So sánh đại hội 4 và 5 năm 2024

Ðại hội lần thứ IV của Ðảng diễn ra tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 14 đến 20-12-1976. Thay mặt cho 1,5 triệu đảng viên trong cả nước, 1.008 đại biểu về dự Ðại hội. Ðến dự, có 29 đoàn đại biểu các Ðảng Cộng sản, Ðảng Công nhân, phong trào giải phóng dân tộc và các tổ chức quốc tế.

Báo cáo chính trị trình bày tại Ðại hội nêu rõ, thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc trang sử chói lọi nhất; là một chiến công vĩ đại mang tầm vóc lịch sử thế giới của thế kỷ 20. Ðó là thắng lợi của đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, bền bỉ, thông minh của Ðảng và dân tộc Việt Nam Anh hùng với sự giúp đỡ chí tình của các nước xã hội chủ nghĩa, của giai cấp công nhân và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.

Ðại hội xác định, đường lối chung của cách mạng nước ta là nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt. Nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu. Ðồng thời không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Trên cơ sở đường lối chung, Ðại hội chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ xuyên suốt giai đoạn này là thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc, cải tạo xã hội chủ nghĩa, hàn gắn vết thương chiến tranh; từng bước khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội,… Về kế hoạch 5 năm 1976-1980, Ðại hội xác định hai mục tiêu là vừa bảo đảm nhu cầu đời sống nhân dân vừa tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, phải ra sức phát triển vượt bậc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giải quyết vững chắc nhu cầu về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thông dụng, xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, nhất là cơ khí, mở mang giao thông vận tải, xây dựng cơ bản, đẩy mạnh khoa học - kỹ thuật,…

Về công tác xây dựng Ðảng, Ðại hội nêu lên những thay đổi và nhiệm vụ chủ yếu trong thời kỳ mới; vận dụng những kinh nghiệm tích lũy được trong mấy chục năm qua, xác định phương châm, biện pháp trong giai đoạn mới, bảo đảm để Ðảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Ðại hội quyết định đổi tên Ðảng Lao động Việt Nam thành Ðảng Cộng sản Việt Nam như tên gọi khi thành lập; thông qua Ðiều lệ mới của Ðảng, đặt lại chức vụ Tổng Bí thư thay chức Bí thư thứ nhất, quy định nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương là 5 năm. Ðại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 101 ủy viên chính thức và 32 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên chính thức và ba ủy viên dự khuyết. Ðồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư của Ðảng.

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV hay Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976 tại Hà Nội. Đây là Đại hội đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi được thống nhất từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Tham dự đại hội có tất cả 1008 đại biểu chính thức, thay mặt cho 1.550.000 đảng viên của cả hai miền đất nước, cùng với sự có mặt của nhiều Đảng Cộng sản và các tổ chức quốc tế khác.

Bối cảnh lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV diễn ra trong bối cảnh cuộc Kháng chiến chống Mỹ đã đạt được thắng lợi. Hai miền Nam Bắc thống nhất sau hơn 20 năm chia cắt từ Hiệp định Geneve 1954 bằng việc hiệp thương của hai nhà nước tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam từ sau 30 tháng 4 năm 1975 là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.

Hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Đại hội đã thảo luận, đánh giá quyết định chuyển cách mạng Việt Nam từ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam sang thực hiện cách mạng xã hội trên toàn đất nước. Từ nhận định đó, Đại hội đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước, gồm:

  • Đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa
  • Đường lối xây dựng kinh tế trong thời kì quá độ

Những đường lối này được Đại hội đề ra dựa trên cơ sở kinh nghiệm của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong 21 năm [1954-1975], nhất là xuất phát từ đặc điểm tình hình đất nước và thế giới trong giai đoạn cách mạng mới.

Đại hội nêu ra 3 đặc điểm lớn của cách mạng Việt Nam, mà đặc điểm lớn nhất là: "Nước ta vẫn đang trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển Tư bản chủ nghĩa." Đặc điểm này quy định cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá trình biến đổi cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để, đồng thời cũng quy định tính chất lâu dài, khó khăn và phức tạp trong quá trình đó.

Nhiệm vụ cách mạng miền Bắc[sửa | sửa mã nguồn]

Miền Bắc do đã có 21 năm đi lên Chủ nghĩa xã hội từ 1954 nên trong giai đoạn này phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Góp phần cùng cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Nhiệm vụ cách mạng miền Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Do mới giải phóng, và trong suốt thời kì Việt Nam Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam nền kinh tế miền Nam trong chừng mực phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, nhưng về cơ bản vẫn mang tính chất của kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ và phân tán, phát triển không cân đối, lệ thuộc vào viện trợ bên ngoài. Đại hội quyết định miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng Chủ nghĩa xã hội, góp phần cùng cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Kế hoạch 5 năm 1976-1980[sửa | sửa mã nguồn]

Nhằm thực hiện mục tiêu đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội đề ra Kế hoạch 5 năm 1976-1980 và quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của Kế hoạch là xây dựng Chủ nghĩa xã hội và cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhằm hai mục tiêu cơ bản:

  • Xây dựng một bước cơ sở vật chất – kĩ thuật của Chủ nghĩa xã hội
  • Bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp và cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.

Hoạt động khác[sửa | sửa mã nguồn]

Thông qua Báo cáo chính trị. Bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 101 Ủy viên chính thức và 32 Ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành mới bầu Bộ Chính trị gồm có 14 Ủy viên chính thức và 3 Ủy viên dự khuyết. Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội cũng quyết định khôi phục lại tên cũ của Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hạn chế và khó khăn[sửa | sửa mã nguồn]

Đại hội vấp phải một số sai lầm, khuyết điểm chủ yếu do tư tưởng chủ quan, nóng vội, giáo điều, thể hiện rõ nhất qua việc đề ra phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu quá cao, không tính đến khá năng thực hiện và điều kiện cụ thể của đất nước sau thống nhất. Sai lầm trong cả chủ trương cải tạo, quản lý kinh tế, thể hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ.

Kinh tế Việt Nam mất cân đối lớn, kinh tế quốc doanh và tập thể luôn thua lỗ nặng, không phát huy tác dụng. Kinh tế tư nhân và cá thể bị ngăn cấm triệt để. Sản xuất chậm phát triển, thu nhập quốc dân, năng suất thấp, đời sống nhân dân khó khăn, xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực.

Nhận xét[sửa | sửa mã nguồn]

Ông Hoàng Văn Hoan, viết trong cuốn sách Giọt nước trong biển cả, cho là ông không những không còn được bổ dụng vào Bộ Chính trị mà còn, như một số đông người khác bị cho là thân Trung Quốc, bị loại ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Ông Hoan cho đây là do đường lối chính trị của Lê Duẩn, ông gọi là "âm mưu biến Việt Nam thành một nước bá chủ ở Đông Dương và ở Đông Nam Á", mà Lê Duẩn biết là sẽ bị sự phản đối mạnh của Trung Quốc. Ông Hoan cho đó là một chiến lược phản cách mạng. Nó phản bội mục tiêu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  • Văn kiện Đại hội IV
  • “Các kỳ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam”. VOV.VN. 4 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2023. Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của BCH TW Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nhà xuất bản Sự thật, trang 24.

Chủ Đề