Nguyên nhân hình thành nhà nước tư sản

a) Nguyên nhân hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

Đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã chỉ rõ: Chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là khuynh hướng tất yếu. Nhưng chỉ đến những năm 50 của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước mới trở thành một thực thế rõ ràng và là một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Dựa vào tư tưởng của V.I.Lênin, có thể nhận thấy nguyên nhân dẫn đến sự hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là do:

Một là, tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụ và tập trung sản xuất càng cao, do đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, yêu cầu kế hoạch hóa tập trung từ mội trung tâm. Nói cách khác, sự phát triển hơn nữa của trình độ xã hội hóa lực lượng sản xuất đã dẫn đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn bộ xã hội quản lý nền sản xuất. Lực lượng sản xuất xã hội hóa ngày càng cao mâu thuẫn gay gắt với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, do đó tất yếu đòi hỏi phải có một hình thức mới của quan hệ sản xuất để lực lượng sản xuẩt có thể tiếp tục phát triển trong điều kiện còn sự thống trị của chủ nghĩa tư bản. Hình thức mới đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh vì đầu tư lớn. Thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải, nghiên cứu khoa học cơ bản,... đòi hỏi nhà nước tư sản phải đứng ra đảm nhiệm kinh doanh các ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.

Ba là, sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải có những chính sách để xoa dịu những mâu thuẫn đó như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã hội...

Bốn là, cùng với xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các nhà nước của các quốc gia tư sản để điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế.

Ngoài ra, chiến tranh thế giới cùng với đó là tham vọng giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh, việc đối phó với xu hướng xã hội chủ nghĩa mà Cách mạng Tháng Mười Nga chính là tiếng chuông báo hiệu bắt đầu một thời đại mới, làm cho nhà nước tư bản độc quyền phải can thiệp vào kinh tế.

b)Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

Xét về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế và thể chế thống nhắt, rrong đó nhò nước tư sản bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và can thiệp vào các quá trình kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc quyền về cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Nó là sự thống nhất của ba quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh kinh tế của độc quyền tư nhân với sức mạnh chính trị của nhà nước trong một thể thống nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.

V.I.Lênin chỉ ra rằng: "Bọn đầu sỏ tài chính dùng một mạng lưới dày đặc những quan hệ lệ thuộc để bao trùm hết thảy các thiết chế kinh tế và chinh trị,... đó là biểu hiện rõ rệt nhất của sự độc quyền ấy". Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước đã trở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Nó cũng là chủ sở hữu những xí nghiệp, cũng tiến hành kinh doanh, bóc lột lao động làm thuê như một nhà tư bản thông thường. Nhưng điểm khác biệt là ở chỗ: ngoài chức năng chính trị và các công cụ trấn áp xã hội như quân đội, cảnh sát, nhà tù.... Ph.Ăngghen cũng cho rằng: nhà nước đó vẫn là nhà nước của các nhà tư bản, là nhà tư bản tập thể lý tưởng và nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành nhà tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu.

Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội chứ không phải là mội chính sách trong giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản.

Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó thống trị, song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có sự biến đổi thích hợp đối với xã hội đó. Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản chủ yếu can thiệp bằng bạo lực và theo lối cưỡng bức siêu kinh tế. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở bên trên, bên ngoài quá trình kinh tế, vai trò của nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và pháp luật. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền, vai trò của nhà nước tư sản dần dần có sự biến đổi, không chỉ can thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà còn có vai trò tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng các biện pháp đòn bẩy kinh tế vào tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất: sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. làm cho chu nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử mới.

Loigiaihay.com

Từ khóa liên quan số lượng

Câu hỏi ngày hỏi

Kiểu nhà nước tư sản là gì?

Nội dung này được THƯ VIỆN PHÁP LUẬT tư vấn như sau:

  • Kiểu nhà nước tư sản là kiểu nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trong lòng hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa.

    Nhà nước tư sản có những đặc điểm sau: thiết lập nguyên tắc chủ quyền nhà nước trên danh nghĩa thuộc về nhân dân; cơ quan lập pháplà cơ quan đại diện của các tầng lớp dân cư trong xã hội do bầu cử lập nên; thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực và kiềm chế, đối trọng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng trong bầu cử nghị viện và tổng thống; hình thức chính thể phổ biến của nhà nước tư sản là cộng hòa và quân chủ lập hiến.


Nguồn:

THƯ VIỆN PHÁP LUẬT

Kiểu nhà nước tư sản và kiểu nhà nước phong kiến. Bản chất giai cấp của nhà nước tư sản. Hình thức nhà nước tư sản và nhà nước phong kiến.

MỞ ĐẦU

Trong lịch sử xã hội loài người đã có bốn hình thái kinh tế xã hội, ứng với mỗi hình thái kinh tế xã hội là bốn kiểu nhà nước. Đó là nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tứ sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhìn chung sự thay thế các kiểu nhà nước phát triển theo hướng đi lên, kiểu nhà nước sau ra đời tiến bộ hơn kiểu nhà nước trước. Xét trong hai kiểu nhà nước phong kiến và tư sản, ta thấy nhà nước tư sản có sự phát triển vượt trội so với nhà nước phong kiến, thể hiện ở sự hoàn thiện về mặt bản chất, chức năng, tổ chức bộ máy nhà nước và hình thức nhà nước. 

NỘI DUNG

I. Khái quát chung về nhà nước tư sản và nhà nước phong kiến

1. Nhà nước phong kiến 

Nhà nước phong kiến là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến, cơ sở hình thành của nhà nước là quan hệ sản xuất phong kiến mà đặc trưng là chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp này. Các địa chủ phong kiến nắm trong tay đủ mọi quyền lực, còn nông dân chỉ có quyền sở hữu nhỏ phụ thuộc vào địa chủ và hầu như không có quyền gì.

2. Nhà nước tư sản

Khi nền kinh tế hàng hóa thị trường phát triển, sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đòi hỏi con người phải có quyền tự do bình đẳng, hội họp kinh doanh và đảm bảo quyền sở hữu tài sản. Chế độ phong kiến hà khắc đã không còn phù hợp với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì thế các cuộc cách mạng dân chủ tư sản liên tiếp nổ ra dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản, lật đổ nhà nước phong kiến, thiết lập nhà nước tư sản, mở đường cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển. Các nhà nước tư sản đầu tiên ra đời sau cách mạng dân chủ tư sản là Hà Lan, Anh, Pháp… 

II. Điểm tiến bộ cơ bản của nhà nước tư sản so với nhà nước phong kiến

1. Sự tiến bộ về bản chất nhà nước tư sản so với nhà nước phong kiến

Qua mỗi kiểu nhà nước bản chất nhà nước có sự thay đổi rõ rệt theo hướng phát triển hơn, dân chủ hơn. Xét trong hai kiểu nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản ta có thể thấy:

Ở nhà nước phong kiến: Quyền lực nhà nước chủ yếu được sử dụng để áp bức nhân dân lao động. Người nông dân dù đã được giải phóng nhưng vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào địa chủ phong kiến. Nhà nước phong kiến là công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp địa chủ, bảo vệ trật tự xã hội. Tuy nhiên những hoạt động này nhằm bảo vệ chế độ cai trị của giai cấp địa chủ chứ không phục vụ lợi ích của nhân dân lao động.

Ở nhà nước tư sản: Người lao động nhìn chung đã được tự do, bình đẳng, dựa trên chế độ làm thuê tự nguyện giữa nhân dân lao động và ông chủ. Về mặt hiến định, nhà nước tư sản đã khẳng định tất cả quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, chủ quyền tối cao của nhà nước thuộc về nhân dân và cơ quan lập pháp đại diện cho toàn thể nhân dân.

Về mặt thực tiễn, các cơ quan ở tất cả các nhà nước tư sản hiện nay đều do bầu cử thành lập nên. Bản chất của nhà nước tư sản là công cụ thiết lập và bảo vệ chế độ dân chủ tư sản-chế độ dân chủ về mặt pháp lí các quyền lợi hợp pháp của mọi công dân thông qua cơ quan đại diện hoặc các biện pháp dân chủ trực tiếp.

Nguyên nhân hình thành nhà nước tư sản

Xem thêm: Phong kiến là gì? Xã hội phong kiến và nhà nước phong kiến?

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568

2. Sự tiến bộ về chức năng của nhà nước tư sản so với nhà nước phong kiến

Nếu so sánh hai kiểu nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản chúng ta thấy: ngoài bốn chức năng vốn có, phản ánh trực tiếp tính chất giai cấp của nhà nước là bảo vệ và duy trì chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, đàn áp sự phản kháng của nhân dân lao động bằng bạo lực,đàn áp nhân dân lao động về tư tưởng, tiến hành chiến tranh xâm lược nhằm nô dịch dân tộc khác, Nhà nước tư sản còn có những mặt tiến bộ về chức năng so với Nhà nước phong kiến.

Thứ nhất là về chức năng kinh tế xã hội , ở giai đoạn tự do cạnh tranh Nhà nước tư sản chưa can thiệp sâu vào đời sống kinh tế, nhưng trong các giai đoạn sau, hoạt động kinh tế của Nhà nước tư sản ngày càng mở rộng và dần dần trở thành chức năng cơ bản của nó.

Nội dung chủ yếu của các hoạt động kinh tế đó gồm: xác lập và thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển KT-XH cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử, hoạch định và thực hiện chính sách tài chính-tiền tệ nhằm ngăn ngừa tình trạng lạm phát, bảo hộ đồng tiền trong nước , xây dựng và thực hiện chính sách đầu tư hợp lý vào các ngành kinh tế, tăng cường hợp tác, quan hệ kinh tế,thương mại với nước ngoài.

Một trong những điểm tiến bộ của Nhà nước tư sản đó là nhiều Nhà nước đã chú ý đến việc giải quyết các vấn đề xã hội vì quốc kế dân sinh. Một số Nhà nước đã thực hiện cải cách giáo dục, phổ cập giáo dục bắt buộc cho công dân,tăng đầu tư ngân sách để phát triển giáo dục, ban hành và thực hiện nhiều chính sách xã hội như việc làm cho người lao động, trợ cấp thất nghiệp, dân số, bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh xã hội…

Ví dụ: tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã ra quyết định hỗ trợ các doanh nghiệp lắp ráp ô tô của Pháp hang tỷ Euro để các doanh nghiệp này đảm bảo việc làm cho người lao động ( Theo tin Đài truyền hình Việt Nam ngày 10/02/2009).

Thứ hai: chức năng xúc tiến việc thành lập các liên minh kinh tế, quân sự trên thế giới, tham gia vào quá trình phân công quốc tế, thúc đẩy khuynh hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế, xu hướng toàn cầu hóa và tham gia vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì các vấn đề toàn cầu. Nhìn chung trong thời kỳ phong kiến, các quan hệ ngoại giao và hữu nghị giữa các quốc gia chưa thực sự phát triển vì các Nhà nước phong kiến chưa chú trọng đến việc thực hiện chức năng này và nó chỉ giữ vai trò thứ yếu.

Thậm chí có nhiều triều đại phong kiến còn thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng trong mối quan hệ với bên ngoài thì đương nhiên chức năng này không được quan tâm đến. Nhưng đối với Nhà nước tư sản thì đây là chức năng đặc biệt được chú ý. Từ sau những năm 1950, một số liên minh kinh tế của các Nhà nước tư sản đã hình thành và ngày càng phát triển, mở rộng như: khối thị trường chung châu Âu (EEC),…

Xem thêm: So sánh nhà nước phong kiến phương Đông và phương Tây

3. Sự tiến bộ về tổ chức bộ máy của nhà nước tư sản so với nhà nước phong kiến

Bộ máy nhà nước tư sản có sự phát triển, hoàn thiện rất đáng kể so với nhà nước phong kiến về cả tồ chức và hoạt động. Cụ thể:

Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ngày càng trở nên hoàn chỉnh, mang tính chuyên môn hóa cao. Trong bộ máy nhà nước ngày càng có đầy đủ cơ quan nhà nước để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước do yêu cầu, đòi hỏi của xã hội. Việc tổ chức bộ máy nhà nước hết sức chặt chẽ, cách thức tổ chức khoa học, tất cả các điều này đều được quy định cụ thể, rõ ràng trong pháp luật.

Nguyên tắc phân chia quyền lực đã thể hiện rõ sự tiến bộ trong tổ chức và hoạt động của nhà nước tư sản so với nhà nước phong kiến. Nếu như ở nhà nước phong kiến, người nắm quyền hành tối cao là nhà vua, mọi quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều tập trung vào một người dễ gây tình trạng chuyên quyền, độc đoán, lạm quyền thì nhà nước tư sản xây dựng trên nguyên tắc phân chia quyền lực.

Quyền lực nhà nước được chia thành ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp; các quyền này được trao cho các cơ quan nhà nước khác nhau, như Nghị viện hay Quốc hội nắm quyền lập pháp, Chính phủ nắm quyền hành pháp và quyền tư pháp thuộc về Tòa án. Các cơ quan này hoạt động độc lập với nhau, có thể kiềm chế và đối trọng với nhau hoặc kiểm soát lẫn nhau trong quá trình hoạt động theo nguyên tắc “quyền lực ngăn cản quyền lực”;vậy nên tình trạng lạm quyền, lộng quyền trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước được hạn chế.

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thể hiện rõ tính dân chủ cũng là một điểm tiến bộ rõ nét của nhà nước tư sản so với nhà nước phong kiến. Điều này được thể hiện ở nguyên tắc dân chủ: công dân có quyền tham gia bầu cử hoặc ứng cử vào các cơ quan đại diện của nhà nước khi có đủ điều kiện do luật định, đều có thể được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào các vị trí nhất định trong bộ máy nhà nước khi đáp ứng được các yêu cầu cần thiết.

Có thể hiểu, ở đây công dân có quyền tham gia vào việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; ngoài ra,trong một chừng mực nhất định công dân có thể kiểm tra, giám sát các hoạt động của các nhân viên, cơ quan nhà nước. Việc làm này ở nhà nước phong kiến là chưa từng xảy ra.

4. Sự tiến bộ về hình thức nhà nước tư sản so với hình thức nhà nước phong kiến

Về mặt chính thể, nhà nước tư bản đã có những bước phát triển tiến bộ hơn so với nhà nước phong kiến, người dân đã có quyền bầu ra cơ quan đại diện cho mình, quyền lực của giai cấp thống trị đã phần nào bị hạn chế. Bộ máy nhà nước cũng đã thể hiện tính dân chủ, đã có sự phân quyền, không còn tập trung quyền lực trong tay một cơ quan đứng đầu.

Cụ thể: Nếu như ở nhà nước phong kiến là chính thể quân chủ chuyên chế: quyền lực tối cao của nhà nước nằm trong tay nhà vua và duy trì theo nguyên tắc thừa kế, con của vua thì mới được làm vua; thì ở nhà nước tư sản, tồn tại chính thể quân chủ chuyên chế và chính thể cộng hòa. Ở chính thể quân chủ lập hiến, quyền lực của vua bị hạn chế bởi cơ quan dân cử (Nghị viện); ở chính thể cộng hòa tổng thống: tổng thống do dân bầu ra, tổng thống lập ra chính phủ; chính thể cộng hòa đại nghị: nghị viện thành lập do nhân dân bầu cử, nghị viện lập ra tổng thống, tổng thống phải chịu trách nhiệm trước nghị viện.

Xem thêm: Nguyên tắc phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

Về cấu trúc, nhà nước tư sản hình thành những cấu trúc mới như liên bang, liên minh: Các bang, vùng lãnh thổ hoặc các quốc gia độc lập liên kết với nhau, mỗi bang, mỗi nhà nước có một chính phủ, hiến pháp, pháp luật riêng tuy nhiên phải lấy hiến pháp chung làm căn bản, cùng nhau hợp tác phát triển mọi mặt kinh tế, chính trị, quân sự,… Một số nhà nước liên bang như: Hoa Kỳ, Canada, Nga,… và lien minh lớn như Liên minh Châu Âu EU.

Về chế độ chính trị, nếu như ở nhà nước phong kiến là chế độ phản dân chủ hay chế độ dân chủ nhưng chỉ biểu hiện rất hạn chế thì nhà nước tư sản, chế độ dân chủ đã thể hiện rõ ràng hơn và không còn bị hạn chế như nhà nước phong kiến. Thể hiện cụ thể ở các điểm sau: Tất cả quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, chủ quyền tối cao của nhà nước thuộc về nhân dân; Trong hiến pháp và pháp luật đã thừa nhận công dân có khả năng sử dụng các quyền tự do dân chủ, có sự thừa nhận về mặt pháp lí quyền bình đẳng trước pháp luật; Tồn tại công khai các đảng cầm quyền và đảng đối lập cũng như các tổ chức xã hội đoàn thể công chúng, được tự do tranh cử trong bầu cử nghị viện và tổng thống…

KẾT LUẬN

Tóm lại, nhà nước tư sản đã có những bước tiến bộ đáng kể so với nhà nước phong kiến dựa trên cả bốn mặt: bản chất, chức năng, tổ chức bộ máy và hình thức của nhà nước. Sự xuất hiện của nhà nước tư bản là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của nhân loại, quan hệ giữa các giai cấp đã bớt gay gắt hơn cùng với những phát minh khoa học mới thúc đẩy nền kinh tế tư bản phát triển. Nhà nước tư sản đã thay thế cái lạc hậu, lỗi thời của nhà nước phong kiến trước và đặc biệt tính dân chủ đã được cải thiện rõ rệt. Sự tiến bộ này là hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển tự nhiên của Thế Giới.