Giaá cả hàng hóa do yếu tố nào quyết định năm 2024
Giá trị kinh tế: nghĩa là được chi phí bởi lao động; Sự hạn chế để đạt được nó, nghĩa là độ khan hiếm; Giá trị sử dụng của hàng hóa là ích dụng của hàng hóa thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Ví dụ, công dụng của một cái kéo là để cắt nên giá trị sử dụng của nó là để cắt; công dụng của bút để viết nên giá trị sử dụng của nó là để viết. Một hàng hóa có thể có một công dụng hay nhiều công dụng nên nó có thể có nhiều giá trị sử dụng khác nhau; Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Cả quần áo và thóc lúa đều là sản phẩm của quá trình sản xuất thông qua lao động, là sản phẩm của lao động, có lao động kết tinh vào trong đó. Có sự chi phí về thời gian, sức lực và trí tuệ của con người khi sản xuất chúng. Giá trị hao mòn của tài sản là sự giảm dần giá trị sử dụng và giá trị của tài sản do tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, do được sử dụng theo mục đích sử dụng của tài sản, do bào mòn của các yếu tố tự nhiên, do tiến bộ kỹ thuật… trong quá trình hoạt động của tài sản (TĐGVN08) Giá trị hao mòn luỹ kế của tài sản là tổng mức giảm giá của tài sản gây ra do hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình, tính đến thời điểm cần thẩm định giá. (TĐGVN08) Giá trị sử dụng của một vật phẩm là tính chất có ích, công dụng của vật thể đó có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó cho việc sản xuất hoặc cho sự tiêu dùng cá nhân. Giá trị sử dụng được quyết định bởi những thuộc tính tự nhiên và những thuộc tính mà con người hoạt động tạo ra cho nó. Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỉ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại hàng hoá này được trao đổi với một giá trị sử dụng khác, trên một cơ sở chung, cái chung đó là lao động (thời gian lao động và công sức lao động) được chứa đựng trong hàng hoá, đó chính là cơ sở giá trị của hàng hoá. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị trao đổi của hàng hoá, Về nghĩa rộng đó là số tiền phải trả cho một hàng hoá, một dịch vụ, hay một tài sản nào đó; Giá cả của hàng hoá nói chung là đại lượng thay đổi xoay quanh giá trị. Giá trị của Tiền tệ: Giá trị của tiền tệ là số lượng hàng hóa và dịch vụ mua được bằng một đơn vị của tiền tệ. Nói một cách khác giá trị của tiền tệ là nghịch đảo của giá cả hàng hóa. Tiền tệ có giá trị không phải vì nó có giá trị tự thân mà vì những gì tiền tệ có thể trao đổi được; Giá cả của tiền tệ chính là lãi suất, nói một cách khác, giá cả của tiền tệ là số tiền mà người ta phải trả cho cơ hội được vay nó trong một khoảng thời gian xác định Giá cả của hàng hóa trên thị trường biểu hiện và được quyết định bởi các yếu tố như giá trị hàng hóa, quan hệ cung – cầu trên thị trường, tiền tệ. Trong đó, thị trường là môi trường để vòng lặp lợi nhuận này tiếp diễn. Nó kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực trong nền kinh tế tạo ra giá trị sản phẩm và đưa ra giá cả cho sản phẩm nhằm mang lại lợi nhuận cho chủ thể kinh doanh. “Giá Cả Của Hàng Hóa Là Gì?” Đây là câu hỏi quan trọng mà chúng ta thường đặt ra khi nói đến việc mua bán và tiêu dùng hàng hóa. Giá cả không chỉ đơn thuần là một con số, mà còn phản ánh sự tương hỗ giữa cung và cầu, và có ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Bài viết sau đây sẽ cung cấp khái niệm cũng như các thông tin cần thiết để trả lời cho câu hỏi này. Giá cả của hàng hoá phản ánh mức độ mong muốn của người tiêu dùng đối với một loại hàng hóa cụ thể và nó dao động do sự biến đổi của cung cầu trên thị trường. Khi cầu cao hơn cung, giá cả sẽ tăng lên để khuyến khích người sản xuất tăng sản lượng và ngược lại khi cung cao hơn cầu, giá cả sẽ giảm xuống để kích thích người tiêu dùng mua nhiều hơn. Giá cả của hàng hoá có thể khác nhau do sự khác biệt về chi phí vận chuyển, thuế, phí và các điều kiện kinh tế địa phương. Ngoài ra còn có thể biến đổi theo thời gian do sự thay đổi của công nghệ, chất lượng, thị hiếu và sự cạnh tranh. Giá cả của hàng hoá ảnh hưởng đến quyết định sản xuất và tiêu dùng của các cá nhân và tổ chức, cũng như đến sự phân bổ tài nguyên và phát triển kinh tế của xã hội. Và có liên quan chặt chẽ với các khái niệm kinh tế quan trọng khác, như giá trị, lợi nhuận, thu nhập và lạm phát. Vai tròẢnh hưởng đến hành vi của người tiêu dùng và người sản xuất: Giá cả phản ánh quan hệ cung và cầu về hàng hoá trên thị trường. Khi giá cả tăng, người tiêu dùng sẽ có xu hướng giảm nhu cầu mua hàng hoá đó, trong khi người sản xuất sẽ có động lực tăng sản lượng để thu lợi nhuận cao. Ngược lại, khi giá cả giảm, người tiêu dùng sẽ có xu hướng tăng nhu cầu mua hàng hoá đó, trong khi người sản xuất sẽ có động lực giảm sản lượng để tránh lỗ vốn. Như vậy, giá cả hàng hoá là một yếu tố quyết định cho việc phân bổ tài nguyên hiệu quả trong nền kinh tế. Kênh thông tin về tình hình thị trường: Phản ánh giá trị của bản thân hàng hoá đó, tức là số lao động (thời gian lao động và công sức lao động) làm ra nó, hơn nữa cũng phản ánh mệnh giá của đồng tiền, tức là khả năng mua được hàng hoá của đồng tiền. Ngoài ra cũng phản ánh các yếu tố khác như chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm, nhu cầu thị trường, sự cạnh tranh, chính sách thuế, v.v. Nhờ có giá cả của hàng hoá, người tiêu dùng và người sản xuất có thể biết được những thông tin quan trọng về thị trường và đưa ra những quyết định hợp lý cho việc mua bán hàng hoá. Công cụ của chính sách kinh tế: Nhà nước có thể can thiệp vào thị trường bằng cách điều chỉnh giá cả của hàng hoá để đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội như ổn định giá, kiểm soát lạm phát, khuyến khích sản xuất, bảo vệ người nghèo, v.v. Nhà nước có thể sử dụng các biện pháp như thiết lập giá tối thiểu hay tối đa cho một số hàng hoá quan trọng, áp dụng thuế hay trợ cấp cho một số ngành hay nhóm đối tượng, điều tiết tỷ giá hay lãi suất để ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá. Như vậy, giá cả hàng hoá là một công cụ hiệu quả để nhà nước thực hiện chính sách kinh tế. Các yếu tố phụ thuộcGiá cả của một mặt hàng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm chi phí sản xuất, nhu cầu của người tiêu dùng, mức độ cạnh tranh trên thị trường, chính sách của chính phủ và các yếu tố vĩ mô toàn cầu. Chi phí sản xuất: Đây là tổng chi phí cố định, biến đổi và bán biến đổi mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất và phân phối hàng hóa thường chiếm một phần lớn trong giá cả hàng hóa và có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất bao gồm chi phí nguyên liệu, nhân công, máy móc, vận chuyển, quảng cáo và các khoản phí khác. Nó có thể giảm được bằng cách tăng năng suất lao động, sử dụng công nghệ hiện đại, tìm kiếm nguồn cung nguyên liệu rẻ hơn hoặc tận dụng các lợi thế về quy mô. Nhu cầu của người tiêu dùng: Là khả năng và mong muốn của người tiêu dùng mua hàng hóa ở các mức giá khác nhau. Nhu cầu của người tiêu dùng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thu nhập, sở thích, thói quen, giá cả của các hàng hóa thay thế hoặc bổ sung và kỳ vọng về tương lai có thể được đo bằng độ co giãn giá, tức là tỷ lệ thay đổi số lượng hàng hóa được yêu cầu khi giá cả thay đổi. Nếu nhu cầu co giãn giá cao, tức là người tiêu dùng rất nhạy cảm với biến động giá cả, doanh nghiệp sẽ có xu hướng giảm giá để tăng doanh số bán hàng. Ngược lại, nếu nhu cầu co giãn giá thấp, tức là người tiêu dùng ít quan tâm đến biến động giá cả, doanh nghiệp sẽ có xu hướng tăng giá để tăng lợi nhuận. Mức độ cạnh tranh trên thị trường: Đây là số lượng và sức mạnh của các doanh nghiệp bán cùng loại hàng hóa hoặc hàng hóa có tính chất tương tự trên thị trường. Mức độ cạnh tranh trên thị trường ảnh hưởng đến quyền lực thiết lập giá của doanh nghiệp. Nếu có nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau, doanh nghiệp sẽ khó có thể tăng giá cao hơn mức chung của thị trường vì người tiêu dùng có thể chuyển sang mua hàng hóa của các doanh nghiệp khác. Ngược lại, nếu có ít doanh nghiệp cạnh tranh với nhau, hoặc doanh nghiệp có thể tạo ra sự khác biệt cho hàng hóa của mình, doanh nghiệp sẽ có thể tăng giá cao hơn mức chung của thị trường vì người tiêu dùng không có nhiều lựa chọn khác. Chính sách của chính phủ: Đây là các quy định, thuế, trợ cấp, hạn ngạch và các biện pháp khác mà chính phủ áp dụng để ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Chính sách của chính phủ có thể làm tăng hoặc giảm chi phí sản xuất, thay đổi nhu cầu của người tiêu dùng, bảo vệ hoặc mở cửa cho sự cạnh tranh từ bên ngoài. Ví dụ, chính phủ có thể áp thuế tiêu thụ đặc biệt lên các mặt hàng gây hại cho sức khỏe như thuốc lá, rượu bia, để làm tăng giá cả và giảm nhu cầu tiêu dùng của mọi người. Hoặc chính phủ có thể trợ cấp cho các ngành sản xuất chiến lược như nông nghiệp, giáo dục, để làm giảm chi phí sản xuất và giảm giá cả cho người tiêu dùng. Các yếu tố vĩ mô toàn cầu: Đây là các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế thế giới, như tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất, chiến tranh, thiên tai và đại dịch. Các yếu tố vĩ mô toàn cầu có thể gây ra những biến động lớn và bất ngờ cho giá cả hàng hóa. Ví dụ, khi có sự suy thoái kinh tế toàn cầu, nhu cầu về hàng hóa sẽ giảm mạnh, kéo theo giá cả hàng hóa cũng giảm. Hoặc khi có sự biến động tỷ giá hối đoái, giá trị của đồng tiền sẽ ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa được nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Nếu đồng tiền mạnh lên so với các ngoại tệ khác, giá cả hàng hóa nhập khẩu sẽ rẻ đi và ngược lại. Nếu đồng tiền yếu đi so với các ngoại tệ khác, giá cả hàng hóa xuất khẩu sẽ cao lên và ngược lại. Các yếu tố phụ thuộcThông qua bài viết này, Gia Cát Lợi đã mang lại cho các nhà đầu tư các kiến thức bổ ích và giải đáp về câu hỏi “Giá cả của hàng hoá là gì?” Nếu như còn thắc mắc hay muốn biết thêm thông tin về các vấn đề kinh tế khác, hãy liên hệ với chúng tôi qua website: dautuhanghoa.vn hoặc hotline 0247.109.247 để được tư vấn miễn phí 24/7. Chúng tôi luôn sẵn sàng hỗ trợ quý nhà đầu tư trong mọi hoàn cảnh và giúp đạt được mục tiêu đầu tư của mình. |