chính được thể hiện trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát [hoặc Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ] dưới đây:

Nội dung

  • 1 Văn mẫu viết bài văn số 2 lớp 11 đề 3 – Ngữ văn 11 tập 1
    • 1.1 Nhân cách nhà nho chân chính qua hai tác phẩm bài ca ngắn đi trên bãi cát và bài ca ngất ngưởng
    • 1.2 Nhân cách nhà nho chân chính được tái hiện vô cùng cụ thể và lay động

Video liên quan

Chủ Đề