Dị ứng chéo là gì

Dị ứng thuốc được định nghĩa là phản ứng khác thường của cơ thể khi tiếp xúc lần thứ hai hay những lần sau với một loại thuốc mà thành phần của thuốc có tính chất gọi là gây dị ứng [dị nguyên].

Tất cả các thuốc đều có khả năng gây ra phản ứng có hại. Trong số các loại thuốc gây dị ứng, kháng sinh là nhóm thuốc xếp "đầu bảng", chiếm tới hơn 50%. Các thuốc kháng sinh thường gây dị ứng là penicillin, ampicillin, streptomicin, sulfonamide. Kế đến là các thuốc điều trị động kinh, thuốc giảm đau, kháng viêm, giảm sốt, vitamin, các thuốc có nguồn gốc từ chất đạm [protein, peptid] như các hormon... Một số thuốc ảnh hưởng trên hệ tim mạch như thuốc tê novocain, lidocain, vitamin C, vitamin B1 dạng thuốc tiêm... có thể gây choáng phản vệ. Ngay cả aspirin uống cũng có thể gây choáng phản vệ. Có thuốc dùng nhiều lần trước đó không việc gì nhưng sau lại bị phản ứng.

Đặc biệt lưu ý có hiện tượng phản ứng chéo giữa thuốc gây dị ứng với thuốc khác cùng nhóm. Thí dụ, người đã bị dị ứng với kháng sinh amoxicillin thì có thể bị dị ứng với các thuốc khác nằm cùng nhóm beta-lactam [gọi là nhóm penicillin, nhóm cephalosporin]. Người đã dị ứng với aspirin cũng có thể bị dị ứng với các thuốc khác nằm trong nhóm thuốc kháng viêm không steroid [NSAID].

Do thuốc uống được sử dụng với số lượng lớn, vì vậy, dị ứng thuốc đường uống nhiều nhất [hơn 70%], thường gây ra các hội chứng loại hình dị ứng muộn, tiếp đó là đường tiêm chích [gần 20%] với những biểu hiện sớm, diễn biến nhanh và mức độ nặng cao. Các loại thuốc nhỏ mắt, nhỏ mũi, bôi ngoài da, tẩy - nhuộm lông, tóc... cũng đều có khả năng gây ra các dị ứng tại chỗ và toàn thân như dùng đường uống, đường tiêm chích.

Trong các trường hợp dị ứng với kháng sinh thường xảy ra, đáng lo ngại nhất là penicillin và nhóm beta-lactam. Đây là kháng sinh đầu được tìm ra và áp dụng vào điều trị và cũng chính penicillin gây sốc phản vệ do dùng kháng sinh.

Sốc phản vệ là tai họa khủng khiếp, là trường hợp nặng nhất của dị ứng thuốc, có thể dẫn đến khó thở, hạ huyết áp, trụy mạch và tử vong xảy ra trong vài phút nếu không cấp cứu đúng và kịp thời. Vì thế, có kiến thức về tình trạng dị ứng thuốc và sốc thuốc là điều rất cần thiết cho tất cả mọi người.

Thuốc đông y đứng thứ ba trong số các nhóm thuốc gây dị ứng. Đây thực sự là điều rất đáng báo động vì người dân vẫn thường quan niệm không những các thuốc đó lành tính, không độc mà còn mát, bổ và hợp với tạng người Việt. Vì vậy, mọi người cứ "thoải mái" sử dụng mà không cần phải đề phòng.

Theo các chuyên gia y tế, việc lạm dụng, chữa bệnh theo kiểu mách bảo, xem nhẹ tác dụng phụ của thuốc đông y là vấn đề hết sức nguy hiểm. Thực ra, thuốc đông y không đơn giản là lành, mát, bổ như nhiều người lầm tưởng. Thuốc tân dược và đông dược về bản chất đều như nhau, chỉ khác chăng là phương thức trích ly hoạt chất để sử dụng. Cách sử dụng thuốc đông y là đun để chiết xuất ra thuốc với hàm lượng thấp, còn thuốc tây là được "hóa liệu" để tổng hợp tinh chất và hàm lượng cao hơn. Ngoài ra, việc sử dụng thuốc đông y cũng phức tạp hơn thuốc tây vì không những có dược chất chính mà còn rất nhiều chất khác nữa. Thông thường, trong mỗi thang thuốc có hàng chục vị, mà mỗi vị lại có nhiều chất khác nhau mà cho đến giờ, kể cả người bốc thuốc cũng chưa hiểu được hết tác dụng của các vị thuốc. Bên cạnh đó, người sử dụng thuốc đông y cũng có nguy cơ nhiễm độc với các loại hóa chất bảo quản như: lưu huỳnh, phosphor, thuốc chống ẩm, mốc... Tình trạng dị ứng thuốc đông y thường chậm, nhiều bệnh nhân khi đến cơ sở y tế cũng không biết mình bị dị ứng thuốc đông y.

Nguyên nhân dẫn đến dị ứng thuốc

Cơ địa: tùy theo cơ địa mà người dùng thuốc có thể bị dị ứng với bất cứ thuốc nào, kể cả những thuốc bổ, thuốc nam. Ở những người có cơ địa dị ứng, việc dùng thuốc gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy có mối liên hệ di truyền giữa cha mẹ và con cái. Nếu cha mẹ bị dị ứng thì xác suất sinh con có 50% bị dị ứng và có liên hệ với cùng một nguyên nhân dị ứng. Trường hợp cha mẹ không bị dị ứng thì tỉ lệ con mắc bệnh dị ứng chỉ là 10%. Ngoài ra, ở một số trường hợp là nhân viên y - dược bệnh viện, qua nghiên cứu người ta cũng thấy họ có nguy cơ bị dị ứng thuốc cao gấp 2,5 lần người khác.

Có người xuất hiện các triệu chứng dị ứng thuốc ngay sau khi uống một vài giờ, nhưng cũng có khi sau một vài ngày, thậm chí hằng tuần. Đáng lưu ý là trong rất nhiều trường hợp thấy bị sốt, ngứa, nổi mày đay, bệnh nhân lại nghĩ rằng mình bị một bệnh khác và dùng thêm vài loại thuốc nữa, càng làm cho tình trạng dị ứng thuốc trầm trọng hơn.

Thuốc đã quá hạn sử dụng: Thuốc quá hạn hoặc do quá trình bảo quản không tốt, khi đó, chúng không chỉ hết tác dụng mà có thể biến thành chất khác, gây ngộ độc cho người sử dụng.

Tự ý dùng thuốc: tình trạng tự điều trị và sử dụng thuốc bừa bãi. Không ít trường hợp tự kê đơn cho mình hoặc nhờ người bán thuốc kê đơn.

- Những người bệnh trước khi uống thuốc cần phải làm thử phản ứng cơ thể với loại thuốc đó như đặt vào lưỡi, hốc mũi [thuốc uống] hoặc thử test trong da đối với các loại thuốc tiêm, bôi thử một lượng nhỏ thuốc vào da vùng sau tai...

Ngoài ra, có quá nhiều loại thuốc được đưa vào thị trường nhưng lại thiếu thông tin hướng dẫn sử dụng an toàn hợp lý và chúng ta chưa quản lý được các nguồn thuốc sản xuất trong nước cũng như nhập khẩu này.

  • Xét nghiệm IgE huyết thanh đặc hiệu cho dị nguyên

  • Thử loại bỏ thức ăn [đơn độc hoặc sau khi thử nghiệm da hoặc thử nghiệm IgE huyết thanh đặc hiệu dị ứng]

Thử nghiệm [ví dụ xét nghiệm IgE huyết thanh đặc hiệu dị ứng, xét nghiệm da] và thử loại bỏ thức ăn là hữu ích nhất trong chẩn đoán các phản ứng trung gian IgE. Bệnh nhân nên ghi nhật ký thực phẩm, liệt kê một cách tỉ mỉ tất cả những gì họ tiêu thụ và bất kỳ tác dụng phụ nào của họ, để giúp hướng dẫn quyết định loại bỏ các thực phẩm nghi ngờ.

Nếu nghi ngờ phản ứng thực phẩm, mối quan hệ của các triệu chứng với thực phẩm được đánh giá bằng một trong các cách sau:

Trong cả hai trường hợp, một thử nghiệm dương tính không xác nhận một chứng dị ứng liên quan đến lâm sàng. Cả hai xét nghiệm đều có thể có kết quả dương tính giả hoặc âm tính giả. Xét nghiệm da thường nhạy cảm hơn xét nghiệm IgE huyết thanh đặc hiệu với chất gây dị ứng nhưng có nhiều khả năng có kết quả dương tính giả. Xét nghiệm da cung cấp kết quả trong vòng 15 đến 20 phút, nhanh hơn nhiều so với xét nghiệm IgE huyết thanh đặc hiệu với chất gây dị ứng.

Nếu một trong hai xét nghiệm dương tính, các thực phẩm thử nghiệm được loại bỏ khỏi chế độ ăn. Nếu loại trừ thức ăn làm giảm triệu chứng, bệnh nhân sẽ được tiếp xúc lại với thực phẩm [tốt nhất là trong thử nghiệm mù đôi] để xem liệu các triệu chứng có tái diễn hay không [thử thách bằng miệng].. [Xem thêm National Institute of Allergy and Infectious Diseases [NIAID] medical position statement: Hướng dẫn chẩn đoán và quản lý dị ứng thực phẩm ở Hoa Kỳ.]

Các lựa chọn thay thế cho xét nghiệm da bao gồm một hoặc cả hai điều sau đây:

Đối với chế độ ăn thứ hai, không có thức ăn hoặc chất lỏng có thể được tiêu thụ khác với những thức ăn được chỉ định. Phải luôn luôn sử dụng các sản phẩm tinh khiết. Nhiều sản phẩm được chuẩn bị thương mại và các bữa ăn có chứa một loại thực phẩm không mong muốn với số lượng lớn [ví dụ như bánh mì lúa mạch đen thương mại chứa bột mì] hoặc trong các dấu vết chất gia vị hoặc chất làm đặc và có thể xác định xem thực phẩm không mong muốn có xuất hiện có thể khó khăn.

Một cuộc thảo luận với bệnh nhân và quan sát từ nhật ký thực phẩm của bệnh nhân có thể giúp lựa chọn chế độ ăn loại bỏ ban đầu. Nếu không cải thiện sau 1 tuần của chế độ ăn ban đầu, cần thử chế độ ăn khác; tuy nhiên, các phản ứng qua trung gian tế bào T có thể mất vài tuần để giải quyết. Nếu các triệu chứng thuyên giảm và nếu bệnh nhân có các triệu chứng ít nghiêm trọng hơn, một thực phẩm mới được thêm vào và ăn với số lượng lớn > 24 giờ hoặc cho đến khi các triệu chứng trở lại. Nhưng nếu bệnh nhân có các triệu chứng đặc biệt nghiêm trọng, một lượng nhỏ thực phẩm được thử nghiệm được ăn khí có sự hiện diện của bác sĩ lâm sàng, và các phản ứng của bệnh nhân được quan sát thấy. Sự trầm trọng thêm hoặc tái phát triệu chứng sau khi bổ sung thức ăn mới là bằng chứng tốt nhất về dị ứng.

Dị ứng thức ăn biểu hiện trên lâm sàng là do phản ứng dị ứng miễn dịch với các dị nguyên thức ăn. Cơ chế phản ứng dị ứng thường qua kháng thể IgE, nhưng cũng có thể qua cơ chế khác. Tỷ lệ dị ứng với thức ăn theo các nghiên cứu ngày càng tăng. Hiện nay theo ước tính có khoảng 3,5% tại Pháp. Dị ứng với thức ăn xuất hiện sớm ở bệnh nhân có cơ địa dị ứng.

Tỷ lệ thức ăn hay gây dị ứng

Thức ăn                      Trẻ em [%]    Người lớn [%]

Sữa bò                        2.5                               0.3

Trứng                          1.3                               0.2

Đậu nành                   0.3-0.4                        0.04

Lạc                              0.8                               0.6

Hạt                              0.2                               0.5

Động vật giáp xác    0.1                               2.0

Cá                               0.1                               0.4

Biểu hiện lâm sàng và chẩn đoán khi bị dị ứng thức ăn

Xuất hiện nhanh sau ăn, từ phút-giờ

  • Triệu chứng: khó thở, tụt huyết áp, mày đay, phù mạch, nôn,đau bụng, ỉa chảy.
  • Chẩn đoán: test lẩy da với thức ăn

Xuất hiện sau vài giờ- vài ngày

  • Triệu chứng: eczema, rối loạn tiêu hoá,viêm ruột
  • Chẩn đoán: test áp với thức ăn
  • Viêm da cơ địa[a] test áp [b]

Hô hấp [HPQ, viêm mũi], tiêu hoá [nôn, táo bón, ỉa chảy, rối loạn hấp thu, trào ngược] hoặc tại đồng thời nhiều các cơ quan khác nhau. Viêm da atopy thường là triệu chứng sớm, chiếm 80% các triệu chứng khác ở trẻ nhỏ từ 0-1 tuổi, 75% trẻ từ 1-3 tuổi, 34% trẻ từ 3-6 tuổi, 16% trẻ từ 6-15 tuổi và 4% sau 15 tuổi. Biểu hiện lâm sàng thay đổi theo các lứa tuổi. HPQ thường gặp ở lứa tuổi học sinh và thanh niên. Tỷ lệ sốc phản vệ tăng lên theo tuổi. Sốc phản vệ chiếm tỷ lệ 30% so với các triệu chứng khác ở người trên 30 tuổi, rất hiếm gặp ở trẻ em. Các triệu chứng khác: đau nửa đầu, đau cơ, bệnh Crohns, hội chứng đại tràng kích thích, hội chứng thận hư, viêm đại tràng ở trẻ em.

Các yếu tố nguy cơ mắc bệnh dị ứng thức ăn

Dị ứng thức ăn phụ thuộc một phần vào proteine và một phần vào các phân tử không thay đổi khi đi vào tuần hoàn. Tính miễn dịch của niêm mạc ruột và của hệ miễn dich tại ruột [GALT:Gut Associated Lymphoid Tissue] là cơ chế gây bệnh ở trẻ trước hai tuổi. Tính thấm của niêm mạc ruột tăng lên khi uống rượu hoặc uống thuốc aspirine, nhiễm virus, ký sinh trùng, nấm men đường ruột. Gắng sức có thể gây sốc phản vệ, chỉ xuất hiện sau khi ăn thức ăn gây dị ứng.

Nguyên nhân gây bệnh dị ứng thức ăn

Do các dị nguyên thức ăn hoặc dị nguyên đường tiêu hoá. Cấu trúc hoá học của dị nguyên thức ăn là các glycoproteine có trọng lượng phân tử từ 10-70kD. Tỷ lệ dị ứng với trứng và sữa giảm dần theo tuổi, nhưng tỷ lệ dị ứng với lạc không thay đổi. Dị ứng các loại thức ăn có nguồn gốc thực vật [rau, quả] rất thường gặp ở người lớn [84%]. Tỷ lệ tăng theo tuổi, tương ứng với mức độ dị ứng phấn hoa hay còn gọi dị ứng chéo phấn hoa- hoa quả và rau.

Đặc điểm một số dị nguyên hay gặp

Protein trong sữa bò là căn nguyên chủ yếu gây dị ứng ở trẻ em. Các triệu chứng hay gặp tại đường tiêu hoá, ngoài da, và đường hô hấp. Dị ứng thường xuất hiện sớm ngay sau đẻ. Có 20 loại proteine khác nhau, trong đó có bốn loại chính gây dị ứng:

  • Casein
  • Betalactoglobulin
  • Alphalactoglobulin
  • Albumin

Thường chỉ dị ứng với một loại protein, hiếm khi với hai loại. Sữa thay thế cho trẻ dị ứng sữa bò là sữa đậu lành và sữa bò thuỷ phân.

Dị nguyên cá có đặc tính kháng nhiệt độ cao. Cơ chế dị ứng qua IgE, triệu chứng xuất hiện sau vài phút [mày đay, phù mạch, sốc phản vệ].

Dị nguyên lòng trắng trứng: ovomucoid và ovalbumine. Ovalbumine dễ bị nhiệt phân huỷ còn ovomucoid không bị nhiệt phân huỷ. Cần thận trọng khi cho trẻ tiêm vac xin được sản xuất từ phôi gà.

Dị nguyên bột mì rất hay gây dị ứng thức ăn ở người lớn. Thành phần gluten gây bệnh viêm ruột có nguyên nhân tự miễn. Có 20 loại dị nguyên có thể gây dị ứng.

Đậu lạc đỗ là nguyên nhân chính gây sốc phản vệ do thức ăn, dị nguyên chỉ hình thành và gây dị ứng sau khi được nấu chín.

Dị nguyên giấu mặt

Dị nguyên giấu mặt là loại dị nguyên không lộ rõ. Các protein của thức ăn đó khó nhận biết, có hàm lượng thấp như là chất trộn thức ăn. Dị nguyên dấu mặt có thể gây sốc phản vệ và có trong thành phần nhiều loại thức ăn nên dễ tái phát mặc dù không dùng thức ăn đó nữa..

Dị ứng chéo

Phản ứng chéo giữa các dị nguyên có chung cấu trúc kháng nguyên. Cấu trúc kháng nguyên chung có ở một vài loại quả và rau với phấn hoa.

Bảng dị ứng chéo

Dị ứng qua hô hấp                            Dị ứng thức ăn

Phấn hoa bu lô                                  Hạt, táo đào, lê, mận, anh đào, cà rốt, lạc, đậu nành

Phấn hoa cúc vàng                           Dưa hấu, chuối

Phấn hoa cỏ                                       Cà chua, lạc, hạt đậu, lúa mì, lúa mạch đen

Côn trùng                                           Động vật giáp xác

Chẩn đoán dị ứng thức ăn

Chẩn đoán nguyên nhân: cần chẩn đoán ở những trung tâm chuyên khoa. chẩn đoán dựa trên phân tích tiền sử bệnh. Cần xác định rõ các loại thức ăn qua hỏi bệnh thật tỷ mỉ ở bệnh nhân có biểu hiện dị ứng nhanh với thức ăn [phù Quincke, mày đay cấp, sốc phản vệ] rất khó thực hiện khi có biểu hiện mạn tính [chàm , HPQ, táo bón,…]

Các XN chẩn đoán gồm:

Test lẩy da, test kích thích miệng, các test này cho phép chẩn đoán chính xác trong phần lớn các trường hợp. Các xét nghiệm miễn dịch tìm IgE đặc hiệu [RAST CAP System Pharmacia ].

Cần chẩn đoán phân biệt dị ứng thức ăn với:

Giả dị ứng thức ăn: các phản ứng giả dị ứng thức ăn có biểu hiện lâm sàng giống dị ứng thực sự nhưng không qua cơ chế của phản ứng dị ứng – miễn dịch, có thể theo các cơ chế sau:

  • Giải phóng không đặc hiệu các hoạt chất trung gian như histamin: điển hình là phản ứng sau ăn dâu tây.
  • Thức ăn có chứa nhiều histamin như phomát hun khói, cá, xúc xích,…
  • Người có rối loạn chuyển hoá histamin do thiếu hụt men diamine oxydase do dùng một số thuốc.
  • Tăng tổng hợp histamin do mất cân bằng môi trường vi khuẩn ở ruột.
  • Rối loạn hệ thần kinh thực vật: co thắt PQ khi ăn thức ăn có sulfites,…

Điều trị khi bị bệnh dị ứng thức ăn

Điều trị dị ứng thức ăn dựa trên cơ sở điều tra chế độ ăn rất tỷ mỉ. Chế độ ăn loại trừ được coi như biện pháp điều trị hiệu quả trong phần lớn các trường hợp. Biện pháp dùng chế độ ăn loại trừ cần được kết hợp thực hiện bởi các chuyên gia dị ứng với chuyên gia dinh dưỡng có kinh nghiệm, phương pháp này cần làm trong thời gian kéo dài với sự phối kết hợp chặt chẽ cuả bệnh nhân. Giảm mẫn cảm với thức ăn có hiệu quả với một số loại thức ăn [sữa, lạc, táo…].

Cách phòng chống dị ứng thức ăn

Bệnh nhân sau khi được chẩn đoán dị ứng thức ăn cần được chuyên gia dị ứng, chuyên gia dinh dưỡng tư vấn cách phòng tránh thức ăn gây dị ứng tại nhà, trường học và nơi công cộng.

Phát cho bệnh nhân có tiền sử nặng dị ứng với thức ăn [phù mạch, phản vệ] cần được cung cấp và hướng dẫn sử dụng thuốc cấp cứu anakit [adrenaline].

Cẩm nang truyền thông các bệnh thường gặp – BV Bạch Mai

Video liên quan

Chủ Đề