Sáng kiến kinh nghiệm phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục mầm non

Skkn mầm non một số biện pháp thí nghiệm giúp trẻ hứng thú hơn trong khám phá khoa học

  • pdf
  • 25 trang
Phụ lục
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................
2 .Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu đề tài .........................................................
3. Đối tuợng nghiên cứu ................................................................................
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài ...........................................................................
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài ...................................................................
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận ................................................................................................
2. Thực trạng ...................................................................................................
2.1 Thuận Lơi - khó khăn ................................................................................
2.2 Thành Công - Hạn Chế .............................................................................
2.3 Mặt Mạnh - Mặt Yếu.................................................................................
2.4 Các Nguyên Nhân - Các Yếu Tố Tác Động .............................................
2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
3. Giải pháp, biện pháp .................................................................................
3.1 Mục tiêu cac giải pháp-biện pháp .............................................................
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp ........................................
3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp ...................................................................
3.4 Mối quan hệ giữa giải pháp và biện pháp .................................................
3.5 Kết quả khảo nghiệm ................................................................................
4. Kết quả thu được khi nghiên cứu ................................................................
III. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận………………………………………………………………
2. Kiến nghị…………………………………………………………….
1

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP THÍ NGHIỆM GIÚP TRẺ HỨNG THÚ
HƠN TRONG KHÁM PHÁ KHOA HỌC
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1.Lý do chọn đề tài:
Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu của quá trình giáo dục, giáo viên mầm
non có vị trí quan trọng trong việc đặt nền móng nhân cách của con người, làm tiền
đề cho sự phát triển lâu dài sau này. Giáo viên mầm non là người góp phần quyết
định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục mầm non. Sự hiểu biết những đặt
điểm phát triển ở trẻ giúp giáo viên mầm non có những biện pháp, phương pháp,
trò chơi giúp trẻ học tốt môn khám phá khoa học hiệu quả cho từng lứa tuổi, đồng
thời mục đích của giáo dục là nhằm phát triển ở trẻ trí thông minh, ham hiểu biết,
thích khám phá tìm tòi, có một số kỹ năng sơ đẳng cần thiết để bước vào trường
phổ thông.
Theo kết quả nghiên cứu của ngành giáo dục thì giáo dục mầm non là bậc học
quan trọng nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chính vì vậy mục tiêu của giáo
dục mầm non là hình thành những cơ sở ban đầu, nền tảng cho sự phát triển nhân
cách và tư duy cho mỗi con người. Qua đó giúp hình thành bước đầu phẩm chất
đạo đức, khuyến khích việc khám phá khoa học và làm chủ những kiến thức khoa
học công nghệ trong thời đại mới. Trẻ em là hạnh phúc của mọi gia đình, là tương
lai của cả dân tộc, việc bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ không phải chỉ là trách nhiệm
mỗi gia đình mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội.
“ Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”
Muốn ngày mai có những nhân tài, những con người có đầy đủ tri thức, hiểu
biết để làm chủ đất nước thì ngay lúc này giáo dục mầm non là điều thiết yếu cho
mỗi chúng ta, và đặc biệt trách nhiệm cao cả ấy tất cả thuộc về giáo viên mầm non.
Chính là những con người đã góp phần không nhỏ vào việc giáo dục thế hệ trẻ mai
2

sau, tạo nên nền tảng vững chắc, là chặng đường khôn lớn của trẻ. Chính vì vậy sự
nhạy cảm và có trách nhiệm cao là yêu cầu không thể thiếu trong công tác chăm
sóc giáo dục trẻ, giáo viên phải thật linh hoạt, nhạy bén, có năng lực và có tính chủ
động sáng tạo cao. Mỗi một đứa trẻ lớn lên muốn phát triển toàn diện thì phải có
những yếu tố quan trọng giúp cho sự phát triển nhân cách sau này của trẻ. Vì vậy
trẻ cần được tiếp thu toàn bộ các môn học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của
trẻ. Thông qua cac môn học giúp trẻ làm quen và tiếp xúc với thế giới xung quanh,
hình thành ở trẻ những biểu tượng, phong phú, đa dạng hơn.
Ở trường mầm non, các môn học đều hướng tới một mục tiêu giáo dục chung
đó là phát triển toàn diện nhân cách của trẻ trong đó không thể thiếu môn học:
Khám phá khoa học là một nội dung mới trong chương trình giáo dục mầm non
[ban hành tháng 7/2009] thay cho nội dung “Làm quen với Môi trường xung
quanh” [MTXQ] trong chương trình trước đó. Khám phá MTXQ là một quá trình
tiếp xúc, tìm tòi tích cực từ phía trẻ nhằm phát hiện những cái mới, những cái ẩn
dấu trong các sự vật, hiện tượng xung quanh.
Môn học này nhằm hình thành những biểu tượng đúng đắn về các sự vật hiện
tượng xung quanh, cung cấp cho trẻ những tri thức đơn giản có hệ thống về thế giới
xung quanh và giáo dục thái độ ứng xử đúng đắn với thiên nhiên, với xã hội cho
trẻ. Đồng thời môn học này góp phần giúp trẻ phát triển và hoàn thiện các quá trình
tâm lý, góp phần quan trọng trong việc giáo dục tình cảm, thẩm mỹ, đạo đức, hình
thành ở trẻ những cảm xúc tích cực và tích luỹ những tri thức, kinh nghiệm của
cuộc sống làm tiền đề cho trẻ sau này.
Thế nhưng việc thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục mầm non ngày nay
đòi hỏi sự phát huy tính sáng tạo của giáo viên và khuyến khích sự ham thich học
hỏi của trẻ đã đặt ra những yêu cầu mới đối với giáo viên mầm non trong quá trình
lựa chon và tổ chức các hoạt động khám phá khoa học cho trẻ. Nếu như chương
trình giáo dục mầm non cải cách trước đây giáo viên chủ yếu sử dụng phương pháp
trực quan và dùng lời để dạy trẻ thì trong chương trình giáo dục mầm non mới lại
3

yêu cầu giáo viên phải tăng cường sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để lôi cuốn
trẻ vào hoạt động, các phương pháp thí nghiệm, thực nghiệm để trẻ được trải
nghiệm, được khám phá khi tham gia các hoạt động khám phá khoa học. Vì vậy để
làm tốt những yêu cầu đó tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp thí nghiệm giúp trẻ
hứng thú hơn môn khám phá khoa học” làm đề tài nghiên cứu cho mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
*Mục tiêu:
Ai cũng biết, trẻ là lứa tuổi hồn nhiên và thật dễ thương, đối với trẻ mọi sự
vật đều mới mẻ, kỳ lạ và trẻ luôn muốn khám phá nó. Chúng luôn hỏi “Tại sao phải
thế này, tại sao phải thế kia” Vì thế có yêu trẻ, có hoà mình vào thế giới của trẻ thì
chúng ta mới hiểu được những gì trẻ quan tâm và cần được giúp đỡ.
Mỗi chúng ta ai cũng mong muốn mang lại những điều tốt đẹp cho các em
bằng những cách thức riêng của mình: cùng học tập, vui chơi, trò chuyện, tạo ra
những đồ dùng đồ chơi sinh động, màu sắc sặc sỡ… làm cho thế giới của trẻ thêm
phong phú. Vậy là nhu cầu tìm hiểu về thế giới xung quanh là nhu cầu vô tận và
chính đáng của trẻ. Đồng thời chúng ta cũng biết vui chơi là nhu cầu tự nhiên
không thể thiếu đối với cuộc sống của trẻ. Trẻ ở lứa tuổi mầm non rất thích tìm
hiểu, khám phá môi trường xung quanh, trẻ sẽ rất vui sướng khi được tự mình trồng
được một cái cây, hay tự mình khám phá ra những điều kỳ diệu, lý thú xung quanh
trẻ.
Bên cạnh đó hình thức tổ chức cũng rất quan trọng trong quá trình giảng dạy
trẻ, hình thức càng phong phú, hấp dẫn càng gây hứng thú thu hút trẻ, trẻ càng dễ
tiếp thu, dễ nhớ, nhẹ nhàng lĩnh hội kiến thức. Chính vì thế mục đích của đề tài này
là lựa chọn và tổ chức “Một số biện pháp thí nghiệm nhằm giúp trẻ mẫu giáo vừa
nắm được kiến thức vừa hình thành vừa rèn luyện những kỹ năng cần thiết của
môn học khám phá khoa học và phát huy tính độc lập sáng tạo của trẻ”.
*Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:

4

Để giúp trẻ học tốt môn học khám phá khoa học, trước tiên cần phải có môi
trường cho trẻ được trải nghiệm, sáng tạo, nhờ vào cơ sở vật chất và đồ dùng dạy
học, môi trường phải thật sự gần gũi, an toàn và phù hợp với trẻ. Từ đó trẻ có cơ
hội bộc lộ khả năng của mình để giáo viên hoàn thành được các phần đặt ra đúng
yêu cầu của chương trình.
Với tình hình thực tiễn hiện nay việc tổ chức các hoạt động cho trẻ mẫu giáo
khám phá khoa học của giáo viên còn nhiều vướng mắc. Trẻ tham gia vào hoạt động
khám phá khoa học chủ yếu trong giờ hoạt động chung môn khám phá khoa học và tại
hai góc là góc thiên nhiên và góc em yêu khoa học ở các lớp học
- Tạo môi trường học tập cho trẻ.
- Hướng dẫn trẻ khám phá các sự vật hiện tượng xung quanh trẻ.
- Các biện pháp, hình thức hỗ trợ.
- Các trò chơi thực nghiệm qua đó giúp trẻ phát triển toàn diện tạo cơ sở
bước đầu vững chắc cho tương lai của trẻ.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp thí nghiệm sư phạm nhằm mục đích phát triển hứng thú
cho trẻ học tốt môn khám phá khoa học
4. Giới hạn Phạm vi nghiên cứu:
Trẻ 3-5 tuổi trường mầm non Sơn ca
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp làm mẫu
- Phương pháp thực hành
- Phương pháp tham khảo các tài liệu sách báo có liên quan môi trường xung
quanh
II. NỘI DUNG:
1. Cơ sở lý luận:
5

Tâm lý học và giáo dục học đã chứng minh rằng quá trình nhận thức của trẻ
là hình ảnh “thu nhỏ” của quá trình nhận thức loài người. Cho trẻ làm quen với bộ
môn khám phá khoa học có một tầm quan trọng trong quá trình giáo dục trẻ mầm
non. Đặc biệt là trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. Vì thông qua việc dạy trẻ khám phá môi
trường xung quanh là rèn khả năng quan sát, so sánh, phân loại, khả năng chú ý tư
duy, tưởng tượng. Khám phá môi trường xung quanh nhằm củng cố hoá kiến thức,
góp phần hình thành những biểu tượng đúng đắn về các sự vật hiện tượng xung
quanh, cung cấp cho trẻ những tri thức đơn giản có hệ thống về thế giới xung
quanh. Mở rộng vốn hiểu biết từ về thế giới xung quanh và qua đó làm giàu vốn từ
cho trẻ. Trẻ nhận biết phân biệt, phát âm đúng chuẩn, đồng thời phát triển ngôn
ngữ, diễn đạt rõ ràng mạch lạc.
Bên cạnh đó việc cho trẻ khám phá thế giới xung quanh góp phần giúp trẻ
phát triển và hoàn thiện các quá trình tâm lý, nhận thức đặc biệt là cảm giác, tri
giác, tư duy, ngôn ngữ và chú ý. Đồng thời nó góp phần quan trọng trong việc giáo
dục tình cảm, thẫm mỹ, đạo đức cho trẻ, hình thành ở trẻ những cảm xúc tích cực
và tích luỹ những tri thức những kinh nghiệm của cuộc sống, làm cơ sở để trẻ dễ
dàng lĩnh hội nội dung giáo dục của các hoạt động vui chơi, học tập, lao động…
làm tiền đề giúp trẻ học tốt các môn học khác như: Văn học, toán, âm nhạc, tạo
hình… chuẩn bị tâm lý cho trẻ vào lớp 1 phổ thông.
2. Thực trạng:
Trong những năm gần đây việc cho trẻ khám phá khoa học đã có những đổi
mới đáng khích lệ. Nhiều trường mầm non đã mạnh dạn lựa chọn những đề tài, nội
dung khám phá rất mới so với những đề tài quen thuộc trước đây. Đã có sự chú
trọng nhất định trong việc tổ chức hoạt động trải nghiệm cho trẻ. Tuy vậy trong quá
trình khám phá khoa học vẫn còn có những hạn chế, thể hiện rõ nhất là việc ôm
đồm quá nhiều nội dung khám phá trong một hình thức tổ chức. Điều này làm cho
các hoạt động khám phá trở nên nặng nề, quá tải, trẻ không được tham gia những
6

trải nghiệm phù hợp với khả năng, vì vậy không có cơ hội phát triển ở trẻ các kỹ
năng nhận thức, khám phá. Quy trình khám phá mỗi nội dung thường chỉ bắt đầu
bằng câu hỏi của cô và câu trả lời của trẻ, hoặc chính cô lại là người nói, trẻ chỉ
nghe một cách thụ động. Để khắc phục những hạn chế nêu trên, mỗi nội dung của
khám phá khoa học được tiến hành khám phá như thế nào? Thì nội dung nghiên
cứu trong đề tài này sẽ là minh chứng cho những biện pháp khắc phục nhược điểm
của việc giúp trẻ khám phá khoa học.
Trong quá trình làm việc chăm sóc giáo dục trẻ tại lớp và nhìn chung vào
thực tế khi làm việc bản thân tôi cũng thấy được một số thuận lợi và khó khăn nhất
định:
2.1. Thuận lợi và khó khăn
* Thuận lợi
- Được sự quan tâm của Phòng GD&ĐT, sự chỉ đạo kịp thời của nhà trường,
thường xuyên quan tâm bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên.
- Nhà trường luôn nâng cao chất lượng cơ sở vật chất lên hàng đầu vì đây là
một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của nhà trường
đạt hiệu quả cao.
- Trường có đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi, tivi, máy
tính… phục vụ giảng dạy.
- Nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên được tập huấn chuyên môn
- Ban giám hiệu luôn sát sao chỉ đạo giáo viên về chuyên môn, thường xuyên
dự giờ thăm lớp để nâng cao chất lượng giảng dạy.
- Các chương trình truyền thông, internet vô cùng phong phú tạo diều kiện
cho giáo viên tìm tòi sưu tầm

7

- Bản thân luôn yêu nghề mến trẻ, ham học hỏi nâng cao chuyên môn. Tìm
tòi và tự làm một số đồ dùng, đồ chơi để phục vụ tiết dạy vào hoạt động vui chơi
của trẻ.
- Trẻ chăm ngoan, có nề nếp và hứng thú, ham học hỏi
- Đồng nghiệp trong trường luôn chia sẻ lẫn nhau về cách thức chăm sóc
giáo dục trẻ
- Trường tạo môi trường cho trẻ được hòa mình với thiên nhiên thông qua
các trò chơi…
* Khó Khăn:
- Lớp có một số trẻ cá biệt trong việc cho trẻ quan sát, tìm hiểu các đối tượng
[ chưa tập trung chú ý].
- Một số phụ huynh chỉ coi trọng đến các môn làm quen chữ cái và chữ viết,
làm quen với toán không chú trọng đến môn học này.
- Đồ dùng chỉ có tranh nên việc quan sát, khám phá chưa phát huy hết các
giác quan của trẻ.
- Kinh phí mua vật thật cho trẻ hoạt động chưa có.
Tuy có những thuận lợi và khó khăn nhất định nhưng bản thân tôi đã xác
định môn học khám phá khoa học cũng có tầm quan trọng như những môn học
khác đặc biệt là trẻ 3-5 tuổi, đòi hỏi trẻ phải thật sự tư duy, có trí nhớ, có một số
vốn ngôn ngữ giao tiếp tốt và bộ máy phát âm phải phát triển hoàn thiện. Sau khi
nghiên cứu đề tài này, tôi bắt đầu tự lên kế hoạch, tìm hiểu tài liệu cộng với vốn
kinh nghiệm nhiều năm dạy lớp 5 tuổi. Từ đó tôi đã tìm ra và áp dụng cho mình
một số biện pháp hổ trợ cho trẻ khám phá khoa học nên hầu hết các tiết dạy của tôi
đều thành công và đặc biệt là trẻ hứng thú, tích cực tham gia vào hoạt động này.
Trong quá trình áp dụng bản thân tôi đã gặt hái được một số thành công sau:
2.2. Thành công và hạn Chế
8

* Thành công:
- Giờ học lôi cuốn trẻ, tạo được hứng thú và gây được sự tập trung chú ý cao
nhất ở trẻ.
- Nội dung truyền đạt hấp dẫn và phong phú sinh động hơn, những hình ảnh
tưởng chừng như rất trừu tượng trẻ chưa được nhìn thấy bao giờ nay trở nên gần
gũi và giúp trẻ khắc sâu ghi nhớ.
- Trẻ tích cực hứng thú tham gia học tập, hăng say phát huy tính tích cực chủ
động tham gia vào các hoạt động.
* Hạn Chế:
- Một số đề tài còn khó có thể thực hiện được: cho trẻ đi thực tế tìm hiểu về
nghề truyền thống hoặc đi tham quan sở thú tìm hiểu về các con vật thật…
- Mất nhiều thời gian để chuẩn bị
- Vốn hiểu biết về môi trường thiên nhiên cũng như xã hội của trẻ còn hạn
chế.
2.3. Mặt mạnh - mặt yếu
* Mặt Mạnh:
- Khám phá khoa học trong giáo dục mầm non tạo ra một môi trường dạy học
tương tác cao, sống động, hứng thú và đạt hiệu quả cao của quá trình dạy học đa
giác quan cho trẻ.
- Nội dung, tư liệu bài giảng giới thiệu cho trẻ mang tính chân thực, phong
phú. Qua khám phá khoa học trẻ có thể làm quen với những hiện tượng tự nhiên,
hiện tượng xã hội xảy ra xung quanh trẻ.
*Mặt yếu:

-

Để có thể cho trẻ được trải nghiệm các hoạt động với môi trường thiên

nhiên, hay môi trường xã hội thì không phải trường nào cũng có điều kiện để thực
hiện được vì mỗi trường có những điều kiện về mặt bằng, cơ sở vật chất khác nhau.
- Từ những thực trạng nêu trên, bên cạnh những thành công và hạn chế,
những mặt mạnh và mặt yếu mà bộ môn khám phá khoa học mang lại thì lòng yêu
9

trẻ, yêu nghề luôn thôi thúc tôi hãy làm một điều gì đó để góp phần nhỏ bé của
mình vào công việc “trồng người” của đất nước.
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
- Tạo được sự thu hút, sự ham thích học hỏi, kích thích trẻ tìm tòi, khám phá,
trải nghiệm trong học tập, vui chơi, và trong cuộc sống.
- Thu hút và tạo được sự quan tâm trong quá trình học tập, vui chơi của phụ
huynh đối với trẻ.
2.5. Phân tích đánh giá các vấn đề thực trạng mà đề tài đã đặt ra:
- Đối với trẻ mầm non, kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu
là một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự
khát khao được học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để
khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Thông qua các trò chơi, đòi hỏi trẻ phải sử
dụng tích cực các giác quan chính vì vậy sẽ phát triển ở trẻ năng lực quan sát, khả
năng phân tích so sánh, tổng hợp nhờ vậy khả năng cảm nhận của trẻ nhanh nhạy,
chính xác, những biểu tượng, kết quả trẻ thu nhận được trở nên cụ thể, sinh động và
hấp dẫn hơn. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, khi trẻ được trải nghiệm hoặc các
hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là
những thứ có thể đoán trước được, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy tiềm
năng sáng tạo ở mỗi trẻ
Muốn trẻ học tốt môn khám phá khoa học trước hết giáo viên luôn xác định:
Mỗi trẻ là một thành viên cần được chăm sóc, bồi dưỡng và lượng kiến thức mỗi trẻ
cần đuợc giáo viên truyền đạt khác nhau và luôn yêu nghề, yêu trẻ, có yêu trẻ thì
mới thôi thúc sáng tạo và dồn hết tâm lực để đầu tư vào làm việc và tu bổ chuyên
môn sao cho nghiệp vụ vững vàng. Lựa chọn những phương pháp, biện pháp tối ưu
nhất để vận dụng vào tiết học giúp trẻ hiểu được sâu hơn, học hứng thú hơn.
Qua quá trình cho trẻ được trải nghiệm khám phá khoa học tôi nhận thấy
rằng: Việc lựa chọn và tổ chức các trò chơi thực nghiệm cho trẻ mẫu giáo khám
phá khoa học là rất cần thiết bởi các lý do sau:
10

- Các trò chơi được thiết kế rất dễ thực hiện, việc chuẩn bị dụng cụ đơn giản, ít
tốn kém, đảm bảo vệ sinh an toàn cho trẻ.
- Các trò chơi này có tính mở, hấp dẫn, kích thích được sự tìm tòi khám phá
của trẻ, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, các thao tác tư duy như: so sánh, phân tích tổng hợp, óc phán doán và khả năng suy luận của trẻ cũng được phát triển. Qua các
hoạt động này trẻ được trải nghiệm và tự phát hiện ra các đặc điểm, mối quan hệ
giữa các sự vật hiện tượng xung quanh, tiếp thu các kiến thức khoa học dễ dàng
hơn.
- Chính vì vậy mà giáo viên luôn xác định lấy trẻ làm trung tâm, làm kim chỉ
nam trong công tác của mình, luôn luôn cố gắng tìm tòi, nghiên cứu để tạo ra nhiều
bài thực tập hay để phục vụ tốt cho công tác phục vụ chăm sóc giáo dục trẻ.
3. Giải pháp, biện pháp:
3.1. Mục tiêu của giải pháp và biện pháp
- Nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, giúp trẻ lĩnh hội tri thức
một cách trọn vẹn nhất.
- Nhằm cung cấp kiến thức một cách chính xác giúp trẻ hứng thú trong học
tập đồng thời phát triển toàn diện về thể chất cũng như trí tuệ cho trẻ.
- Nhằm góp phần tạo nên những chủ nhân tương lai của đất nước có đầy đủ
phẩm chất, nhân cách, tri thức con người mới xã hội chủ nghĩa.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
Hiểu và nắm bắt được những giá trị mà bộ môn khám phá khoa học mang
lại, tôi đã mạnh dạn đưa một số kiến thức, áp dụng một số biện pháp, phương pháp,
trò chơi giúp trẻ khám phá khoa học vào việc tổ chức các hoạt động khám phá khoa
học cho trẻ từ 3 - 5 tuổi tại trường Mầm Non Sơn Ca
Sau đây là một số biện pháp, phương pháp, trò chơi giúp trẻ khám phá khoa
học mà tôi đã sử dụng trong quá trình công tác và giảng dạy của mình trong những
năm học vừa qua:
11

* Biện pháp thực hiện:
Sau khi xác định được mục đích và yêu cầu cần đạt tôi đã tiến hành giải
quyết các nhiệm vụ từng bước như sau:
1. Làm sao để tạo được môi trường tốt cho trẻ hoạt động? Như chúng ta
đã biết muốn trẻ học tốt một vấn đề nào đó thì trước hết cần phải có môi trường cho
trẻ hoạt động, khám phá, tìm tòi và trải nghiệm. Môi trường cho trẻ hoạt động là
nơi có các nguồn thông tin phong phú, khuyến khích tính độc lập và hoạt động tích
cực cho trẻ.
Vì thế tôi đã tạo môi trường cho trẻ bằng cách: Sắp xếp các giá kệ đồ chơi
gọn gàng, an toàn, hợp lý như các góc chơi tĩnh đi với nhau, các góc chơi động đi
với nhau. Đảm bảo đủ khoảng cách cho trẻ hoạt động. Đặt tên các góc đơn giản và
dễ nhớ như góc bán hàng đặt tên là “Siêu thị mini” hay như góc gia đình lấy tên là
“Tổ ấm”… Bên cạnh đó ở các góc chơi tôi sắp xếp đồ dùng đồ chơi vừa tầm với trẻ
cho trẻ dễ thấy, dễ lấy và dễ lựa chọn. Tôi đã vận dụng các nguyên vật liệu rẻ tiền,
có sẵn, gần gũi với trẻ hay các đồ phế thải để làm đồ chơi cho trẻ như: Hộp sữa cắt
ra làm thuyền, các lon nước ngọt, lon bia làm nhạc cụ âm nhạc, vải vụn làm thảm
cỏ, thùng cát tông làm ngôi nhà, hàng rào… và để trẻ được trải nghiệm với những
đồ chơi đó giúp trẻ thoả mãn được nhu cầu thích khám phá, tìm tòi. Đồng thời tôi
trang trí các góc một cách linh hoạt, hấp dẫn và thay đổi theo nội dung chủ điểm.
Với góc thiên nhiên vì cây cối phát triển cần có ánh sáng và nước, do điều
kiện lớp học không cho phép tôi đã tận dụng khung cửa sổ để làm góc thiên nhiên
bằng cách lựa chọn những loại cây dễ trồng, dễ sống trong nhà như: cây trầu bà,
sống đời, phát tài… bỏ vào trong những lon nước ngọt, nước khoáng đã qua sử
dụng và treo lên cửa sổ. Dạy trẻ hàng ngày tưới nước cho cây, chăm sóc cây và
quan sát cây phát triển như thế nào?
2. Hướng dẫn trẻ khám phá khoa học.
Khả năng nhận thức của trẻ phát triển thông qua việc tiếp xúc tìm hiểu, khám
phá quan tâm đến môi trường xung quanh. Điều đó tạo nên sự tò mò, ham hiểu biết
12

tự nhiên của trẻ. Thông qua những câu hỏi về môi trường xung quanh trẻ lĩnh hội
được những kỹ năng tư duy, quan sát, so sánh, phân loại, dự đoán… Từ đó hình
thành các khái niệm và biết cách giải quyết vấn đề. Với nhiệm vụ này đòi hỏi giáo
viên phải hiểu được nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, biết được trẻ khám phá
môi trường xung quanh bằng cách nào? Bằng kinh nghiệm sống, bằng các giác
quan, bằng sự tư duy độc lập của mình hay bằng sự khai thác gợi mở của giáo viên.
Và đặc biệt giáo viên phải nắm được phương pháp bộ môn như: Phương pháp quan
sát, đàm thoại, luyên tập trò chơi và làm thí nghiệm hay mô hình.
Trước khi cho trẻ tìm hiểu một sự vật hiện tượng nào đó tôi xác định
- Nội dung đề tài là gì?
- Mục đích yêu cầu của đề tài.
- Với đề tài này cần phải chuẩn bị những gì?
- Sử dụng phương pháp, biện pháp nào phù hợp để tiến hành.
Chẳng hạn với đề tài “Một số loại quả” để chuẩn bị tốt cho tiết học này,
trước đó và mỗi lần ăn tráng miệng sau mỗi bữa ăn tôi cho trẻ quan sát loại quả đó,
cho trẻ cầm nắm, tìm hiểu về màu sắc, hình dáng, dặn trẻ chú ý khi bổ ra bên trong
có gì? Ăn vào thấy có mùi vị như thế nào?... Sưu tầm những hình ảnh về các loại
quả có trong sách báo, tranh ảnh, tạp chí… Để vào tiết học tôi có thể khai thác ở trẻ
những kinh nghiệm sống nhiều hơn giúp trẻ hoạt động tích cực hơn.
Trước khi cho trẻ tìm hiểu về một sự vật nào đó tôi luôn cho trẻ quan sát,
khảo sát, tìm hiểu kỹ sự vật đó.
Ví dụ: Quan sát lòng trắng trứng lúc chưa chín và khi đã chín để trẻ có thể
thấy được sự đổi màu của chúng. Tiếp đến đặt ra những câu hỏi để giúp trẻ nắm
vững và có khái niệm về chúng một cách chính xác, rõ ràng. Chẳng hạn với đề tài
“Một số loại quả” thường thì các cháu được ăn thường xuyên các loại quả. Đầu tiên
tôi cho trẻ chơi trò chơi “Chiếc túi kỳ lạ” trẻ được khảo sát nhận biết sự vật qua các
giác quan và bằng kinh nghiệm sống của mình. Tiếp đến để giúp trẻ phát triển tư
duy, ngôn ngữ… tôi đặt ra những câu hỏi kích thích tư duy, kinh nghiệm sống của
13

trẻ: Con ăn thấy có vị gì? Quả có hình dáng như thế nào? Vỏ nhẵn hay sần sùi?
Chúng giống và khác nhau ở những điểm nào? Con hãy chia các loại quả này thành
2 nhóm theo đặc điểm riêng của chúng về hình dáng, màu sắc, mùi vị…
Để củng cố lại những kiến thức đã học tôi cho trẻ chơi các trò chơi vận động
sôi nổi, hoặc những trò chơi mang tính tập thể cao tập cho trẻ biết cách làm việc
theo nhóm hay cho trẻ làm thí nghiệm đối với các đề tài như:
- “Sự phát triển của cây từ hạt” tôi cho trẻ làm thí nghiệm bằng cách gieo hạt
đậu xanh vào đất hoặc bông gòn tẩm nước hàng ngày cho trẻ tưới nước và quan sát
hạt nảy mầm như thế nào?
- “Cây xanh và môi trường sống” cho trẻ làm thí nghiệm để biết được ánh
sáng đối với cây xanh quan trọng như thế nào. Bằng cách cho trẻ quan sát 2 cây
giống nhau, 1 cây được để ngoài trời có ánh sáng và nước đầy đủ còn 1 cây chỉ
được tưới nước nhưng không có ánh sáng từ đó đặt câu hỏi để trẻ rút ra kết luận.
3. Một phần quan trọng không kém nữa trong việc hướng dẫn trẻ khám
phá khoa học đó là các hình thức tổ chức và biện pháp hổ trợ.
* Hình thức tổ chức:
Không những tôi hướng dẫn trẻ khám phá khoa học qua các đề tài trên tiết
học mà tôi còn hướng dẫn trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Chẳng hạn: Khi cho trẻ đi dạo
tham quan trên đường đi kết hợp cho trẻ quan sát phương tiện giao thông, nhận xét
xem các phương tiện đó di chuyển như thế nào? Người đi bộ đi ở đâu? Khi qua
đường phải làm sao?... hay có thể là khi xử lý tình huống.
Ví dụ: khi tìm hiểu về các loại hạt, tôi dặn mỗi cháu mang một loại hạt lên
lớp để làm thí nghiệm về sự phát triển của cây, có trẻ mang hạt đậu xanh, có trẻ
mang hạt đậu nành, đậu đen… nhưng có 1 trẻ mang hạt me. Khi ủ đất và tưới nước
sau một thời gian tất cả các hạt của trẻ khác đều nảy mầm riêng trẻ gieo hạt me
không nảy mầm. Vì hạt me muốn nảy mầm phải được ủ trong môi trường đất ấm và
độ ẩm cao đòi hỏi thời gian lâu. Trẻ đó rất buồn và hỏi tôi vì sao lại thế nhỉ? Đây là
một tình huống khó xử cho tôi, với kiến thức còn hạn chế của mình tôi đã không có
14

lời giải đáp rõ ràng, điều này làm tối trăn trở và cố gắng hết sức tìm ra lời giải đáp
cho trẻ. Và thật là may mắn với thời đại công nghệ hiện nay tôi đã tìm ra được lời
giải đáp cho trẻ bằng cách tìm ra những đĩa hình sống động nói về sự phát triển của
cây me cho trẻ xem. Trẻ rất vui vì đựoc thoả mãn sự tìm tòi, khám phá thế giới
xung quanh, còn tôi cũng rất thoải mái và hạnh phúc vì đã giúp ích được cho trẻ.
Đó là một trong những biện pháp đã giúp ích cho tôi rất nhiều trong quá trình giảng
dạy. Điều đó cho ta thấy được rằng các biện pháp hổ trợ vô cùng quan trọng và có
ích trong việc dạy trẻ. Sau đây tôi cũng xin trình bày một vài biện pháp mà tôi đã
vận dụng trong quá trình giảng dạy trẻ, giúp trẻ hứng thú hơn và học tốt và môn
học khám phá khoa học.
* Biện pháp hổ trợ:
- Biện pháp sử dụng vật thật: Đối với trẻ mẫu giáo tư duy của trẻ là tư duy
hình tượng không thể dạy trẻ về một sự vật, một con vật hay đồ vậy nào đó khi chỉ nói
suông mà không đưa ra một hình ảnh nào để trẻ trực quan thì không thể được. Nhưng
nếu chỉ sử dụng tranh đơn thuần cho các tiết học thì cũng không mang lại kết quả cao.
Vì thế đối với trẻ phải sử dụng vật thật cho trẻ quan sát.
Ví dụ: Với đề tài “Một số động vật sống dưới nước” tôi sử dụng con cá thật
để trẻ có thể quan sát được rõ ràng chính xác con cá bơi như thế nào? Bơi được nhờ
cái gì? Môi trường sống của nó là ở đâu?... Với con cua trẻ quan sát được cấu tạo
đặc trưng là có 8 chân, 2 cái càng, biết được đặc tính nổi bật của con cua là bò
ngang…
- Biện pháp sử dụng câu đố: Câu đố chiếm một vai trò quan trọng trong
công tác phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Sử dụng câu đố trong giờ học không chỉ nhằm
củng cố kiến thức trẻ về sự vật hiện tượng của thế giới xung quanh, phát triển ngôn
từ mà còn giúp trẻ hiểu được ngôn ngữ, hình ảnh của đồ vật. Mỗi câu đố là một bức
tranh sinh động về thế giới xung quanh. Để có thể giải đáp được câu đố trẻ cần phải
nắm được đặc điểm của đối tượng, biết so sánh, đối chiếu. Nhìn thấy được cái
chung giữa hai đối tượng được nói đến và biết vận dụng kinh nghiệm sống của
15

mình. Tôi thường sử dụng câu đố vào đầu tiết học nhằm kích thích trẻ sự hứng thú
tìm tòi, học hỏi cái mới và sử dụng câu đố vào cuối giờ học nhằm củng cố kiến
thức vừa học. Chẳng hạn để dẫn dắt trẻ tìm hiểu quả dưa hấu tôi đọc câu đố:
“Quả gì ruột đỏ vỏ xanh.
Hạt đen nhanh nhánh, ăn vào rất ngon?”
Hay với quả na:
“Quả gì nhiều mắt
Khi chín nứt ra
Ruột trắng nõn nà
Hạt đen lay láy?”
Với con gà trống:
“Con gì mào đỏ
Gáy ò ó o
Mỗi sáng tinh mơ
Gọi người thức dậy?”
- Biện pháp làm thí nghiệm, mô hình. Đây là một trong những biện pháp
mà giúp trẻ hứng thú học sinh động nhất. Với biện pháp này trẻ được trải nghiệm,
thực hành làm và quan sát, theo dõi sau đó tự rút ra kết luận.
Với đề tài “Mưa” tôi cho trẻ làm thí nghiệm bằng cách tôi cho nước sôi vào
lọ thuỷ tinh sau đó dùng tấm kính đậy lại. Trẻ sẽ được quan sát sự bốc hơi của nước
lên mặt kính, đọng thành giọt và tạo ra mưa. Trẻ hiểu được và biết được vì sao có
mưa? Một cách giải thích mà lời nói hay tranh ảnh không đáp ứng được.
- Biện pháp sử dụng công nghệ thông tin: Một biện pháp đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong việc giúp trẻ khám phá khoa học, đã giúp tôi rất nhiều trong
quá trình hướng dẫn trẻ giúp trẻ hứng thú tập trung chú ý trong giờ học khơi gợi
khả năng tư duy lôgic cho trẻ, giải quyết được nhiều tình huống khó cho giáo viên.
Ví dụ với những đề tài giải thích sự vật hiện tượng thiên nhiên như gió, mây
và mưa. Với đề tài “Gió” để giúp trẻ cảm nhận và thấy đựơc một cách sống động,
16

rõ ràng, chính xác tôi lựa chọn những hình ảnh về gió: Gió nhẹ cây lá lao xao, gió
mạnh, gió bão… Cho trẻ xem và nghe tiếng gió thổi. Qua đó trẻ có thể cảm nhận và
biết được gió có ích như thế nào đối với môi trường, gió nhẹ thì cây cối chuyển
động như thế nào? Gió mạnh thì sự vật chuyển động ra sao? Tác hại của gió…
Từ những hình thức, phương pháp, biện pháp trên tôi đã xây dưng một tiết
học đạt kết quả cao được tiến hành cụ thể như sau:
Đề tài: Mưa
*Hoạt động 1: Bé biết gì về mưa
Cô cũng trẻ vận động đọc thơ về mưa
“Ông trời bỗng hắt xì hơi
Lộp đa lộp độp mưa rơi đầu mùa
Xoè tay bé hứng giọt mưa
Mát từ da thịt mát đưa vào lòng”
Trò chuyện với trẻ về mưa:
Con biết gì về trời mưa, kể cho cô và các bạn cùng nghe
Khi trời mưa có hiện tượng gì xảy ra? [Mây đen, gió, sấm chớp, mưa
có nước]
Cô cùng trẻ tiếp tực trò chuyện về mưa qua hình ảnh trên tivi [Sấm, chớp,
mưa, quang cảnh trước và sau khi mưa, âm thanh…]
* Hoạt động 2: Bé tìm hiểu về mưa.
- Tranh các loại mưa phùn, mưa rào, mưa đá, mưa bão
- Đặc điểm các loại mưa giống và khác nhau ở điểm nào?
- Ngôi trong nhà nghe tiếng mưa rơi như thế nào?
- Trước khi mưa có sét, sấm chớp. Vậy làm thế nào để tránh sét đánh được?
- Khi sấm sét xảy ra mọi vật xung quanh như thế nào?
- Khi mưa xuống nhìn ra sân thấy có hiện tượng gì xảy ra?
- Có nên chơi ngoài mưa không? Vì sao?
- Mưa có ích lợi gì đối với đời sống con người?
17

* Hoạt động 3: Thí nghiệm “Mưa từ đâu có”
Đổ nước sôi vào bình thuỷ tinh đậy nắp kính sẽ thấy hiện tượng gì xảy ra? Vì
sao? Cô cùng trẻ thảo luận rút ra kết luận nguyên nhân và hiện tượng mưa.
Hát bài “Cho tôi đi làm mưa với”
* Hoạt động 4: Thử trí thông minh của bé
- Trò chơi 1: “Sắp xếp thứ tự hiện tượng mưa qua ảnh” mời 2 đội chơi thi đua,
sau lần chơi cô cũng trẻ kiểm tra.
- Trò chơi 2: “Lắp ghép hình ảnh” về hiện tượng quá trình mưa cho 4 đội chơi
Kết thúc: Mô phỏng quá trình mưa
Song song với việc cho trẻ làm quen môi trường xung quanh chúng ta lồng
vào giáo dục trẻ biết bảo vệ môi trường sống của chính mình qua các việc làm đơn
giản phù hợp với trẻ. Tôi đã dạy trẻ biết sắp xếp, lau chùi đồ chơi gọn gàng, sạch
sẽ, lấy cất đúng nơi quy định. Dạy trẻ biết chăm sóc, tưới nước, lau lá cho cây
những khi chơi hoạt động góc, cho trẻ cùng cô làm vệ sinh lớp học… Trong các tiết
học tôi đã lồng ghép giáo dục trẻ về môi trường sống như với đề tài “Một số loại
quả” tôi đưa vào dạy trẻ cách ăn chuối bóc vỏ như thế nào để đảm bảo vệ sinh, khi
ăn đu đủ phải làm gì? Hay phải rửa kỹ trái cây dưới vòi nước sạch để tránh ngộ độc
thực phẩm… Với đề tài “Động vật sống dưới nước” lồng vào giáo dục trẻ biết bảo
vệ môi trường nước như không xả rác xuống ao hồ, sông suối làm ô nhiễm nguồn
nước, dạy trẻ không được chơi gần ao hồ tránh xảy ra tai nạn.
Và dạy trẻ biết cách bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ của bản thân bằng cách giữ gìn
vệ sinh thân thể, vệ sinh cá nhân, chăm sóc đầu tóc, mặt, mũi gọn gàng, sạch sẽ.
Tôi dạy trẻ biết đánh răng, rửa mặt đúng cách. Biết yêu thương chăm sóc vật nuôi.
Sử dụng, tận dụng những nguyên vật liệu thiên nhiên và phế liệu làm đồ dùng, đồ
chơi: Làm con trâu từ chiếc lá, làm thuyền từ bẹ chuối, hay làm xe ôtô từ hộp
thuốc…
Bên cạnh đó tôi còn tổ chức lồng ghép đưa các trò chơi thực nghiệm vào các
hoạt động để giúp trẻ hứng thú, tích cực hơn với môn học và dưới đây là một số trò
18

chơi thực nghiệm giúp trẻ khám phá khoa học mà tôi đã sử dụng cho trẻ làm thí
nghiệm với các cháu lứa tuổi 4-5 tuổi và 5-6 tuổi
* Một số thí nghiệm giúp trẻ mẫu giáo khám phá khoa học:
- Dạy trẻ về không khí
- Trứng chìm trứng nổi
- Sự bay hơi của nước
- Đổi màu…
Mục đích: Tạo cho trẻ tính ham hiểu biết, kích thích tính tò mò ở trẻ.
- Sự hứng thú, tò mò, thích khám phá các sự vật hiện tượng xung quanh.
- Hình thành cho trẻ 1 số kỹ năng, thao tác thử nghiệm trong góc khoa học.
- Trẻ ngày càng có kỹ năng quan sát tốt, biết suy đoán, phán đoán nhằm tìm
ra một kết quả chính xác.
- Không chỉ khám phá trong góc khoa học hoặc trong các hoạt động khoa
học mà cháu còn khám phá, áp dụng và phát hiện được rất nhiều điều qua các môn
học khác.
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp:
- Về cơ sở vật chất, trang thiết bị…
- Giáo viên phải rất linh hoạt và nhạy bén kịp thời, có năng lực và có tính
chủ động sáng tạo, đầu tư chuyên môn, yêu nghề, mến trẻ, có nhiệt huyết trong
công việc
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp và biện pháp
Giải pháp và biện pháp luôn có mối quan hệ chặt chẽ và đi đôi với nhau đề
ra giải pháp thì phải thực hiện các biện pháp đó như thế nào để đạt hiệu quả
3.5. Kết quả khảo nghiệm giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Với việc nghiên cứu đề tài này trong quá trình thực hiện tôi thấy mình được
nâng cao hơn về chuyên môn, phương pháp, đặc biệt là hình thức dạy trẻ linh hoạt,
tự tin và sáng tạo hơn.

19

Đối với bản thân: tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm trong việc lựa chọn
các trò chơi, các hình thức phong phú và đặc biệt tạo cho trẻ các tình huống hấp
dẫn, lôi cuốn trẻ vào hoạt động tích cực, có hiệu quả mà không thấy nhàm chán khi
tham gia vào các hoạt động.
Đối với trẻ: Trẻ chủ động tham gia vào các hoạt động khám phá, điều đáng
nói ở đây trẻ thường xuyên thảo luận cùng nhau, đưa các câu hỏi đố nhau khi bắt
gặp một hiện tượng lạ và một đối tượng nào đó và đặc biệt hỏi cô vì sao lại như
vậy hả cô...
Trẻ hoàn toàn chủ động trong các buổi thực hành và là một thành viên tuyên
truyền đến gia đình trong việc ăn uống hợp vệ sinh và thực hiện tốt luật an toàn
giao thông.
Trẻ có thái độ đúng đắn với môi trường sống xung quanh trẻ, có lòng mong
muốn tạo ra cái đẹp và bảo vệ môi trường sống xung quanh trẻ.
Điều này đã mang lại cho trẻ sức hấp dẫn mới lạ, làm trẻ hứng thú nhiều, tiếp
thu được bài học tốt nhanh. Trẻ tích cực hoạt động hơn không còn nói chuyện trong
giờ học, cũng như kích thích được tư duy trẻ phát triển.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu:
Sau khi áp dụng, thực hiện các bước trên cho trẻ làm quen với môi trường
xung quanh đạt kết quả cao mà tôi đã thực hiện ở lớp, và thực hiện trong năm học.
Tôi đánh giá lại kết quả trẻ được tiếp thu được gì? Thể hiện qua mỗi lần khảo sát
cuối chủ đề. Sau đó đề ra kế hoạch cho bài mới, chủ đề mới và tôi đã thu được kết
quả tốt từ đầu năm học tới nay như sau:
Các cháu được mở rộng vốn hiểu biết về thế giới xung quanh, được trãi
nghiệm những kinh nghiệm sống của mình qua các trò chơi hay khi làm thí nghiệm,
xây dựng mô hình, biết sửa đổi những cái đúng, sai mà trẻ lĩnh hội trong cuộc sống
qua sự hướng dẫn của cô. Phát triển được óc quan sát, so sánh, phân loại, tư duy

20

Tải về bản full

Giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục mầm non [dùng cho hệ đào tạo từ xa – ngành GD mầm non] phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [305.11 KB, 36 trang ]

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PGS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Trinh

GIÁO TRÌNH

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA
HỌC GIÁO DỤC MẦM NON
[Dùng cho hệ đào tạo từ xa – ngành GD Mầm non]

Vinh 2011
1


2


Lời nói đầu
Cuốn "Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục mầm non" viết về vấn đề
phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục cho trẻ
từ 0-6 tuổi.
Trong cuốn sách này tác giả trình bày những vấn đề mang tính hệ thống về
nghiên cứu khoa học, các vấn đề phương pháp luận và các phương pháp nghiên
cứu, các bước tiến hành một công trình nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực giáo
dục mầm non. Ngoài ra, trong cuốn sách còn có phần phụ lục nhằm hướng dẫn cho
sinh viên các lựa chọn đề tài nghiên cứu và thực thi đề tài nghiên cứu khoa học
trong lĩnh vực giáo dục mầm non.
Cuốn sách bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung về nghiên cứu khoa học
- Chương 2: Các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục mầm non
- Chương 3: Các bước tiến hành một công trình nghiên cứu khoa học giáo
dục mầm non.


Cuốn "Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục mầm non" là giáo trình
dùng cho sinh viên các trường Đại học sư phạm, ngành Giáo dục mầm non, hệ đào
tạo từ xa, đồng thời là cuốn sách cần cho những ai quan tâm mong muốn tìm hiểu,
nghiên cứu khám phá các vấn đề về giáo dục trẻ em.
Cuốn sách viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các độc giả để hoàn thiện thêm.

Tác giả

3


Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1. Về nghiên cứu khoa học.
1.1. Khái niệm và các đặc điểm của nghiên cứu khoa học
a] Khái niệm:
Nghiên cứu khoa học là sự tìm tòi, khám phá bản chất các sự vật và sáng tạo
các giải pháp tác động trở lại sự vật, biến đổi chúng theo mục đích sử dụng. Nói
cho cùng nghiên cứu khoa học là một hoạt động xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu
nhận thức và cải tạo thế giới.
b] Các đặc điểm của nghiên cứu khoa học:
Đặc điểm chung nhất của nghiên cứu khoa học là sự tìm tòi những sự vật mà
khoa học chưa hề biết đến. Đặc điểm này dẫn đến hàng loạt các đặc điểm khác
nhau của nghiên cứu khoa học như sau:
- Tính mới:
Vì nghiên cứu khoa học là quá trình thâm nhập thế giới của những sự vật,
hiện tượng mà khoa học chưa biết, cho nên đó là quá trình hướng tới những phát
hiện mới hoặc sáng tạo mới. Trong nghiên cứu khoa học không có sự lặp lại như cũ
những phát hiện, những nghiên cứu đã qua. Vì vậy, tính mới là thuộc tính quan

trọng số một của lao động khoa học.
- Tính tin cậy:
Một kết quả nghiên cứu đạt được nhờ một phương pháp nào đó phải có khả
năng kiểm chứng nhiều lần trong những điều kiện quan sát hoặc thí nghiệm hoàn
toàn giống nhau, và với những kết quả thu được hoàn toàn giống nhau. Một kết quả
thu được ngẫu nhiên dù phù hợp với giả thuyết đã đặt ra trước đó cũng chưa thể
xem là đủ tin cậy để kết luận về bản chất của sự vật hoặc hiện tượng.

4


Điều này dẫn đến một nguyên tắc mang tính phương pháp luận của nghiên
cứu khoa học, là khi trình bày một kết quả nghiên cứu cần chỉ rõ những điều kiện,
các nhân tố và phương tiện thực hiện [nếu có].
- Tính thông tin:
Sản phẩm của nghiên cứu khoa học được thể hiện dưới nhiều dạng, có thể đó
là một báo cáo khoa học, tác phẩm khoa học ... tuy nhiên trong tất cả các trường
hợp khác nhau, sản phẩm khoa học luôn luôn mang đặc trưng thông tin. Đó là
những thông tin về quy luật vận động của sự vật, thông tin về quy trình công nghệ
và các tham số đi kèm quy trình đó.
- Tính khách quan:
Tính khách quan vừa là một đặc điểm của nghiên cứu khoa học vừa là một
tiêu chuẩn về phẩm chất của người nghiên khoa học. Trong xã hội học khoa học,
người ta xem đó là một chuẩn mực giá trị. Một nhận định vội vã theo tình cảm, một
kết luận chưa được kiểm chứng chưa thể xem là một phản ánh khách quan về bản
chất của sự vật.
- Tính rủi ro:
Quá trình khám phá bản chất sự vật và sáng tạo sự vật mới hoàn toàn có thể
gặp thất bại. Đó là tính rủi ro của nghiên cứu. Sự thất bại trong nghiên cứu khoa
học có thể do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn thiếu những thông tin cần thiết và đủ

tin cậy, trình độ kỹ thuật của thiết bị quan sát hoặc thí nghiệm thấp, năng lực xử lý
thông tin của người nghiên cứu còn hạn chế, giả thuyết khoa học đặt sai v.v. Tuy
nhiên, trong khoa học “thất bại là mẹ thành công”, kết quả ấy dẫn đến một kết luận
của nghiên cứu khoa học: đó là các giả thuyết đặt ra không được xác nhận về mặt
khoa học, nghĩa là trong sự vật không tồn tại quy luật hoặc giải pháp như đã dự
kiến. Nó giúp cho các đồng nghiệp đi sau rút được kinh nghiệm cho mình, tránh
dẫm chân lên lối mòn, lãng phí các nguồn lực nghiên cứu.
- Tính kế thừa:
Ngày nay hầu như không còn một công trình nghiên cứu khoa học nào bắt
đầu từ chỗ hoàn toàn trống không về kiến thức. Mỗi nghiên cứu phải kế thừa các
kết quả nghiên cứu trong các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau rất xa. Tính kế thừa có
5


một ý nghĩa quan trọng về mặt phương pháp luận: một người nghiên cứu chân
chính không bao giờ đóng cửa, cố thủ trong những lý luận và phương pháp luận
của riêng mình mà bài xích sự thâm nhập về lý luận và phương pháp luận từ các
lĩnh vực khoa học dù rất khác nhau. Hàng loạt phương hướng nghiên cứu mới và
bộ môn khoa học mới xuất hiện chính là kết quả kế thừa lẫn nhau giữa các bộ môn
khoa học.
- Tính cá nhân:
Dù làm một công trình nghiên cứu khoa học do một tập thể hay cá nhân thực
hiện thì vai trò cá nhân trong sáng tạo cũng mang tính quyết định. Tính cá nhân
được thể hiện trong tư duy cá nhân và chủ kiến riêng của cá nhân.
1.2. Về nghiên cứu khoa học giáo dục mầm non:
a] Khái niệm:
Nghiên cứu khoa học GDMN là hoạt động tìm tòi, khám phá và nhận thức
bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong lĩnh vực GDMN, từ đó
sáng tạo các giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc- giáo dục trẻ từ 0-6 tuổi.
Mục đích của nghiên cứu khoa học GDMN chính là nhận thức và cải tạo

nâng cao chất lượng công tác chăm sóc- giáo dục trẻ em từ 0-6 tuổi.
Bản chất của nghiên cứu khoa học GDMN là sáng tạo ra cái mới
b] Đối tượng của nghiên cứu khoa học GDMN
Những sự vật, hiện tượng trong lĩnh vực GDMN cần được khám phá, nhận
thức và cải tạo chính là đối tượng của nghiên cứu khoa học GDMN.
Có thể kể đến các đối tượng nghiên cứu sau đây trong lĩnh vực này:
- Các vấn đề về sự phát triển tâm, sinh lý của trẻ em từ 0-6 tuổi
- Các vấn đề về giáo dục trẻ em từ 0-6 tuổi như mục đích, nội dung, chương
trình, phương pháp, hình thức, phương tiện, kết quả giáo dục, các lực lượng giáo
dục, mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình, xã hội trong GDMN...
- Các vấn đề về quản lý GDMN: quản lý nhà nước về GDMN, quản lý
trường mầm non [mục đích, quá trình, nội dung, phương pháp, các điều kiện đảm
bảo chất lượng GDMN; quản lý đội ngũ GVMN, quản lý trẻ và nhóm lớp trong
trường mầm non...].
6


1.3. Trẻ em từ 0-6 tuổi là đối tượng cơ bản của nghiên cứu khoa học về
GDMN.
3.1.1. Các quan niệm về trẻ em
a] Trẻ em là động vật:
Đây là quan niệm của trường phái hành vi mà đại diện là J.Watson. Khi
nghiên cứu hành vi của con người như là tổ hợp các phản ứng của cơ thể trả lời các
kích thích từ bên ngoài [theo công thức S - R; S là kích thích của môi trường bên
ngoài; R là phản ứng trả lời tương ứng của cơ tthể], J.Watson và những người theo
trường phái hành vi đã đồng nhất con người với con vật và đồng nhất trẻ em với
động vật. Ông viết : “… Con người là động vật có hai chân, hai tay với những ngón
tay cực kỳ tinh vi uyển chuyển. Con người phát triển 9 tháng trong thời kỳ bào thai,
8 năm trong thời kỳ thơ ấu và 70 năm trong suốt cuộc đời”.
Pascan cũng quan niệm “... Con người là động vật có phản ứng với từ ngữ và

sử dụng từ ngữ, nhưng phản ứng ngôn ngữ ấy chẳng qua chỉ là sự co bóp của cơ cổ
mà thôi...”
Tóm lại những người theo trường phái hành vi chỉ phân biệt sự khác nhau
giữa con người [trẻ em] với con vật ở những dấu hiệu bên ngoài.
b] Trẻ em là người lớn thu nhỏ lại.
Đó là quan điểm tiến bộ hơn và tương đối phổ biến, ngay cả hiện nay. Sự
khác nhau giữa trẻ em và người lớn về mọi phương diện [tư tưởng; tình cảm; hành
động...] chỉ là sự khác nhau ở số lượng, tầm cỡ, kích thước, chứ không phải là sự
khác nhau về chất.
c] Quan điểm của J.J Rutxô [1712-1778]:
Ngay từ thế kỷ XVIII J.J Rutxô đã nhận xết rất tinh tế về những đặc điểm
tâm lý của trẻ nhỏ. Theo ông, trẻ em là trẻ em, không phải là người lớn thu nhỏ lại
và người lớn không phải lúc nào cũng có thể hiểu được trí tuệ, nguyện vọng và tình
cảm độc đáo của trẻ thơ.... Vì ...“trẻ em có những cách nhìn, cách suy nghĩ và cảm
nhận riêng của nó”. Sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn là sự khác nhau về chất.
d] Quan niệm của Tâm lý học duy vật biện chứng:

7


Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại, trẻ em là trẻ em, nó vận động,
phát triển theo quy luật riêng của nó. Để hiểu được khái niệm về trẻ em cần phải
xem xét nó ít nhất trên 3 bình diện: sinh vật, văn hoá hay tâm lý cá nhân
- Khái niệm trẻ em xét trên bình diện sinh vật:
Trẻ em cũng giống như động vật đều kế thừa cấu trúc và chức năng của cơ
thể từ thế hệ trước, tuy nhiên, khác với động vật:
+ Đứng về góc độ loài, con người không còn chịu sự chi phối của quy luật
tiến hoá sinh vật [như động vật], mà chủ yếu chịu sự tác động của các quy luật xã
hội.
+ Bộ não của trẻ em có tính chất co giản đặc biệt, còn "trống"- nên có khả

năng học tập, sẵn sàng tiếp nhận những kinh nghiệm lịch sử -xã hội từ thế hệ trước
để phát triển tâm lý và nhân cách của mình.
+ Tuy vậy, cấu trúc hình thái của cơ thể trẻ phát triển và hoàn thiện từ khi lọt
lòng đến tuổi trưởng thành [cân nặng, chiều cao, sự thuần thục dần của các cơ quan
nội tạng, đặc biệt hệ thần kinh và bộ não].
Có thể nói, khái niệm trẻ em có thể hiểu là một cấu trúc hình thái cơ thể
người còn non nớt đang được tăng trưởng.
- Khái niệm trẻ em xét trên bình diện văn hoá:
+ ở người thế hệ sau tiếp nhận kinh nghiệm hoạt động, tri thức, kỹ năng và
các phẩm chất tâm lý không phải bằng con đường di truyền sinh vật [như động vật]
mà bằng con đường di truyền xã hội hay còn gọi là kế thừa văn hoá.
+ Thông qua hoạt động và giao tiếp trẻ em linh hội các kinh nghiệm ls-xh
của loài người được kết tinh trong nền văn minh vật chất và văn minh tinh thần
[nền văn hoá xã hội]
+ Trẻ em lĩnh hội các kinh nghiệm nói trên dưới sự hướng dẫn, dạy dỗ
thường xuyên của người lớn- giáo dục.
+ Quá trình phát triển của lịch sử, văn hoá làm thay đổi vốn kinh nghiệm lsxh, làm thay đổi yếu tố môi trường và giáo dục, đặc biệt là thay đổi hành vi, hoạt
động, các chức năng tâm lý cấp cao của con người [trẻ em].

8


Như vậy, khái niệm trẻ em là một khái niệm lịch sử-văn hoá, luôn thay đổi
cùng với sự thay đổi của nền văn hoá.
- Khái niệm trẻ em xét trên bình diện tâm lý cá nhân:
+ Đối với trẻ em từ lọt lòng đến tuổi trưởng thành đều phải trải qua một quá
trình phát triển bao gồm nhiều thời kỳ, giai đoạn, nhiều pha, còn động vật thì chỉ có
khả năng sinh trưởng - tuần tự theo thời gian mà bộc lộ những gì tổ tiên đã trang bị
sẵn.
+ Mỗi giai đoạn phát triển đều mang những đặc điểm riêng đặc trưng cho

mỗi đứa trẻ, xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới chưa từng có trong giai đoạn phát
triển trước. Từ giai đoạn trước đến giai đoạn sau là một bước chuyển biến mang
tính nhảy vọt, có sự biến đổi về chất, sự phát triển ở một giai đoạn vừa là kết quả
của giai đoạn trước đó, vừa là tiền đề cho bước phát triển tiếp theo ở giai đoạn sau.
+ Sự phát triển tâm lý trẻ em là kết quả của 2 quá trình quyện chặt với nhau:
sự trưởng thành, chín muồi của cơ thể với sự ăn nhập vào nền văn minh nhân loại.
Như vậy, xét trên bình diện tâm lý cá nhân trẻ em là một thực thể đang phát
triển.
Tóm lại: Theo quan điểm tâm lý học duy vật biện chứng trẻ em là một thực
thể đang phát triển về nhiều mặt [sinh vật, văn hoá, tâm lý cá nhân] để trở thành
một thành viên của xã hội, một nhân cách.
Do có nhiều cách hiểu khác nhau về trẻ em như vậy nên có nhiều quan niệm
khác nhau về nghiên cứu trẻ em .
1.3.2. Một số quan niệm về nghiên cứu trẻ em
a] Trường phái hành vi [coi trẻ em là động vật].
Vì quan niệm trẻ em là động vật nên họ chủ trương nghiên cứu hành vi của
động vật và áp dụng kết quả đó cho trẻ em. Tuy nhiên, trẻ em không phải là động
vật vì thế những kết luận từ nghiên cứu trên động vật không đảm bảo tính khoa
học.
b] Coi trẻ em là người lớn thu nhỏ lại

9


Vì quan niệm trẻ em và người lớn chỉ khác nhau về tầm cỡ, kích thước, chứ
không phải khác nhau về chất, nên những người theo quan điểm này đã áp đặt tất
cả những nghiên cứu trên người lớn cho trẻ em. Rõ ràng, cách làm này là sai lầm.
c] Coi trẻ em là trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại và người lớn
chúng ta đôi lúc không thể hiểu được trẻ em [J.J.Rutxo]. Từ cách hiểu này dẫn đến
quan niệm cho rằng trẻ em là một thế giới bí ẩn, chúng ta không thể biết được sự

phát triển của trẻ em diễn ra như thế nào vì thế không nên can thiệp vào sự pháp
triển đó, và tất nhiên cũng chả cần nhọc công nghiên cứu chúng.
d] Quan niệm Tâm lý học duy vật biện chứng về trẻ em đã dẫn đến các
nguyên tắc sau đây khi nghiên cứu về trẻ em:
- Trẻ em là sản phẩm của thời đại lịch sử, nên muốn nghiên cứu trẻ em phải
nghiên cứu các yếu tố lịch sử- xã hội bao quanh đứa trẻ.
- Trẻ em tự sinh thành ra mình bằng hành động cho nên cần tìm hiểu hành
động, hoạt động của trẻ em và sản phẩm hoạt động khi nghiên cứu trẻ em .
- Trẻ em là trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại, nó vừa mang nét
chung ở cùng giai đoạn lứa tuổi với những trẻ em khác, vừa mang đặc thù riêng của
chính nó. Do vậy các nghiên cứu trẻ em phải vừa nắm được quy luật tâm- sinh lý
chung để lý giải: em bé này đang ở giai đoạn tâm lý nào về tính tình, về trí khôn, lại
vừa phải nắm được chân dung tâm lý riêng của nó.
- Các nhà tâm lý học duy vật biện chứng không phủ nhận vai trò của các yếu
tố sinh vật trong sự phát triển tâm lý trẻ em, do vậy, khi nghiên cứu trẻ em chúng ta
cần nghiên cứu mặt sinh lý, tức cơ chế hoạt động điều hoà [hay là xem em bé có
bệnh tật gì không? khoẻ hay yếu?].
2. Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học GDMN
Trong nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu khoa học GDMN nói
riêng chúng ta thường gặp các thuật ngữ: phương pháp, phương pháp hệ, phương
pháp luận. Vậy phương pháp, phương pháp hệ, phương pháp luận là gì?
2.1. Phương pháp nghiên cứu khoa học
a] Khái niệm:

10


Theo nghĩa chung thì phương pháp là con đường đạt mục đích, là cách thức
giải quyết một công việc cụ thể. ở mỗi ngành khoa học lại có một hệ thống các
phương pháp nghiên cứu riêng. Nhà khoa học phải nắm vững bản chất và biết cách

sử dụng các phương pháp để tiến hành hoạt động nghiên cứu của mình có kết quả.
Vậy: phương pháp nghiên cứu khoa học là tổ hợp các thao tác, biện pháp
thực tiễn hoặc lý thuyết mà nhà khoa học sử dụng để nhận thức, khám phá đối
tượng, tạo ra hệ thống những kiến thức về đối tượng.
b] Đặc điểm của phương pháp nghiên cứu khoa học:
- Phương pháp có tính mục đích: mọi hoạt động đều có tính mục đích, mục
đích công việc sẽ chỉ dẫn việc lựa chọn phương pháp. Phương pháp càng chính xác,
càng sáng tạo càng làm cho công việc đạt tới kết quả nhanh, chất lượng cao và đôi
khi vượt xa dự kiến ban đầu. Phương pháp nghiên cứu khoa học gắn bó với mục
đích sáng tạo khoa học.
- Phương pháp có tính đối tượng: phương pháp nghiên cứu khoa học phụ
thuộc vào đối tượng nghiên cứu. Đối tượng càng phức tạp, càng cần có phương
pháp tinh vi. Phương pháp nghiên cứu có hiệu quả khi nó phù hợp với đặc điểm của
đối tượng, phù hợp với quy luật vận động khách quan của đối tượng.
- Phương pháp là con đường vận dụng của nội dung: mọi hoạt động đều có
nội dung, nội dung công việc quy định phương pháp và phương pháp là cách thức
thực hiện nội dung, là yếu tố quyết định chất lượng của công việc. Trong nghiên
cứu khoa học mỗi chuyên ngành có 1 hệ phương pháp đặc thù, mọi đề tài có 1
nhóm phương pháp cụ thể.
- Phương pháp là tổ hợp các thao tác được sắp xếp theo một chương trình tối
ưu. Nếu từng thao tác được thực hiện chính xác thì phương pháp đạt tới độ hoàn
hảo và công việc đạt mức tối ưu.
- Phương pháp là cách làm việc của chủ thể, do chủ thể lựa chọn...Phương
pháp bị quy định bởi trình độ nhận thức và kinh nghiệm đã có của chủ thể. Do đó,
phương pháp mang tính chủ quan. Trong nghiên cứu khoa học các nhà khoa học
phải có trình độ trí tuệ cao, khả năng lớn và một kinh nghiệm dày dạn.

11



- Mỗi phương pháp nghiên cứu khoa học có điểm mạnh và điểm yếu, do đó
không nên chỉ sử dụng duy nhất 1 phương pháp để nghiên cứu đối tượng.
c] Phân loại các phương pháp nghiên cứu khoa học:
Khi nghiên cứu khoa học cần sử dụng rất nhiều phương pháp, phối hợp các
phương pháp, dùng các phương pháp để hộ trợ nhau, kiểm tra lẫn nhau và để khẳng
định kết quả nghiên cứu. Vì sự đa dạng của các phương pháp mà người ta tìm ra
cách phân loại nó để tiện sử dụng. Có những cách phân loại phương pháp sau đây:
- Dựa trên quy trình nghiên cứu, người ta chia phương pháp thành 3 nhóm:
mô tả, giải thích và chuẩn đoán.
- Dựa vào các bước của công việc, có các nhóm phương pháp: thu thập thông
tin, gia công và xử lý thông tin.
- Dựa vào trình độ tiếp cận của đối tượng, có các nhóm phương pháp:
phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phương pháp nghiên cứu thực tiễn và phương
pháp xử lý số liệu.
Việc sử dụng hệ thống phương pháp phải nhất quán theo một cách phân loại.
Trong thực tế cách phân loại thứ 2 và thứ 3 được chấp nhận rộng rãi.
2.2. Phương pháp hệ
Là nhóm các phương pháp được sử dụng trong một lĩnh vực khoa học hay
một đề tài cụ thể. Các phương pháp này hỗ trợ, bổ sung và kiểm tra lẫn nhau trong
quá trình nghiên cứu và để khẳng định tính chân thực của các luận điểm khoa học.
2.3. Phương pháp luận
Theo nghĩa hẹp là lý luận tổng quát, là những quan điểm chung, là cách tiếp
cận đối tượng khoa học. Đây là những luận điểm mang màu sắc triết học, tuy nhiên
nó không đồng nhất với triết học, mà nó vận dụng triết học như thế giới quan để
giải thích và khám phá mà thôi. Những quan điểm phưong pháp luận là kim chỉ
nam hướng dẫn các nhà khoa học trên con đường tìm tòi nghiên cứu. Có những
quan điểm phương pháp luận cho nhiều ngành khoa học, cũng có những quan điểm
riêng, đặc thù của một lĩnh vực khoa học mà gọi là phương pháp luận chuyên
ngành.


12


Khoa học tự nhiên và khoa học xã hội có 2 cách tiếp cận với phương pháp
luận. Khoa học tự nhiên là khoa học thực nghiệm. Nghiên cứu khoa học tự nhiên
bắt đầu từ các sáng kiến cụ thể. Con đường nghiên cứu thường bắt đầu từ thí
nghiệm và bằng cách quy nạp mà hình thành luận điểm khoa học nghĩa là đi từ
phương pháp nghiên cứu cụ thể, sau đó mới xuất hiện nhu cầu về phương pháp
luận.
Khoa học xã hội là khoa học thực chứng. Nghiên cứu khoa học xã hội đòi
hỏi phải tích luỹ các sự kiện đông đảo, để giải thích chúng luôn động chạm đến các
vấn đề triết học. Do vậy, nghiên cứu và giải thích các hiện tượng xã hội bao giờ
cũng có quan điểm dẫn đường. Vai trò của phương pháp luận vô cùng to lớn.
2.4. Một số phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học GDMN.
a] Phương pháp luận hệ thống:
Để hiểu rõ bản chất của quan điểm hệ thống chúng ta cần phân biệt một số
khái niệm
* Hệ thống: Là một tập hợp các yếu tố nhất định có mối quan hệ biện chứng
với nhau tạo thành một chỉnh thể trọn vẹn, ổn định và có quy luật vận động tổng
hợp.
Trong thực tiễn mọi sự vật và hiện tượng, nếu là một chỉnh thể trọn vẹn thì
bao giờ cũng là một hệ thống được cấu tạo bởi những bộ phận, nhiều thành tố. Các
bộ phận này có một vị trí độc lập, có chức năng riêng, tuy vậy chúng lại có quan hệ
biện chứng với nhau theo mối quan hệ vật chất, quan hệ chức năng và chúng vận
động theo quy luật của toàn hệ thống. Một hệ thống bao giờ cũng có mối liên hệ
với những hệ thống và đối tượng khác cùng nằm trong một môi trường nhất định.
Môi trường chính là hệ thống lớn chứa đựng các hệ thống nhỏ ta đang nghiên cứu
và các đối tượng khác bên cạnh nó. Giữa môi trường và hệ thống có mối quan hệ
hai chiều. Môi trường tác động và quy định hệ thống, còn hệ thống tác động và cải
tạo môi trường.

* Tính hệ thống: là thuộc tính quan trọng của thế giới, là hình thức diễn đạt
tính chất phức tạp của đối tượng và nó chính là một thông số quan trọng để đánh
giá đối tượng. Một công trình nghiên cứu khoa học phải tìm cho được tính hệ thống
13


của đối tượng và trình bày nó một cách rành mạch, hàm xúc, chi tiết với lập luận
chặt chẽ nhất.
* Quan điểm hệ thống: là một luận điểm quan trọng chỉ dẫn quá trình nghiên
cứu đối tượng phức tạp, là cách tiếp cận đặc trưng bằng phương pháp hệ thống để
tìm ra các cấu trúc của đối tượng, phát hiện ra tính hệ thống: một thuộc tính quan
trọng của đối tượng. Quan điểm hệ thống yêu cầu nghiên cứu đối tượng theo quy
luật của cái toàn thể có tính hệ thống với các thành phần có mối tương tác biện
chứng hữu cơ.
Trong mọi lĩnh vực của cuộc sống và cả trong hoạt động tâm lý, ở các mức
độ khác nhau ta đều phát hiện ra tính hệ thống trong các đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng đơn giản nhất là các hiện tượng tâm lý riêng lẻ [cử động, thao
tác, hành động, hoặc cá thể] tồn tại độc lập một cách tương đối, ta có thể cô lập để
nghiên cứu.
- Đối tượng phức tạp hơn, có kết cấu trọn vẹn như một chỉnh thể, như một hệ
thống [hoạt động, các đặc điểm nhân cách]. Ví dụ: Đời sống tâm lý, nhu cầu của
đứa trẻ hay hệ thống tâm lý- sinh lý- xã hội.
- Đối tượng phức tạp nhất là hiện thực xã hội, bao gồm những khách thể có
mối liên hệ với nhau, tạo thành siêu hệ thống. Ví dụ: Vấn đề tâm lý và văn hoá.
Khi nghiên cứu khoa học GDMN theo quan điểm hệ thống cần:
+ Nghiên cứu đối tượng một cách toàn diện, nhiều mặt, dựa vào việc phân
tích đối tượng thành các bộ phận mà xem xét cụ thể.
+ Xác định mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố của hệ thống để tìm quy luật
phát triển từng mặt và của toàn bộ đối tượng tâm lý.
+ Nghiên cứu đối tượng trong mối tương tác với các hiện tượng xã hội khác,

với người khác, với toàn bộ nền văn hoá xã hội. Tìm môi trường thuận lợi cho sự
phát triển của nó.
+ Trình bày kết quả nghiên cứu rõ ràng, khúc chiết, theo một hệ thống chặt
chẽ, có tính logic cao.
Như vậy, nghiên cứu khoa học GDMN theo quan điểm hệ thống cho phép
nhìn nhận một cách sâu sắc toàn diện, khách quan về đối tượng nghiên cứu, thấy
14


được mối quan hệ của hệ thống nghiên cứu với các đối tượng khác trong hệ thống
lớn, từ đó xác định được con đường tổng hợp tối ưu để phát triển nâng cao chất
lượng chăm sóc- giáo dục trẻ mầm non.
b] Phương pháp luận hoạt động:
Đây là quan điểm vô cùng quan trọng, là kim chỉ nam dẫn đường trong các
nghiên cứu con người nói chung và nghiên cứu khoa học GDMN nói riêng. Phương
pháp luận hoạt động được hiểu như sau:
- Khẳng định rằng: Hoạt động là bản thể của tâm lý- ý thức, hay tâm lý, ý
thức được nảy sinh bởi hoạt động. Sự phát triển phức tạp và chuyển hóa của hoạt
động kéo theo sự phát triển phức tạp và chuyển hoá của tâm lý. Tất cả các phạm trù
trong tâm lý học: Phản xạ, phản ánh, ý thức, nhu cầu, động cơ vv...đều bị quy định
bởi phạm trù hoạt động.
- Phản ánh tâm lý và hoạt động gắn bó chặt chẽ với nhau. Hoạt động vừa tạo
ra tâm lý, vừa sử dụng phản ánh tâm lý làm khâu trung gian tác động vào đối tượng
tạo ra kinh nghiệm kép “ở con người”.
- Tâm lý, ý thức, nhu cầu của con người được nghiên cứu như là các hoạt
động.
- Bằng hoạt động con người trở thành 1 nhu cầu và tồn tại như là một nhân
cách. Nhu cầu là các cấu tạo tâm lý mới do từng người tự tạo ra cho mình bằng
hoạt động của bản thân.
- Tâm lý, ý thức, nhu cầu của con người được biểu hiện ra bên ngoài thông

qua hoạt động của cá nhân. Vì thế, muốn nghiên cứu tâm lý, nhu cầu của con người
ta phải nghiên cứu hoạt động, hành động và sản phẩm hoạt động, nơi kết tinh năng
lực con người vào đấy.
c] Phương pháp luận tích hợp
Quan điểm tích hợp coi tự nhiên- xã hội- con người như là một thể thống
nhất tác động qua lại với nhau.
Quan điểm tích hợp trong nghiên cứu khoa học đòi hỏi một sự kết hợp, đan
xen, lồng ghép các mảng đề tài, các góc độ nghiên cứu chung.
Quan điểm tích hợp được sử dụng trong nghiên cứu khoa học GDMN, vì:
15


- Trẻ em là một đối tượng nghiên cứu mang tính tích hợp [đối tượng nghiên
cứu của nhiều khoa học].
- Sự phát triển của trẻ em trong 6 năm đầu đời rất nhanh, mạnh, tuy nhiên,
các chức năng tâm-sinh lý chưa hình thành thật rõ nét và tách bạch rạch ròi như ở
người lớn. Vì thế, để hiểu rõ về trẻ em, người ta cần sử dụng tổng hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau.
Để vận dụng quan điểm tích hợp trong nghiên cứu trẻ em, cần phải:
- Cần kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khi nghiên cứu trẻ
em, trong đó có một phương pháp đóng vai trò chủ đạo.
- Để nghiên cứu các vấn đề chung của giáo dục mầm non, cần vận dụng các
hướng nghiên cứu mang tính tích hợp, được thực hiện bởi các chuyên gia từ nhiều
lĩnh vực khoa học khác nhau.
- Các dữ kiện thu được từ quá trình nghiên cứu vừa được phân tích, nhìn
nhận từ nhiều góc độ khác nhau: xã hội học, tâm lý học, sinh lý học...và chúng
cũng vừa được tổng hợp, lồng ghép với nhau để giải quyết các vấn đề nuôi và dạy
trẻ.
- Đối với việc giáo dục trẻ em trước 6 tuổi cần kết hợp giữa chăm sóc và dạy
dỗ trẻ em. Muốn đạt hiệu quả thì 2 nhiệm vụ này cần lồng ghép, đan xen, hoà

quyện với nhau.
- Chương trình chăm sóc- giáo dục trẻ em trước 6 tuổi được xây dựng trên cơ
sở nhằm hình thành những thuộc tính, những năng lực chung- hình thành nền tảng
nhân cách ban đầu cho trẻ em.
d] Phương pháp luận lịch sử
Mọi sự vật đều có nguồn gốc phát sinh và quá trình phát triển, vì thế, khi
nghiên cứu cần xem xét đối tượng một cách toàn diện trong suốt quá trình phát sinh
và phát triển của nó, tức là nghiên cứu theo quan điểm lịch sử.
Nghiên cứu một đối tượng nào đó theo quan điểm lịch sử tức là nghiên cứu
đối tượng trong quá trình vận động
Khi nghiên cứu khoa học GDMN cần đảm bảo quan điểm tiếp cận lịch sử,
vì:
16


- Nghiên cứu khoa học theo quan điểm lịch sử không những giúp ta phát hiện
ra quy luật phát triển của đối tượng mà còn giúp tìm ra những nguyên nhân gây nên
những thành công hay thất bại của sự kiện lịch sử, từ đó rút ra được bài học cần
thiết.
- Các tài liệu lịch sử có chức năng vô cùng quan trọng trong các nghiên cứu
khoa học: chức năng làm cơ sở để xây dựng giả thuyết và chứng minh giả thuyết;
chức năng minh hoạ, chứng minh; chức năng đánh giá các kết luận khoa học..
- Trẻ em trước 6 tuổi là một thực thể đang phát triển với tốc độ nhanh. Trong
quá trình đó các quy luật phát triển được bộc lộ một cách khách quan.
Để đảm bảo quan điểm tiếp cận lịch sử, nhà nghiên cứu phải:
- Xem xét đứa trẻ trong quá trình phát triển của nó với những điều kiện phát
triển nhất định, đặc biệt là trong mối quan hệ giữa giáo dục và phát triển.
- Coi giáo dục là mặt phổ biến, tất yếu trong quá trình phát triển những đặc
điểm lịch sử ở đứa trẻ, chứ không phải là mặt tự nhiên của con người.
e] Phương pháp luận thực tiễn

Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính chất lịch sử xã hội của
con người làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn vừa là nguồn gốc, vừa là động lực, vừa là mục đích, vừa là tiêu
chuẩn để đánh giá đối với mọi lý thuyết khoa học:
- Nghiên cứu khoa học GDMN phải bắt nguồn từ thực tiễn. Động lực nghiên
cứu khoa học đó chính là nhu cầu giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.
- Kết quả nghiên cứu khoa học GDMN quay trở lại phục vụ thực tiễn [nâng
cao chất lượng chăm sóc- giáo dục trẻ mầm non].
- Những sự kiện thực tiễn là những cứ liệu quan trọng giúp nhà nghiên cứu
tìm hiểu đối tượng và khám phá ra quy luật vận động của nó.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn để đánh giá các sản phẩm khoa học một cách chính
xác nhất.
Nghiên cứu khoa học GDMN cần đứng vững trên quan điểm thực tiễn mới hi
vọng đổi mới hoạt động nghiên cứu khoa học về trẻ em, mang lại lợi ích thiết thực
cho sự nghiệp chăm sóc- giáo dục trẻ em trước 6 tuổi.
17


Chương 2:
CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC MẦM NON
Nghiên cứu khoa học GDMN, dựa trên những hiện tượng thực của thế giới
khách quan nhà nghiên cứu thu thập một cách kỹ lưỡng những sự kiện cần thiết và
xem xét chúng một cách sâu sắc theo những khía cạnh khác nhau. Trong khi đối
chiếu những hiện tượng thu thập được với nhau, nhà nghiên cứu khám phá ra
những nguyên nhân và quy luật hoạt động của chúng, từ đó làm giàu cho khoa học,
giúp ích cho thực tiễn.
Trong quá trình nghiên cứu khoa học, nhà nghiên cứu phải:
- Xác định những sự kiện nào họ cần phải thu thập.
- Nắm vững những thủ thuật nghiên cứu cần thiết và đôi khi xây dựng những
phương pháp nghiên cứu riêng và những hệ phương pháp để thu thập những sự

kiện ấy.
- Phân tích và khái quát những sự kiện thu được, nhà nghiên cứu cần biết loại
bỏ tất cả cái gì không cần thiết, không quan trọng, giữ lại cái quan trọng, cái bản
chất.
1. Các nguyên tắc chỉ đạo việc lựa chọn và sử dụng phương pháp nghiên
cứu khoa học GDMN:
a] Phải coi hoạt động là nguồn gốc của toàn bộ nền văn hoá loài người, của
thế giới tinh thần của con người. Hoạt động là nơi tinh thần, tâm lý thực hiện chức
năng của chúng đối với cuộc sống thực của con người. Hoạt động cũng chính là
động lực phát triển tâm lý. Không thể nghiên cứu trẻ em ngoài hoạt động của chính
bản thân trẻ.
b] Phải tính đến tính chất tổng thể, hoàn chỉnh, trọn vẹn của đối tượng
nghiên cứu. Khi nghiên cứu một hiện tượng tâm lý nào đó không được tách nó ra
khỏi toàn bộ đời sống tâm lý của con người, cũng như khi nghiên cứu một đặc điểm
nào đó của một loại hiện tượng tâm lý cũng không được tách nó ra khỏi các đặc
điểm khác. Hơn nữa phải đặt đối tượng nghiên cứu vào trong mối quan hệ với các

18


loại hiện tượng khác. V.I. Lênin viết: “Toàn bộ tất cả các mặt của hiện tượng, hiện
thực và các quan hệ của các mặt ấy đó là cái hợp thành chân lý”.
c] Muốn thấy được tính chất tổng thể hoàn chỉnh, trọn vẹn của đối tượng
nghiên cứu, phải xếp hiện tượng nghiên cứu vào hệ thống đó. Cuộc sống của con
người có nhiều hoạt động. Mỗi hoạt động tương ứng với một động cơ vì vậy con
người có nhiều động cơ. Do đó cần phải tìm ra hệ thống động cơ và xét động cơ
nào trong thời điểm nhất định là động cơ chính. Tương tự như vậy, phải tìm ra hệ
thống mục đích và xem cái nào là chính.
d] Cần nghiên cứu, xem xét các hiện tượng tâm lý trong sự nảy sinh, biến đổi
và phát triển của nó. Các hiện tượng tâm lý không bất biến, nghiên cứu một hiện

tượng tâm lý phải thấy được quá khứ, hiện tại và tương lai của nó. Đồng thời cũng
phải thấy được tính ổn định của nó trong một thời điểm nhất định, trong những
điều kiện nhất định.

2. Các phương pháp nghiên cứu khoa học GDMN
3.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
3.1.1. Chức năng:
Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết có chức năng cơ bản là định hướng
cho việc nghiên cứu đề tài, vạch con đường tiếp cận đối tượng, chỉ đạo việc lựa
chọn các phương pháp nghiên cứu cụ thể để khám phá đối tượng. Chức năng thứ
hai của các phương pháp nghiên cứu lý thuyết là xây dựng hệ thống khái niệm
khoa học là công cụ nghiên cứu đề tài. Chức năng thứ ba là khái quát những cứ
liệu khoa học thành những kết luận khoa học, lý thuyết khoa học [ở mức độ cao
hơn].
3.1.2. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết cụ thể
a] Phương pháp phân tích- tổng hợp lý thuyết
- Phân tích là thao tác tác đối tượng ra thành nhiều bộ phận, nhiều chi tiết để
có thể xem xét kỹ lưỡng đối tượng từ nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau.
- Tổng hợp là thao tác gộp các bộ phận, các chi tiết đã phân tích theo hướng
nhất định để tạo thành một chỉnh thể, nhờ đó đối tượng được nhìn nhận một cách
toàn diện và sâu sắc hơn.
19


Phân tích- tổng hợp lý thuyết là phương pháp nghiên cứu cơ bản không thể
thiếu được đối với việc xây dựng những luận cứ khoa học về trẻ em. Phương pháp
này thường được sử dụng ở bước khởi đầu của việc nghiên cứu lý luận hoặc xây
dựng cơ sở lý luận cho các nghiên cứu thực tiễn.
Khi thực hiện phương pháp phân tích- tổng hợp lý thuyết, cần phải:
- Phân tích mỗi lý thuyết hay trường phái khoa học thành nhiều khía cạnh,

nhiều thành phần.
- Tìm hiểu kỹ càng từng thành phần trong cấu trúc của mỗi lý thuyết để chỉ
ra đặc điểm riêng biệt của nó, xác định sự phát triển của lý thuyết do nhiều thế hệ
tác giả khác nhau đóng góp mà thành.
- Tổng hợp lý thuyết theo quan điểm riêng của nhà nghiên cứu, lược bỏ
những mặt sai lầm, lạc hậu, yếu kém, kế thừa, lĩnh hội những mặt tích cực, tạo ra lý
luận về đối tượng nghiên cứu, từ đó định hướng cho việc nghiên cứu đề tài.
b] Phương pháp phân loại và hệ thống hoá lý thuyết
- Phân loại lý thuyết là sự phân chia các tài liệu nghiên cứu, các lý thuyết
khoa học đã có về đối tượng nghiên cứu thành các mặt, các đơn vị kiến thức... khác
nhau dựa trên các dấu hiệu bản chất hay hướng nghiên cứu.
- Tổng hợp lý thuyết là sự sắp xếp những tài liệu khoa học đã được phân loại
vào một hệ thống nhất định trên cơ sở một mô hình lý thuyết do người nghiên cứu
đề xuất.
Phương pháp phân loại và tổng hợp lý thuyết là hai thao tác luôn đi cùng
nhau, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Nhờ đó, các tài liệu, lý thuyết khoa học với kết
cấu phức tạp về mội dung trở nên dễ nhận thấy, dễ sử dụng theo mục đích nghiên
cứu. Trong nghiên cứu khoa học GDMN, phương pháp phân loại và tổng hợp lý
thuyết làm cho các lý thuyết khoa học về GDMN mang tính khái quát cao, định
hướng cho việc nghiên cứu thực tiễn và có tác dụng chỉ đạo hoạt động chăm sócgiáo dục trẻ em.
c] Phương pháp cụ thể hoá lý thuyết

20


Để lý thuyết khoa học trở nên dễ hiểu, dễ sử dụng vào thực tiễn, người
nghiên cứu cần cụ thể hoá chúng bằng phương pháp minh họa và phương pháp mô
hình hoá.
- Phương pháp minh họa là cách thức sử dụng những sự kiện điển hình, có
thực trong thực tiễn để làm sáng tỏ lý thuyết.

- Phương pháp mô hình hoá là phương pháp nghiên cứu lý thuyết bằng cách
xây dựng những mô hình giả định để thể hiện được ý đồ chứa đựng trong lý thuyết,
rồi dựa trên mô hình đó mà tiến hành nghiên cứu lý thuyết.
Mô hình là sự tái hiện đối tượng nghiên cứu dưới dạng trực quan tương ứng
với nguyên bản của lý thuyết. Vì vậy, hệ thống mô hình cần được xây dựng sao cho
phản ánh trung thực những mối liên hệ cơ cấu- chức năng hay mối liên hệ nhân quả
giữa các thành tố trong đối tượng nghiên cứu. Mô hình là cái thay thế cho đối
tượng nghiên cứu nhưng đến lượt nó lại biến thành một phương tiện cụ thể để nhà
nghiên cứu đào sâu, mở rộng lý thuyết của mình. Mô hình lý thuyết có thể chứa
đựng cả những yếu tố mới, những ý tưởng chưa được thể nghiệm trong cuộc sống
[mô hình giả định].
Nhờ phương pháp cụ thể hoá lý thuyết mà những lý thuyết khoa học trừu
tượng trở nên dễ hiểu, dễ sử dụng vào thực tiễn, giúp người nghiên cứu có chỗ dựa
để đi xa hơn trong quá trình nghiên cứu lý thuyết của mình.
d] Phương pháp giả thuyết
Đây là phương pháp nghiên cứu bằng cách dự đoán những thuộc tính và quy
luật phát triển của đối tượng, trên cơ sở đó mà tìm kiếm, khám phá bản chất của đối
tượng nghiên cứu thông qua quá trình chứng minh những điều dự đoán đó là đúng.
Chức năng của phương pháp giả thuyết: dự báo [dự đoán] và định hướng.
Phương pháp giả thuyết về thực chất là khâu đầu tiên của quá trình nhận thức
về một đối tượng nào đó khi mà các thông tin về nó còn thiếu hụt hoặc chưa rõ
ràng. Vì vậy, để nghiên cứu đối tượng, nhà nghiên cứu cần hình dung về một số
thuộc tính và quy luật phát triển của đối tượng. Như vậy, giả thuyết chưa phải là
chân lý, cần phải được chứng minh để khẳng định hoặc bác bỏ.

21


Trong nghiên cứu khoa học GDMN, phương pháp giả thuyết không chỉ cần
thiết cho việc nghiên cứu lý luận mà còn rất cần thiết cho việc chăm sóc và giáo

dục trẻ, đặc biệt trong việc dự báo sự phát triển của trẻ em và định hướng cho việc
tìm kiếm những phương pháp mới, hiệu quả cho việc chăm sóc- giáo dục chúng.
e] Phương pháp chứng minh
Chứng minh là sử dụng lý luận hay sự kiện thực tiễn để làm sáng tỏ một
nhận định, một quan điểm là chân lý hay không.
Phương pháp chứng minh là một phương pháp nghiên cứu lý luận- là việc
dùng lý luận để khẳng định hay phủ định một nhận định hay một quan điểm nào đó.
Phương pháp chứng minh có thể tiến hành theo nhiều cách:
- Trực tiếp- bằng cách suy luận để rút ra những luận đề cần thiết.
- Gián tiếp- bằng cách bác bỏ những luận đề trái với luận đề chính, chỉ ra
những sai lầm, không hợp lý của chúng từ đó khẳng định tính chân thực, chính xác,
logic của luận đề chính.
- Quy nạp- bằng cách suy luận từ những vấn đề cụ thể, riêng đến những kết
luận chung.
- Diễn dịch- bằng cách suy luận từ những nguyên lý chung nhất đễn kết luận
cho những trường hợp riêng, cụ thể.
Những phương pháp nghiên cứu lý thuyết trên đây được vận dụng một cách
linh hoạt không chỉ trong các công trình nghiên cứu lý luận thuần tuý mà còn được
dùng nhiều trong các công trình nghiên cứu mang tính ứng dụng.
3.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Đây là nhóm các phương pháp tác động trực tiếp vào đối tượng đang tồn tại
trong thực tiễn để làm bộc lộ rõ bản chất và quy luật vận động của đối tượng ấy.
3.2.1. Chức năng:
Chức năng chủ yếu của nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn là tổ
chức công việc tìm tòi, khám phá, phát hiện những điều chưa biết về đối tượng
nghiên cứu, sưu tầm các cứ liệu khoa học, chỉ ra những đặc điểm trong quá trình
vận động, phát triển của đối tượng, từ đó thấy được quy luật phát triển của sự vật,
hiện tượng trong GDMN ở khía cạnh đang nghiên cứu.
22



3.2.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
a] Quan sát
*Khái niệm: Quan sát là phương pháp nghiên cứu đối tượng bằng cách ghi
lại những biểu hiện bề ngoài của đối tượng trong đời sống hàng ngày, từ đó dự
đoán bản chất và quy luật vận động của chúng. Ví dụ: nghiên cứu những đặc điểm
quan hệ qua lại của trẻ 3-4 tuổi, chúng ta quan sát trẻ trong trò chơi, trong hành vi
của chúng khi ăn, khi ngủ, khi rửa mặt, khi dạo chơi...
*Phân loại:
Quan sát có thể là toàn diện hay bộ phận. Quan sát bộ phận khi nhà nghiên
cứu chỉ theo dõi một mặt nào đó của đối tượng trong một thời gian dài, hay hành vi
trong một hoạt động nào đó. Quan sát toàn diện là theo dõi cùng một lúc toàn bộ
hành vi của đối tượng trong một thời gian dài. Tuy vậy nó vẫn manh tính chọn lọc
nhiều hay ít. Sản phẩm của quá trình quan sát là những cuốn nhật ký.
* Đặc điểm của phương pháp quan sát: [ưu, nhược điểm của phương pháp
quan sát]
- Ưu điểm:
+ Dễ thực hiện, không cầu kỳ về thiết bị và phương tiện quan sát
+ Nhà nghiên cứu thu thập được đông đảo những sự kiện về hành vi tự nhiên
của đối tượng mang tính chân thật, sống động.
+ Nắm bắt được "chân dung tâm lý" của mỗi đứa trẻ
+ Cho phép hiểu được mối quan hệ của đối tượng [đứa trẻ cụ thể] với những
thành viên khác trong tập thể trẻ em.
+ Cho phép hiểu mối quan hệ giữa hành vi của trẻ với những hành động của
giáo viên, của nhà giáo dục một cách rõ ràng nhất.
Bên cạnh nhiều ưu điểm, phương pháp quan sát còn có một số thiếu sót, hạn chế
phạm vi sử dụng của nó:
- Nhược điểm:
+ Mối quan hệ tác động qua lại nhiều mặt giữa sinh lý, quan hệ xã hội và các
hiện tượng tâm lý làm cho nhà nghiên cứu gặp nhiều khó khăn khi tìm hiểubản chất

và quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu và phân tích chúng.
23


+ Nhà nghiên cứu ở thế "bị động" chờ đợi sự bộc lộ của các hành vi cần quan
sát ra bên ngoài. Vì thế, quan sát đòi hỏi rất nhiều thời gian, công sức của nhà
nghiên cứu.
+ Nhà nghiên cứu không thể quan sát lại cùng một hiện tượng [đã được quan
sát], do vậy rất khó khăn khi muốn kiểm tra lại, chính xác hoá hay bổ sung những
hiểu biết đã thu được ở lần quan sát ban đầu.
+ Những sự kiện thu thập được bằng phương pháp quan sát thường được ghi
lại dưới hình thức miêu tả, mà muốn miêu tả một cách đầy đủ, chi tiết, trung thực
và chính xác thì nhà nghiên cứu phải dùng đến các phương tiện bổ trợ: máy ghi âm,
máy quay phim .... Mặt khác, khi sử dụng các phương tiện bổ trợ thì thường gây sự
chú ý cho trẻ, do vậy làm mất tính tự nhiên trong hành vi của trẻ. Mà thiếu các
phương tiện hỗ trợ nêu trên thì những sự kiện quan sát chỉ được miêu tả một cách
giản đơn.
+ Sự phân tích và khái quát hoá các sự kiện tâm lý thu được từ phương pháp
quan sát thường rất phức tạp. Việc sử dụng phương pháp thống kê để xử lý tài liệu
thu thập được bằng phương pháp quan sát cũng hết sức hạn chế. Vì vậy, nếu chỉ sử
dụng duy nhất một phương pháp quan sát trong nghiên cứu để phát hiện ra các quy
luật và nguyên nhân tâm lý, trên thực tế hầu như không thể.
* Để tiến hành quan sát có hiệu quả cần phải:
- Vấn đề nghiên cứu được đề ra càng rõ ràng, cụ thể bao nhiêu càng tốt bấy
nhiêu. Lúc đó sự lựa chọn, ghi chép và sự phân tích các sự kiện tâm lý càng chính
xác và càng có mục đích.
- Cần có kỹ năng tiến hành quan sát: kỹ năng chia nhỏ nhiệm vụ ra thành các
câu hỏi nghiên cứu cụ thể; kỹ năng chuẩn bị các phương tiện, điều kiện đặc biệt cần
cho quá trình quan sát [tìm hiểu sơ bộ các tài liệu có liên quan đến đối tượng sẽ
quan sát, tìm hiểu sơ bộ các hình vẽ, ảnh chụp, sự mô tả bằng lời về các sự việc,

hiện tượng, chuẩn bị các phương tiện cần thiết để lưu giữ lại các sự kiện quan sát,
kỹ năng vạch sơ bộ kế hoạch và cách thức quan sát]; kỹ năng sử dụng ngôn ngữ
[dùng để mô tả cái được quan sát]; kỹ năng lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch

24


quan sát theo hệ thống, kỹ năng ghi lại nhanh chóng, chính xác, rõ ràng, khách
quan cái phải nghiên cứu.
- Thái độ của con người đối với việc quan sát đóng vai trò quan trọng. Việc
hiểu được ý nghĩa quan sát, ý thức được trách nhiệm của người nghiên cứu về tính
khách quan của kết quả thu được, cân nhắc sự cần thiết trong việc tổng kết những
kết quả quan sát được là rất quan trọng. Tất cả điều đó ảnh hưởng một cách tích cực
đến chất lượng của quá trình quan sát, nhắc nhở người nghiên cứu phải xem xét cẩn
thận, lắng nghe thận trọng, thúc đẩy họ quan sát ổn định, lâu dài.
Tóm lại: Phương pháp quan sát là phương pháp nghiên cứu tâm lý trẻ em
quan trọng, không thể thay thế được.
b] Phương pháp thực nghiệm
b.1] Khái niệm: Đó là phương pháp nghiên cứu thực tiễn được tổ chức một
cách đặc biệt, tức là người nghiên cứu chủ động tạo ra những điều kiện đặc biệt để
làm bộc lộ những phẩm chất hay năng lực theo hướng giả thuyết đặt ra.
b.2] Thực nghiệm có những ưu điểm sau đây:
+ Nhà nghiên cứu ở thế chủ động khi tự mình thiết kế những điều kiện cần
thiết để tạo ra các hiện tượng cần nghiên cứu theo hướng giả thuyết đặt ra. Ví dụ:
muốn nghiên cứu ảnh hưởng của lời khen tới sự nỗ lực ý chí của trẻ, nhà nghiên
cứu tổ chức thực nghiệm sao cho trong đó lời khen, khi cần thiết, như là sự củng cố
hành vi của trẻ.
+ Nhà nghiên cứu có thể lặp đi, lặp lại nhiều lần thí nghiệm của mình, kiểm
tra lại những kết quả thu được trước đây. Đặc biệt quan trọng là ở những lần thí
nghiệm sau chúng ta có thể thay đổi một số điều kiện, và do đó xác định được ảnh

hưởng của chúng tới hiện tượng tâm lý được nghiên cứu.
+ Những kết quả của các chỉ số thu được qua phương pháp thực nghiệm có
thể ghi lại dưới hình thức đơn giản và ngắn. Trong trường hợp sơ khai nhất, chúng
được ghi bằng dấu [+ ] hay [-].
+ Sự phân tích biên bản thực nghiệm đơn giản hơn rất nhiều sự chỉnh lý
những sự kiện tâm lý thu được bằng phương pháp quan sát. Vì những sự kiện của
thực nghiệm cùng một loại, theo một chuỗi liên tục và được dự kiến từ trước.
25


101 Đề tài sáng kiến kinh nghiệm mầm non mới nhất

Trong bài viết Đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục, Luận Văn 2Sđã nhận được rất nhiều câu hỏi liên quan đến đề tài sáng kiến kinh nghiệm mầm non. Và trong bài viết này, chúng tôi đã tổng hợp ra List đề tài sáng kiến kinh nghiệm mầm non mới nhất và một số mẫu sáng kiến kinh nghiệm mầm non tham khảo. Mong rằng, từ những đề tài này, các quý thầy cô giáo mầm non, nghiên cứu sinh quản lý giáo dục mầm non sẽ có thêm những ý tưởng tham khảo để áp dụng vào những tiết giảng dạy của mình.

1. Hướng dẫn cách làm đề tài nghiên cứu khoa học mầm non

Thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học mầm non là một trong những cách tốt nhất để nuôi dạy trẻ, đưa chúng vào từng câu chuyện, ý nghĩa từng chủ đề cho trẻ những cách tiếp cận tốt nhất toàn vẹn nhất.

Ngoài ra, các đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục mầm non cũng chính là kim chỉ nam có thể áp dụng cho kế hoạch bài học cũng như chương trình giảng dạy mầm non có thể được sử dụng cho cả cựu giáo viên, phụ huynh tại nhà và giáo viên mới ít kinh nghiệm.

Cũng giống như bất kỳ bài nghiên cứu khoa học nào, nghiên cứu giáo dục mầm non cũng cần có một quy trình để có được bài nghiên cứu tốt nhất:

Bước 1: Lập danh sách ý tưởng

Danh sách ý tưởng giúp bản thân người nghiên cứu định hình lại nội dung tổng quát nổi trội mà có khả năng trở thành đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục mầm non độc đáo, hiệu quả.

Các ý tưởng đề tài này bạn có thể tham khảo từ thầy cô, các học viên cũ hay nguồn thông tin trên các kênh truyền thông, kinh doanh khác nhau.

Bước 2: Định hướng phương pháp nghiên cứu phù hợp

Xác định rõ phương pháp nghiên cứu giúp bạn có lộ trình rõ ràng và định hướng nghiên cứu cụ thể cho đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục mầm non của mình. Đồng thời định hướng phương pháp nghiên cứu phù hợp sẽ giúp cho bạn tối ưu hóa được nội dung bài nghiên cứu của mình, hạn chế tối đa nhất những ý tưởng không phù hợp.

Tìm hiểu: Phương pháp luận là gì? Ý phương pháp luận

Bước 3: Tìm kiếm thông tin, tài liệu

Khâu tìm kiếm thông tin, tài liệu cho bài nghiên cứu khoa học giúp bạn chuẩn hóa được nội dung mà bạn chuẩn bị trình bày, đồng thời là một bước gạn lọc nhỏ để thông tin cuối cùng mà bạn gửi đến hội đồng chấm được chính xác và đầy đủ.

Bước 4: Chọn đề tài nghiên cứu cuối cùng

Sau khi hoàn thành tất cả các bước trên, bạn nên chọn và chốt đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục mầm non cuối cùng. Tổng hợp lại tất cả những yếu tố nghiên cứu đó, bạn sẽ có được một đề tài nghiên cứu khoa học hoàn chỉnh đảm bảo tính thực tiễn và chu đáo.

Bước 5: Thực hiện nghiên cứu

  • Lập đề cương chi tiết cho bài nghiên cứu: Đề cương là khung sườn của nghiên cứu, nó sẽ giúp bạn hình dung một cách tổng quát về các nội dung mà mình sẽ cần phải làm để hoàn thành bài nghiên cứu.
  • Tổng hợp và chắc lọc thông tin: Những thông tin được chắt lọc một cách tập trung và nhất định sẽ là cơ sở nghiên cứu đầy đủ cho đề tài.
  • Làm bài nghiên cứu ngay sau khi đã chuẩn bị hết tất cả các nội dung trên, đồng thời tuân thủ deadline đặt ra để bài làm có kết quả tốt nhất.

Hướng dẫn cách làm đề tài nghiên cứu khoa học mầm non chi tiết

Để có một đề tài nghiên cứu khoa học ngành giáo dục mầm non chất lượng, hiệu quả xin mời các bạn làm theo các bước hướng dẫn sau:

Bước 1: Lên các ý tưởng

Việc lập ra một danh sách các ý tưởng giúp người thực hiện định hình được một cách khái quát nội dung của đề tài. Bạn có thể có 1 hoặc nhiều ý tưởng. Lưu lại các ý tưởng thành 1 danh sách cũng giúp bạn giữ lại các ý tưởng hay để dùng sau này khi cần đến.

Ý tưởng có thể tham khảo thầy cô, đồng nghiệp hoặc tìm kiếm trên những kênh tài liệu.

TRỞ THÀNH SINH VIÊN ĐẠI HỌC ĐÔNG Á NGAY HÔM NAY!

ĐĂNG KÝ NGAY

Bước 2: Xác định rõ phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu cũng giống như kim chỉ nam, giúp bạn có định hướng nghiên cứu cụ thể và lộ trình rõ ràng cho đề tài của mình.

Bên cạnh đó, có định hướng phương pháp nghiên cứu rõ ràng giúp bạn tối ưu bài nghiên cứu của mình, tránh tình trạng có những ý tưởng không phù hợp.

Hướng dẫn cách làm đề tài nghiên cứu khoa học mầm non chi tiết

Bước 3: Tìm kiếm thông tin

Khâu tìm kiếm thông tin, tìm hiểu về ngành giáo dục mầm non, tìm tài liệu tham khảo cho đề tài nghiên cứu là bạn chuẩn bị sơ lược phần nội dung mà bạn muốn trình bày.

Trong bước này, bạn cũng sẽ chọn lọc những thông tin mà bạn tin là nó có thể giúp ích cho đề tài nghiên cứu của mình. Bạn có thể tìm kiếm thông tin trong sách vở, giáo trình, các đề tài nghiên cứu trước đây, trên Internet và kiến thức thực tiễn để làm giàu cho đề tài nghiên cứu của mình.

Bước 4: Chọn và chốt đề tài nghiên cứu

Sau khi đã hoàn thành 3 bước trên, bạn tổng hợp lại và chốt tên đề tài nghiên cứu khoa học về giáo dục mầm non cuối cùng. Đề tài đó phải là đề tài hoàn chỉnh cả về lý luận và thực tiễn, có tính khả thi cao.

=> Tham khảo thêm các trường tuyển sinh ngành giáo dục mầm non có chất lượng đào tạo tốt nhất!

Bước 5: Thực hiện nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, bạn thực hiện theo quy trình sau:

✅ Lập đề cương chi tiết: đề cương là phần khung sườn của nghiên cứu, nó giúp bạn có cái nhìn tổng quát về các nội dung, thứ tự các nội dung mà mình cần thực hiện để hoàn chỉnh đề tài nghiên cứu.

✅ Tổng hợp và chắt lọc thông tin: ở phần này, với những thông tin mà bạn đã tìm được, tiến hành tổng hợp và chắt lọc bớt những thông tin không cần thiết và dùng những thông tin còn lại làm cơ sở nghiên cứu cho đề tài.

✅ Bắt tay vào làm đề tài nghiên cứu: Sau khi và chuẩn bị đề cương và những thông tin bổ trợ, các bạn tiến hành thực hiện đề tài, tuân thủ deadline đã đặt ra để có kết quả tốt nhất.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM:

  • Các Phương Pháp Dạy Học Trong Giáo Dục Mầm Non Hiện Đại Nhất
  • Tổng Hợp Các Nhiệm Vụ Của Giáo Dục Học Mầm Non Mới Nhất 2021

Video liên quan

Chủ Đề