Nguyên nhân làm cho xã hội nguyên thủy tan rã

Thị tộc trong xã hội nguyên thủy được hiểu là

Bộ lạc trong xã hội nguyên thủy được hiểu là

Cư dân nào trên thế giới là những người đầu tiên biết đúc và dùng đồ sắt?

Trong buổi đầu thời đại kim khí, kim loại nào được sử dụng sớm nhất?

Xã hội nguyên thủy đã có sự biến đổi như thế nào khi xuất hiện tư hữu?

Trong thị tộc, quan hệ giữa các thành viên trong lao động là quan hệ

Công việc thường xuyên và hàng đầu của thị tộc là

Tính cộng đồng trong xã hội nguyên thuỷ bị phá vỡ khi nào?

Ý nào sau đây không phải hệ quả do sự xuất hiện sản phẩm dư thừa tạo ra?

Yếu tố nào sau đây tạo nên cuộc cách mạng trong sản xuất thời nguyên thủy?

Yếu tố nào sau đây không xuất hiện trong giai đoạn thị tộc phụ hệ?

Vì sao trong xã hội nguyên thủy sự bình đẳng được coi là “nguyên tắc vàng”?

Con người thời đá mới có những bước tiến vượt bậc dựa trên cơ sở nào?

Giai đoạn dài nhất trong lịch sử phát triển của loài người là

Tổ chức xã hội đầu tiên của xã hội loài người là gì?

Nhận xét nào sau đây là đúng về sự xuất hiện của giai cấp?

Trong thị tộc, quan hệ giữa các thành viên trong lao động là

Vai trò của người đàn ông thay đổi thế nào khi gia đình phụ hệ xuất hiện?

Giai đoạn dài nhất trong lịch sử phát triển của loài người là

Xã hội nguyên thủy tan rã là một đề tài mà đến tận bây giời vẫn luôn là đề tài nghiên cứu của rất nhiều người. Tuy nhiên, có rất ít người có những kiến thức liên quan đến sự tan rã của xã hội nguyên thủy.

Chính vì thế, trong bài viết hôm nay chúng tôi sẽ cung cấp tới quý bạn đọc một số nội dung liên quan đến vấn đề: Vì sao xã hội nguyên thủy tan rã?

Cuộc sống của Người tinh khôn ở buổi ban đầu tuy có khá hơn so với Người tối cổ song họ cũng chỉ mới biết dùng đá để chế tạo công cụ lao động. Công cụ đá, dù được cải tiến không ngừng, không thể đem lại năng suất lao động cao được. Mãi đến khoảng thiên niên kỉ thứ IV TCN, con người mới phát hiện ra kim loại và dùng kim loại để chế tạo công cụ. 

Nhờ công cụ bằng kim loại, con người có thể khai phá đất hoang, tăng diện tích trồng trọt, có thể xẻ gỗ đóng thuyền, xẻ đá làm nhà.

Người ta có thể làm ra một lượng sản phẩm không chỉ đủ nuôi sống mình mà còn dư thừa. Một số người, do có khả năng lao động hoặc do chiếm đoạt một phần của cải dư thừa của người khác, đã ngày càng trở nên giàu có. Những người trong thị tộc giờ đây không thể cùng làm chung, hưởng chung. Xã hội nguyên thủy dần dần tan rã, nhường chỗ cho xã hội có giai cấp.

Nguyên nhân làm cho xã hội nguyên thủy tan rã

Công xã nguyên thủy

Công xã nguyên thủy là giai đoạn đầu tiên và cũng là giai đoạn dài nhất trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, từ khi có con người sản xuất hiện trên trái đất cho tới khi xã hội bắt đầu phân chia thành giai cấp và xuất hiện Nhà nước.

+ Nguyên nhân của tình trạng trì trệ đó là do sự phát triển hết sức thấp kém và chậm chạp của điều kiện lao động kiếm sống của con người. Gần như trong suốt quá trình phát triển của chế độ công xã nguyên thủy, nguyên liệu chủ yếu để chế tạo công cụ lao động là đá, một thứ nguyên liệu vừa cứng vừa giòn mà từ đó con người chỉ có thể chế tạo được những công cụ thô sơ nhất và muốn hoàn thiện nó cũng gặp rất nhiều khó khăn.

+ Kỹ thuật ghè đẽo tiến tới kỹ thuật mài đá đòi hòi sự tích lũy kinh nghiệm hàng vạn năm. Do trình độ kỹ thuật còn thấp kém, người nguyên thủy phải hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Hoàn cảnh đã bắt buộc họ phải liên kết với nhau trong lao động tập thể và trong đấu tranh sinh tồn.

Do đó, trong xã hội nguyên thủy không có chiếm hữu tư nhân, không xó người bóc lột và không có bộ máy chính quyền dưới bất cứ hình thức nào. Đó là một xã hội chưa có giai cấp, chưa có nhà nước nên được gọi là chế độ công xã nguyên thủy.

– Các giai đoạn của công xã nguyên thủy gồm:

+ Thứ nhất: Thị tộc và bộ lạc

Người tinh khôn có khả năng ăn tạp, ban đầu sống dựa theo hái lượm cây trái và săn bắt các con thú. Bên cạnh kỹ năng tự kiếm ăn, họ đã biết hợp ức nhau săn đuổi, tức là dùng số dông người bao vây lấy bầy động vật, dồn cho chúng lao xuống vực, sau đó mới ném đá, phóng lao xuống cho chúng chết hẳn. Do đó, những công việc như thế đòi hỏi sự phối hợp ăn ý với nhau.Người tinh khôn với số lượng nhất định, kế thừa lối sống trưởng tổ tiên, đã tổ chức thành thị tộc là những nhóm người gồm vài chục gia đình, có quan hệ gần gũi với nhau, thậm chí do cùng một bà mẹ đẻ ra (còn gọi là có quan hệ huyết thông với nhau), sống quây quần cùng làm chung ăn chung.

+ Thứ hai: Thời đại kim khí

Sự phát hiện ra kim loại để làm công cụ lao động có ý nghĩa hết sức to lớn. Trước kia con người chỉ biết sử dụng đá để làm công cụ. Cho tới khoảng 4000 năm Trước công nguyên, con người đã phát hiện ra đồng kim loại. Đồng kim loại rất mềm, nên chủ yếu dùng làm đồ trang sức. Sau đó, họ biết pha đồng với thiếc và chì cho đồng cứng hơn gọi là đồng thau.Từ đó, người ta đã đúc ra được các loại rìu, cuốc, thương giáo, lao, mũi tên, trống đồng. Nhờ có công cụ kim khí, con người có thể khai phá thêm đất hoang, tăng năng suất lao động, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, không chỉ đủ ăn mà còn dư thừa.

+ Thứ ba: Sự kết thúc của xã hội nguyên thủy

Do có công cụ lao động mới – tức sự xuất hiện các công cụ kim loại, một số người có khả năng lao động giỏi hơn, tạo ra nhiều của cải hơn dẫn tới sự dư thừa hoặc lợi dụng vị trí hay uy tín của mình để chiếm đoạt một phần của cải dư thừa của người khác và trở nên giàu có, còn một số người khác lại khổ cực thiếu thốn.Chế độ làm chung, ăn chung, hưởng chung ở thời kỳ công xã thị tộc bị phá vỡ. Xã hội nguyên thủy dần tan ra, nhường chỗ cho xã hội có giai cấp.

Khi xã hội nguyên thủy tan rã, người phương Đông thường tập trung ở lưu vực các con sông?

Khi xã hội nguyên thuỷ tan rã, vì điều kiện tự nhiên thuận lợi nên cư dân phương Đông đã tập trung khá đông trên lưu vực các con sông lớn để sinh sống. Các con sông đó như sông Nin ở Ai Cập, Ơ-phơ-rat và Ti-gơ-rơ ở Lưỡng Hà, sống Ấn, sông Hằng ở Ấn Độ, Hoàng Hà ở Trung Quốc.

Trên đây là những chia sẻ của chúng tôi về Vì sao xã hội nguyên thủy tan rã. Chúng tôi hi vọng rằng những chia sẻ từ bài viết sẽ hữu ích và giúp quý bạn đọc hiểu rõ được nội dung này. Nếu có thắc mắc về vấn đề này xin vui lòng liên hệ chúng tôi để được giải đáp. Xin cảm ơn!

Câu trả lời đúng nhất: Xã hội nguyên thủylà giai đoạn đầu tiên và dài nhất trong lịch sử phát triển của loài người, từ khi cócon ngườixuất hiện trênTrái Đấtđến khi xã hội nguyên thuỷ chuyển đổi thành xã hội giai cấp và xuất hiện chế độnhà nước. Nguyên nhân tan rã của xã hội nguyên thủychính là do tư hữu xuất hiện, từ đó con người không thể ăn chung, làm chung, xã hội bắt đầu hình thành giai cấp. Kể từ đó, xã hội nguyên thủy tan rã.

Để tìm hiểu thêm về nguyên nhân tan dã và các bước tiến trong xã hội nguyên thủy như thế nào? Hãy cùng Top lời giải tìm hiểu qua bài viết dưới đây!

1. Nguyên nhân tan rã của xã hội nguyên thủy

Nguyên nhân tan rã của xã hội nguyên thủychính là do tư hữu xuất hiện, từ đó con người không thể ăn chung, làm chung, xã hội bắt đầu hình thành giai cấp. Kể từ đó, xã hội nguyên thủy tan rã.

2. Thời gian tan rã của xã hội nguyên thủy

Xã hội nguyên thủy bị tan rãvào khoảngthiên niên kỷ thứ IV TCN. Khi mà con người bắt đầu phát hiện ra kim loại và tìm được cách chế tạo kim loại để sử dụng làm công cụ lao động.

>>> Xem thêm: Nguyên tắc vàng trong xã hội nguyên thủy

3. Những bước tiến trong lao động và đời sống của người nguyên thủy

a) Bước tiến trong lao động

- Khoảng 6 triệu năm trước đây, xuất hiện một loài vượn cổ đứng và đi bằng 2 chân, dùng tay để cầm nắm, ăn hoa quả...

- Khoảng 4 triệu năm trước đây, Vượn cổ chuyển hóa thành Người tối cổ, từ chỗ sử dụng những mảnh đá có sẵn để làm công cụ, Người tối cổ đã biết lấy những mảnh đá hay hòn cuội lớn, đem ghè một mặt cho sắc, vừa tay cầm. Như vậy, họ đã bắt đầu biết chế tác công cụ (rìu đá, chặt cây làm gậy để săn thú...).

- Khoảng 4 vạn năm trước Người tối cổ chuyển hóa thành Người tinh khôn hay người hiện đại. Họ biết ghè 2 rìa của một mảnh đá làm cho công cụ gọn và sắc hơn (rìu, dao, nạo...) lấy xương cá, cành cây mài và đẽo nhọn làm lao. Chế tạo cung tên là một thành tựu lớn trong quá trình chế tạo công cụ và vũ khí.

- Khoảng 1 vạn năm trước, loài người bước vào thời kì đá mới – một cuộc cách mạng. Nhiều công cụ lao động được chế tác với trình độ và lĩ thuật cao hơn trước (mài, khoan, cưa), công cụ có lỗ hoặc nấc để tra cán.

b) Trong đời sống

- Từ hái lượm, săn bắt người nguyên thủy chuyển sang săn bắn và hái lượm.

- Tìm ra lửa và biết giữ lửa để sưởi ấm và nướng chín thức ăn.

- Cùng với sự tiến bộ về công cụ lao động người nguyên thủy biết đến chăn nuôi và trồng trọt.

- Rời hang động, cư trú “nhà cửa” trở nên phổ biến.

- Con người biết làm sạch những tấm da thú để che thân, có khuy cài.

- Làm trang sức, chế tác nhạc cụ.

Những bước chuyển biến trên khiến cho cuộc sống của người nguyên thủy no đủ hơn, đẹp đẽ hơn, vui vẻ hơn và bớt lệ thuộc vào thiên nhiên hơn.

4. Thay đổi trong xã hội nguyên thủy khi tư hữu xuất hiện

Tư hữu xuất hiện dẫn tới sự thay đổi lớn trong xã hội nguyên thủy:

- Quan hệ cộng đồng bị phá vỡ

- Quan hệ gia đình cũng thay đổi theo, gia đình phụ hệ thay gia đình mẫu hệ.

- Thúc đẩy thêm sự phân biệt giàu – nghèo

- Xã hội thị tộc, bộ lạc bị phá vỡ, con người đứng trước ngưỡng cửa của thời đại có giai cấp có nhà nước.

5. Hình thái ý thức của xã hội nguyên thủy

a. Hình thái ý thức về ngôn ngữ

Hình thái ý thức đầu tiên của loài người có thể nói là ngôn ngữ. Tư duy và ngôn ngữ sinh ra và phát triển gắn liền với việc tiến hành lao động tập thể. Ngôn ngữ là một công cụ, một phương tiện dùng để giao thiệp, trao đổi tư tưởng nhằm đi đến chỗ hiểu biết nhau.

Tuy vậy, ngôn ngữ của người nguyên thủy chưa phong phú, chưa phức tạp lắm. Những từ căn bản còn nghèo nàn, nhất là những khái niệm trừu tượng thì rất là thiếu. Người ta dùng nhiều tên gọi khác nhau để chỉ những cây, những quả, những con thú, con chim… cụ thể khác nhau. Nhưng người ta thiếu những từ chỉ khái niệm trìu tượng: loài cây, loài quả, loài thú, loài chim… Trong quá trình lao động, do tích lũy được ngày càng nhiều những quan sát, những kinh nghiệm, những hiểu biết mới, tư duy và ngôn ngữ phát triển không ngừng.

Trong xã hội nguyên thủy, do sức sản xuất còn thấp kém, mọi hoạt động của con người đều là những hoạt động tập thể. Người ta cùng chung sản xuất, cùng chung tiêu thụ, đói thì cùng tìm ăn, no thì biết cất giữ thức ăn còn thừa, không ai giành lại một thứ gì của chung là của riêng cả. Cũng chưa nảy sinh một quan niệm gì về quyền tư hữu cả. Ý thức tư tưởng của con người lúc này là ý thức tư tưởng cộng sản chủ nghĩa nguyên thủy.

b. Hình thái ý thức về tôn giáo

Tôn giáo cũng làmột hình thái ý thứcnảy sinh dưới chế độ công xã nguyên thủy, vào hậu kỳ thời đại đồ đá cũ. Ở thời kỳ bầy người nguyên thủy chưa có tôn giáo, những tín ngưỡng tôn giáo tương đối có hệ thống chỉ xuất hiện ở hậu kỳ thời đại đồ đá cũ. Lúc ấy, lao động sản xuất còn ở trình độ rất thấp kém. Con người cảm thấy mình bất lực trước thiên nhiên, sinh lòng mê tín thần linh, ma quỷ. Đó chính là nguồn gốc và cơ sở của tôn giáo.

Thị tộc nguyên thủy nào cũng có một tín ngưỡng tô-tem riêng, tức là một động vật, một thực vật, hay một hiện tượng tự nhiên nào đó, được thị tộc sùng bái, cho là có quan hệ mật thiết với thị tộc, dùng để tượng trưng cho thị tộc, che chở, phù hộ thị tộc, giúp đỡ thị tộc săn bắn, chăn nuôi hay trồng trọt. Thị tộc thường lấy tên tô-tem để đặt tên cho mình. Tín ngưỡng tô-tem phát sinh một mặt là do sự phát triển của sự phân công thành nhiều ngành nghề khác nhau giữa người nguyên thủy, mỗi ngành nghề có một tô-tem riêng, mặt khác là do sự phân chia thành thị tộc và bộ lạc khác nhau, do đó cần dùng tô-tem để phân biệt. Nhưng từ vật tô-tem phát triển thành tín ngưỡng tô-tem, ý thức của người nguyên thủy đã nhuốm màu sắc tôn giáo rồi.

Một hình thái khác nữa của tôn giáo nguyên thủy là sự thờ cùng tổ tiên. Dưới chế độ thị tộc phát triển cao, lòng kính trọng và biết ơn đối với những người già cả hay có công lao với thị tộc đã chết chị, được biểu hiện thành sự sùng bái tổ tiên. Họ tin rằng linh hồn của tổ tiên có thể phù hộ cho con cháu trong thị tộc.

c. Hình thái ý thức về nghệ thuật thời kỳ đồ đá

Nghệ thuật cũng là một hình thái ý thức xã hội nảy sinh ở thời đại nguyên thủy, vào hậu kỳ thời đại đồ đá cũ. Nguồn gốc chung của nghệ thuật nguyên thủy là thực tiễn lao động sản xuất của con người. Nó là hình thức biểu hiện của nhận thức, tình cảm và tư tưởng của con người qua thực tiễn lao động, chứ không phải là hoàn toàn vì mục đích thẩm mỹ, “vì nghệ thuật” mà có sáng tác nghệ thuật. Loài người trong thời nguyên thủy quyết không có cái nhàn hạ để thỏa mãn cái ý muốn thẩm mỹ của mình bằng những biểu tượng nghệ thuật. Nghệ thuật thời đó chỉ là do yêu cầu của đời sống thực tế mà có. Mục đích của nó là nhằm phục vụ sản xuất. Hội họa, điêu khắc, âm nhạc, ca hát, nhảy múa, trang sức,… đều gắn chặt với sinh hoạt tập thể của mọi thành viên trong thị tộc.

Trong xã hội thị tộc, lúc đầu, kinh tế săn bắn còn thịnh, cho nên nghệ thuật ở thời kỳ này đã có những chủ đề rất phong phú về động vật và về những cuộc đấu tranh với động vật như những bức họa trong hang động về bò rừng, voi ma mút, ngựa, hươu, dê rừng,… và về những cảnh đi săn bắn. Những đồ đựng và đồ trang sức bằng đá, gỗ, xương, ngà voi cũng tạo phỏng theo hình dáng của các động vật thời đó. Ngoài ra, người nguyên thủy cũng có tạc tượng bằng ngà voi và sừng, đặc biệt là những tượng phụ nữ, tượng trưng cho sự bảo tồn và phát triển của thị tộc và của giống nòi.

-----------------------

Trên đây là các kiến thức về xã hội nguyên thủy. Qua bài viết này, mong rằng các bạn sẽ bổ sung thêm cho mình thật nhiều kiến thức và học tập thật tốt nhé! Cảm ơn các bạn đã theo dõi và đọc bài viết!