Lấy những ví dụ cụ thể về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

Mình chỉ trả lời phần chứng minh thôi còn phân tích có trong tài liệu rồi. Ý thức XH thường lạc hậu hơn so với TTXH ví dụ là tư tưởng trọng nam khinh nữ; YTXH có tính vượt trước TTXH vd là dự đoán của bác về việc đất nước ta sẽ thống nhất vào khoảng những năm 74,75;YTXH có tính kế thừa trong sự phát triển vd là lòng yêu nước;sự tác động qua lại giữa các hình thái YTXH vd là ở đức cuối tk 19 triết học & văn học là công cụ quan trọng để tuyên truyền tư tưởng chính trị,là vũ đài đấu tranh ctrị của các LLXH tiên tiến; YTXH tác động trở lại TTXH vd là việc người dân tự ý thức về trách nhiệm đội mụ bảo hiểm của mình.

THỨC XÃ HỘI:

mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm nhiều cấp độ khác nhau: ý thức đời thường, ý thức lí luận, tâm lí xã hội, hệ tư tưởng. YTXH phản ánh tồn tại xã hội, hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của tồn tại xã hội; khi tồn tại xã hội thay đổi thì YTXH sớm muộn cũng thay đổi theo. YTXH là do tồn tại xã hội quyết định, nhưng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội. Trong xã hội có giai cấp, YTXH mang tính giai cấp, mỗi giai cấp đều có tâm lí và hệ tư tưởng riêng của giai cấp đó. Ý thức chiếm địa vị thống trị trong xã hội là ý thức của giai cấp thống trị. Trong lịch sử, ý thức của các giai cấp bóc lột thống trị [chủ nô, địa chủ phong kiến, tư sản] chỉ có nội dung tiến bộ khi lợi ích của các giai cấp ấy còn phù hợp với lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân, và trở thành phản động khi lợi ích của họ mâu thuẫn gay gắt với lợi ích của quần chúng. Trong thời đại ngày nay, ý thức của giai cấp vô sản, chủ nghĩa Mac - Lênin, là ý thức cách mạng và tiến bộ nhất vì phù hợp với tiến trình tất yếu của lịch sử.

Ý thức xã hội là toàn bộ các lĩnh vực tinh thần của đời sống, là nội dung rất quan trọng trong môn Triết học. Tuy nhiên rất nhiều người lại không nắm rõ các nội dung này để làm bài kiểm tra, bài thi và nghiên cứu đạt kết quả cao. Bài viết này chúng tôi sẽ chia sẻ cho các bạn về nội dung tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, mời các bạn cùng theo dõi những thông tin bên dưới đây.

Theo Giáo trình Triết học của Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội năm 2007 đã viết:

“Ý thức xã hội là một khái niệm triết học dùng để chỉ các hình thái khác nhau của tinh thần ở trong đời sống xã hội. Bao gồm những tư tưởng, quan điểm, tâm trạng, tình cảm, thói quen, phong tục, tập quán, truyền thống,… của cộng đồng được sinh ra trong quá trình xã hội tồn tại và phản ánh sự tồn tại xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ý thức xã hội chỉ là một bộ phận của đời sống tinh thần”.

Tìm hiểu về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

Có thể hiểu đơn giản như sau: ý thức xã hội là toàn bộ lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, gồm những tư tưởng, tình cảm tâm trạng, nảy sinh ra từ tồn tại xã hội và phản ánh sự tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội nhất định.

Bản chất của ý thức xã hội:

  • Là sự phản ánh của tồn tại xã hội và do tồn tại xã hội quyết định.
  • Có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với sự tồn tại xã hội.
  • Giữa các hình thái của ý thức xã hội luôn có sự xâm nhập, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau.
  • Có thể tác động mạnh mẽ đến tồn tại xã hội, thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội nếu phản ánh đúng quy luật vận động hay thậm chí còn kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội khi phản ánh không đúng quy luật vận động của tồn tại xã hội.

Khi khẳng định về vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã không xem ý thức xã hội là một yếu tố thụ động mà còn nhấn mạnh về tác dụng tích cực của nó đối với đời sống kinh tế – xã hội; nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội ở trong mối quan hệ với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối được biểu hiện rõ nét ở những điểm sau đây:

Lịch sử xã hội đã cho thấy, nhiều lúc tồn tại xã hội cũ đã bị mất đi, nhưng ý thức xã hội cũ tương ứng lại vẫn còn tồn tại dai dẳng. Điều đó đã biểu hiện ý thức xã hội muốn thoát ly ra khỏi sự ràng buộc của tồn tại xã hội và tính độc lập tương đối.

Ý thức xã hội luôn lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội

 Sở dĩ, nó có những biểu hiện đó là do nguyên nhân sau:

  • Sự biến đổi của tồn tại xã hội thường được diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội không thể phản ánh kịp và trở nên lạc hậu hơn. Hơn nữa, ý thức xã hội lại là cái phản ánh cho sự tồn tại xã hội nên chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
  • Do sức mạnh của thói quen, truyền thống và tập quán cũng như do tính lạc hậu và bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
  • Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, những giai cấp và lực lượng phản tiến bộ thường sẽ lưu giữ một số tư tưởng có lợi cho họ nhằm chống lại các lực lượng mong muốn xã hội tiến bộ.

Như vậy, ý thức lạc hậu và tiêu cực không thể mất đi một cách dễ dàng. Vậy nên trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới cần phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại các âm mưu, hành động phá hoại từ những lực lượng đối lập về mặt tư tưởng và kiên trì xoá bỏ những tàn dư của ý thức cũ.

Triết học Mác – Lênin đã thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định thì tư tưởng của con người, nhất là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước cả sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo trước được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo các hoạt động thực tiễn của con người.

Sở dĩ ý thức xã hội có thể vượt trước được là bởi đặc điểm của tư tưởng khoa học quy định. Tư tưởng khoa học thường khái quát được tồn tại xã hội đã có và có thể rút ra những quy luật phát triển chung cho xã hội. Quy luật đó không những phản ánh đúng về quá khứ, hiện tại mà còn dự báo đúng của tồn tại xã hội ở tương lai.

Ví dụ như: Ngay từ khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn còn đang ở trong thời kỳ phát triển tự do cạnh tranh thì Các Mác đã đưa ra dự báo rằng quan hệ sản xuất đó nhất định sẽ bị một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn thay thế trong thời gian tới.

Khi nói về tư tưởng tiến bộ có thể vượt trước được tồn tại xã hội thì không có nghĩa là ý thức xã hội không phải chịu quyết định của tồn tại xã hội. Mà cho đến cùng thì nó luôn luôn bị tồn tại xã hội quy định.

Lịch sử phát triển đời sống tinh thần xã hội đã cho thấy rằng, những quan điểm lý luận ở mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không. Mà nó được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại đi trước.

Ví dụ như: Chủ nghĩa Mác đã kế thừa được những tinh hoa tư tưởng của loài người mà trực tiếp chính là nền triết học Đức, kinh tế học cổ điển của Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp.

Ý thức luôn có tính kế thừa trong quá trình phát triển

Trong xã hội có phân chia giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội luôn gắn liền với tính chất giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau sẽ kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại đi trước. Các giai cấp tiên tiến thường sẽ kế thừa những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ đã để lại. 

Ví dụ: Khi làm cuộc cách mạng tư sản chống lại chế độ phong kiến, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản đã khôi phục được những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời đại cổ đại.

Ngược lại, với những giai cấp lỗi thời thì sẽ tiếp thu và khôi phục lại những tư tưởng, lý thuyết lỗi thời của các thời kỳ lịch sử trước đó. Thí dụ như: Vào nửa sau của thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thế lực tư sản phản động đã khôi phục và phát triển những trào lưu của triết học duy tâm, tôn giáo dưới những tên gọi mới như chủ nghĩa Cantơ mới, chủ nghĩa Tômát nhằm chống lại các phong trào cách mạng của giai cấp công nhân.

Vì vậy, khi tiến hành các cuộc đấu tranh trên lĩnh vực ý thức thì cần phải vạch ra các tính chất phản khoa học của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện tại. Đồng thời còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của chúng trong lịch sử nữa.

Do ý thức xã hội có tính kế thừa nên khi nghiên cứu một tư tưởng nào đó thì phải dựa vào quan hệ kinh tế hiện tại và phải chú ý đến từng giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó nữa. Có như vậy mới hiểu rõ được vì sao một nước có trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng lại có tư tưởng ở trình độ cao. 

Ví dụ: Nước Đức ở đầu thế kỷ XIX rất lạc hậu về kinh tế nhưng lại đứng ở trình độ cao hơn về lĩnh vực triết học.

Nắm vững các quan điểm kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay trên các lĩnh vực văn hoá, tư tưởng. Đảng và nhà nước ta đã khẳng định, trong điều kiện mở rộng giao lưu quốc tế cần phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa của các dân tộc khác ở trên thế giới, làm giàu và đẹp hơn cho nền văn hoá Việt Nam.

Ý thức xã hội có rất nhiều bộ phận, nhiều hình thái khác nhau. Theo nguyên lý mối liên hệ thì các bộ phận đó không tách rời nhau, mà thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động đó làm cho mỗi hình thái ý thức luôn có những mặt, những tính chất không phải là kết quả phản ánh một cách trực tiếp của sự tồn tại xã hội.

Lịch sử phát triển của ý thức xã hội đã cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại tuỳ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà những hình thái ý thức nổi bật lên hàng đầu sẽ tác động mạnh đến những hình thái khác. Chẳng hạn như ở thời cổ đại Tây Âu thì triết học và nghệ thuật đóng vai trò rất đặc biệt. Thời Trung Cổ ở Tây Âu thì tôn giáo có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học, nghệ thuật và pháp quyền… Ngày nay thì hệ tư tưởng của chính trị và khoa học đang tác động mạnh đến các lĩnh vực của đời sống tinh thần xã hội.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống đối lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá về vai trò của ý thức xã hội mà còn bác bỏ luôn quan điểm duy vật tầm thường khi đã phủ nhận tác động tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.

Ý thức xã hội luôn tác động đến tồn tại xã hội

Ph.Ăngghen đã viết: “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, … đều dựa vào sự phát triển của kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng đều có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”.

Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội còn phải phụ thuộc vào từng điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà tư tưởng đã nảy sinh trên đó; vào vai trò lịch sử của các giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng và vào mức độ mở rộng của những tư tưởng trong quần chúng.

Chẳng hạn như hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội của các nước Tây Âu vào thế kỷ XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản đã trở thành vũ khí về mặt tư tưởng cho giai cấp vô sản đứng lên đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản.

Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội được biểu hiện qua hai chiều hướng. Nếu ý thức xã hội tiến bộ thì sẽ có tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, còn ý thức xã hội lạc hậu sẽ gây cản trở cho sự phát triển của tồn tại xã hội.

Như vậy, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử nói về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đã chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội. Nó đã bác bỏ quan điểm siêu hình, máy móc và tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

Bên trên là những thông tin chúng tôi chia sẻ cho các bạn về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Hy vọng bài viết sẽ giúp ích cho các bạn trong việc đạt được điểm cao trong đề kiểm tra, đề thi và nghiên cứu khoa học của môn triết.

||Bài viết liên quan khác:

Nguồn: giamayruaxe.net

Video liên quan

Chủ Đề