Đi theo con đường cách mạng vô sản là gì năm 2024

Qua suốt 10 năm ròng rã “đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi”, qua “những đất tự do, những trời nô lệ”, đã thấy nhiều “con đường cách mạng”, nghiên cứu cách mạng Mỹ 1776, cách mạng Pháp 1789… Nhưng chỉ đến khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin [tháng 7/1920], Nguyễn Ái Quốc mới như tìm ra chân lý và “vui mừng đến phát khóc lên”, Người khẳng định: “Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao!… Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!” và sau này Người đã đúc kết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

Thật vậy! Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX cho đến những thành tựu phát triển đất nước hiện tại là minh chứng thuyết phục nhất khẳng định: con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam là sự lựa chọn sáng suốt, đúng đắn mang tính tất yếu của lịch sử Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Tính tất yếu lịch sử của sự lựa chọn ấy được biểu hiện cụ thể như sau:

Lịch sử thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh phát triển sang chủ nghĩa đế quốc bằng con đường chủ yếu là phát động chiến tranh xâm lược để giành giật thuộc địa và thị trường. Các đế quốc điên cuồng mở rộng thị trường, bóc lột, nô dịch rất tàn bạo các tầng lớp nhân dân lao động, khiến cho mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc ngày càng gay gắt. Cuộc đấu tranh của nhân dân lao động chống lại các giai cấp thống trị, bóc lột diễn ra ngày càng quyết liệt cả về tính chất lẫn quy mô. Thế giới trải qua 2 cuộc chiến tranh gây tổn thất về người và của khủng khiếp, địa vị của Chủ nghĩa tư bản bị suy giảm nhiều so với trước kia, Phong trào cách mạng thế giới đã chuyển sang thời kì phát triển mới, đặt nền móng cho thắng lợi to lớn ở giai đoạn sau này.

Đặc biệt là thắng lợi của cuộc cách mạng vĩ đại Tháng Mười Nga mở ra một thời đại mới, thời đại giải phóng các dân tộc khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới; giai cấp vô sản Nga hoàn thành sứ mệnh đi tiên phong trong sự nghiệp “đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản” tại nước Nga. Qua đó cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đông trong sự nghiệp đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản ở Nga như một hồi chuông thức tỉnh các dân tộc nô lệ, đang bị áp bức phải đứng lên đấu tranh chống lại ách áp bức, bóc lột; là động lực thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ la-tinh. Vì vậy, sự lựa chọn theo con đường cách mạng vô sản – dưới ánh sáng soi đường của Cách mạng Tháng Mười Nga là phù hợp với yêu cầu thời đại của nhiều dân tộc bị áp bức, trong đó có Việt Nam.

Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng cách mạng vô sản là cuộc cách mạng do giai cấp vô sản tiến hành, đồng thời là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Bản chất của cách mạng là do bản chất công nhân của giai cấp đó quy định. Cách mạng vô sản có nguyên nhân sâu xa là do lực lượng sản xuất trong xã hội đã mang tính chất xã hội hóa cao độ không còn thích ứng với quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Giai cấp vô sản còn là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội đó. Đó là giai cấp lao động trong nền sản xuất đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn khi phát triển tới đỉnh cao đã tất yếu chuyển hóa thành cuộc đấu tranh gay gắt giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, đưa tới cuộc cách mạng vô sản, nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, thực hiện lợi ích của giai cấp vô sản.

Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: “trong xã hội tư bản chủ nghĩa, tất cả các giai cấp, các tầng lớp trung gian bị bóc lột đều đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Nhưng, “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp”. Ở Việt Nam, thực dân Pháp xâm lược, chúng lập ra chế độ thống trị tàn bạo, thi hành các chính sách cai trị chuyên chế, biến giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực. Chúng thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã man, tàn bạo, chia rẽ dân tộc, tôn giáo... Chúng vơ vét tài nguyên và bóc lột sức lao động nhân dân Việt Nam “tới tận xương tủy”, thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta, thực hiện chính sách ngu dân… khiến đời sống của dân ta bị bần cùng hóa, nền kinh tế bị què quặt, gây nên những hậu quả nghiêm trọng kéo dài nhiều năm. Giai cấp nông dân bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng, thống khổ của giai cấp nông dân đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai. Giai cấp công nhân ra đời bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột. Giai cấp tư sản bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép. Tầng lớp tiểu tư sản bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, cũng có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân. Vì vậy, hình thành những mâu thuẫn đan xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức và bóc lột càng tăng thì mâu thuẫn đó càng sâu sắc, tất yếu dẫn đến một cuộc cách mạng giải phóng giai cấp vô sản, giai cấp bị áp bức, bóc lột.

Đáp ứng yêu cầu cấp thiết đó, đông đảo nhân dân trên khắp mọi miền đất nước đã anh dũng chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược,“hầu như có bao nhiêu người An Nam thì có bấy nhiêu trung tâm kháng chiến”. Nhưng do phần lớn vua quan hủ bại, khiếp sợ "tàu to, súng lớn"... nên từ năm 1862 đã ký hòa ước "nhượng" cho Pháp 3 tỉnh miền Đông, tiếp theo là các hiệp ước khác - thực chất là hàng ước "bán nước"... Gần một thế kỷ, hơn 300 cuộc khởi nghĩa "chỉ có thể dấy lên rồi tắt". Nguyên nhân là do không có đường hướng phù hợp. Ngọn cờ theo hệ ý thức phong kiến thất bại thảm hại, "... sông núi không còn nước mắt để khóc các bậc anh hùng"; nhiều người xuất thân "khoa bảng" kịch liệt phê phán Nho giáo, bất hợp tác với triều đình… Tư tưởng dân chủ tư sản xuất hiện "như một chân trời mới", nhưng cũng "chẳng đưa đến đâu xa" rồi nhanh chóng tỏ rõ sự "bất lực hoàn toàn".... Các phong trào yêu nước tiêu biểu như: Phong trào Cần Vương do các văn thân, sĩ phu yêu nước lãnh đạo, diễn ra sôi nổi trong cả nước và kéo dài hơn 10 năm từ 1885 đến 1896; các cuộc nổi dậy chống quân xâm lược ở các vùng địch chiếm đóng, tiêu biểu như: khởi nghĩa Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân; các cuộc đấu tranh của nhân dân các địa phương trung du miền núi, nổi bật nhất là khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo [1884 - 1913]; các cuộc khởi nghĩa: Hương Khê [1885 - 1896] do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo; Ba Đình [1886 - 1887] do Phạm Bành và Đinh Công Tráng đứng đầu; Bãi Sậy [1885 - 1889] do Nguyễn Thiên Thuật chỉ huy; cuộc nổi dậy ở Hưng Hóa [1885 - 1889] của Nguyễn Quang Bích; phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo; cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Các phong trào là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử, nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Dù đã viết nên những trang sử hết sức oanh liệt, nhưng cuộc kháng Pháp từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX “chỉ có thể dấy lên rồi tắt, chính vì thiếu lực lượng lãnh đạo đủ năng lực”. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước, đặt ra yêu cầu cấp bách phải có một ánh sáng mới soi đường, dẫn dắt.

Trước bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc với lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần ham hiểu biết và học hỏi, tư duy độc lập sáng tạo, đã quyết tâm ra đi tìm chân lý để trở về cứu dân, cứu nước khỏi kiếp đọa đày, nô lệ. Người đã sớm nhận thức được “cái mà dân tộc cần trước tiên chưa phải là súng đạn, của cải, mà là cách đuổi giặc cứu nước, là làm cách mạng, hay nói cách khác là lý luận cách mạng và phương pháp cách mạng”. Hành trình 30 năm đầy gian khổ ở nước ngoài, Người đã tiếp xúc với nhiều con đường, cách thức đấu tranh của các dân tộc thuộc địa khác hòa mình vào cuộc sống của các tầng lớp nhân dân lao động ở khoảng 30 quốc gia trên thế giới, chứng kiến sự bóc lộ của các nước đế quốc, Người rút ra kết luận có tính chất nền tảng đầu tiên: ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề. Đặc biệt khi Người tới nước Mỹ, Người xúc động trước cảnh những nô lệ da đen dưới chân tượng Thần Tự do và nhận ra một điều rằng trên thế giới dù ở đâu, dù da vàng, da trắng hay da đen, cũng có hai loại người: người giàu và người nghèo, người áp bức và người bị áp bức. Người tiếp tục đưa ra kết luận: “Chủ nghĩa đế quốc là con đỉa hai vòi, một vòi hút máu nhân dân chính quốc và một vòi hút máu nhân dân thuộc địa”, “muốn làm cách mạng thành công thì nhân dân thuộc địa cần phải liên kết, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân chính quốc”. Thông qua hoạt động thực tiễn, tận mắt thấy cuộc sống cực khổ của nhân dân các nước thuộc địa và cũng thấy được sự bất công ngay trên các nước tư bản phát triển, Người khẳng định: Ở Pháp cũng có những người Pháp tốt, cũng có người nghèo như ở bên ta, những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt, song những người Pháp thực dân rất hung ác, vô nhân đạo. Qua đó, Người sớm hình thành tình cảm quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân; chủ nghĩa yêu nước của Người bắt đầu mang một tình cảm mới, làm cơ sở cho chủ nghĩa Quốc tế vô sản của dân tộc Việt Nam sau này.

Việc xác định con đường, định hướng tư tưởng có thể nói là điều kiện tiên quyết trong mọi cuộc cách mạng, là nền tảng cơ sở để dẫn tới thành công. Người đã quan tâm và nghiên cứu kỹ lưỡng các cuộc cách mạng của Mỹ năm 1776 và cách mạng Pháp năm 1789 và rút ra được nhiều bài học quý giá, nhất là vấn đề liên minh công nông. Tuy vậy, theo Người: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Chỉ có thành công của cách mạng Tháng Mười Nga, tiếp xúc, nghiên cứu về dự thảo Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, đối chiếu với thực tiễn cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, Người khẳng định: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”. Trong “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Người đã nói: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên, như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Như vậy, con đường cách mạng vô sản là con đường duy nhất, là chân lý soi rọi, đưa cách mạng Việt Nam phát triển và thành công.

Tiếp đến, Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, chính thức đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Đây là hướng đi mới với mục tiêu và chiến lược hoàn toàn mới, tạo tiền đề thành lập chính Đảng do giai cấp công nhân lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Việt Nam.

Từ đó, con đường cách mạng vô sản không chỉ là sự lựa chọn sáng suốt, đúng đắn của riêng lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, mà khi vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam thì “cách mạng vô sản trở thành lựa chọn tất yếu của cách mạng Việt Nam”. Bởi sau khi tiếp thu lý luận Mac- Lênin, Người đã bổ sung và vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cách mạng không ngừng, lý luận về thời cơ và tình thế cách mạng, qua đó, phát triển sáng tạo các luận điểm này khi ứng dụng vào thực tiễn cách mạng vô sản ở Việt Nam. Chánh cương vắn tắt của Đảng do Người soạn thảo, đã khẳng định: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Làm tư sản dân quyền cách mạng đánh đổ thực dân Pháp xâm lược đem lại độc lập dân tộc. Làm thổ địa cách mạng là đánh đổ bọn phong kiến, địa chủ đem lại ruộng đất cho dân cày [sau này, cả hai cuộc cách mạng cùng tiến hành song song ấy được gọi là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân]. Bên cạnh đó, nhận thức được giá trị sâu sắc của tư tưởng đoàn kết quốc tế, Đảng tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế, kết hợp chặt chẽ giữa phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng của các lực lượng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thể giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để thực hiện các mục tiêu cách mạng. Đây là điều hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam.

Người cũng đã vận dụng sáng tạo lý luận về nhà nước vô sản vào tình hình cách mạng Việt Nam, xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Theo Người, “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái - trai, giàu - nghèo, giai cấp. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân không phải nhà nước “siêu giai cấp”, mà là nhà nước do Đảng Cộng sản - đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, thể hiện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng chân chính lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng vô sản, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất và các đoàn thể chính trị - xã hội để tập hợp, đoàn kết toàn dân làm cách mạng. Thành lập Quân đội nhân dân - quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, với phương châm: “người trước, súng sau”, làm lực lượng nòng cốt cùng toàn dân đấu tranh giành và giữ chính quyền, xây dựng và bảo vệ đất nước…

Chính vì thế, chỉ 15 năm sau khi đi theo đường lối cách mạng vô sản, dân tộc Việt Nam đã làm nên kỳ tích vĩ đại trong Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan xiềng xích nô lệ hơn 80 năm của thực dân Pháp và hàng trăm năm chế độ phong kiến, đưa lại độc lập, thống nhất cho đất nước, đưa nhân dân ta từ người nô lệ thành người làm chủ xã hội; lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á; mở ra kỷ nguyên phát triển mới cho dân tộc ta, là kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của quân và dân ta trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đã giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi của đường lối cách mạng vô sản đã phản ánh sự lựa chọn khách quan của chính thực tiễn - lịch sử, phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu bức thiết của đại đa số các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Đường lối đó tiếp tục được khẳng định trong các văn kiện của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đưa đất nước và dân tộc ta vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thoát khỏi nước kém phát triển, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đến nay, qua 36 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 31 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đây là luận cứ thuyết phục nhất về tính đúng đắn của con đường cách mạng Việt Nam theo gương cách mạng Tháng Mười mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn vào những năm đầu của thế kỷ XX. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đi theo con đường do Lê-nin vĩ đại đã vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lê-nin vĩ đại và đối với nhân dân Liên Xô là vô cùng sâu sắc”.

Thắng lợi vĩ đại ấy đã khẳng định: Chính thực tiễn lịch sử đã khách quan lựa chọn con đường cách mạng vô sản là con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Sự phát triển theo quỹ đạo cách mạng vô sản đã đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam đi đến thành công, nhân dân đã giành lại và củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc, là cơ sở vững chắc để đất nước ta vững bước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Và chỉ có xu hướng yêu nước theo lập trường của giai cấp vô sản, gắn giải phóng dân tộc với chủ nghĩa xã hội được khẳng định cả về phương diện khoa học và thực tiễn, được phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam chấp nhận và thực hiện.

Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn phấn đấu, rèn luyện xứng đáng là đội tiên phong và đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; các tổ chức của Ðảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.Vai trò, sứ mệnh lãnh đạo của Đảng cũng do tất yếu lịch sử đã “sàng lọc” - không có lực lượng chính trị nào ngoài Đảng có đủ năng lực, trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, uy tín để lãnh đạo nhân dân thực hiện được mục tiêu độc lập dân tộc và xây dựng đất nước hùng cường, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc thực sự. Đặc biệt, trong bối cảnh một năm đầy thách thức với nhiều hoạt động bị gián đoạn trên toàn cầu do Covid-19, Đảng đã lãnh đạo Việt Nam đã thành công trong việc ứng phó với đại dịch phức tạp, đưa kinh tế ổn định và tăng trưởng tích cực. Hiện nay, Đại hội XIII của Đảng đã thành công tốt đẹp với những chủ trương, quyết sách quan trọng để định hướng và lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, toàn diện quá trình triển khai tổ chức thực hiện phương hướng, nhiệm vụ phát triển nhanh, bền vững, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm nảy sinh những nhận thức trái chiều; các thế lực thù địch, phản động luôn tăng cường những chiêu thức, thủ đoạn mới chống phá Đảng, Nhà nước ta. Vì thế, việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, Ðảng và Bác Hồ đã đề cao vai trò, vị trí quan trọng của thanh niên; xác định thanh niên là đội quân xung kích của cách mạng, Ðoàn Thanh niên là đội dự bị tin cậy của Ðảng; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định thành bại của cách mạng. Ðảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách phù hợp đối với công tác thanh niên, chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng, phát huy thanh niên và tạo môi trường để thanh niên rèn luyện, cống hiến và trưởng thành. Trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế như hiện nay, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên là hết sức quan trọng và cần thiết nhằm xây dựng được đội ngũ có lý tưởng cách mạng, có ý thức trách nhiệm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Với vai trò là thủ lĩnh Thanh niên khối Cơ quan và Doanh nghiệp Tỉnh, lãnh đạo lực lượng xung kích, với vai trò là cánh tay nối dài của Đảng, trọng trách của tổ chức Đoàn và Đoàn viên, Thanh niên đối với công tác giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là đặc biệt quan trọng. Theo đó, xây dựng Đoàn là xây dựng Đảng trước một bước nên cần tập trung đẩy mạnh công tác củng cố tổ chức cơ sở Đoàn, giáo dục rèn luyện, bồi dưỡng tạo nguồn phát triển đảng viên trong đoàn viên, thanh niên. Từ đó, Ban Thường vụ Đoàn Khối đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo Đoàn viên, Thanh niên Khối triển khai toàn diện các mặt công tác đoàn và phong trào thanh niên, như: Đoàn tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, tham gia xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, các phong trào hành động cách mạng của tuổi trẻ, tuổi trẻ sáng tạo, tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc...; các chương trình đồng hành với thanh niên, công tác quốc tế thanh niên, công tác xây dựng tổ chức Đoàn, mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên và đặc biệt là công tác kiểm tra, giám sát... Bên cạnh đó, cụ thể hóa trách nhiệm của bản thân, hiện nay và trong thời gian tới, tôi phải:

Thứ nhất, bản thân phải kiên định lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, trung thành với lý tưởng cộng sản, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, vững vàng, không dao động trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Thể hiện vai trò tiên phong, gương mẫu; tích cực đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, suy thoái đạo đức, nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Là Cán bộ, Đảng viên, tôi phải quán triệt dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, khi mắc phải thiếu sót, khuyết điểm phải tự giác nhận trách nhiệm cá nhân, xác định rõ nguyên nhân để có biện pháp sửa chữa, khắc phục, không tranh công, đổ lỗi.

Thứ hai, tích cực học tập nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đòi hỏi bản thân trong thời gian tới phải tích cực chủ động, sáng tạo, có chương trình, kế hoạch cụ thể, sắp xếp khoa học, hợp lý, để vừa hoàn thành Chương trình học Cao cấp Lý luận chính trị vừa giữ vững thành tích Cờ thi đua xuất sắc trong trông tác Đoàn mà năm vừa qua đã đạt được.

Phải tích cực, tự giác học tập nâng cao trình độ mọi mặt, trau dồi kiến thức, tránh “trung bình chủ nghĩa” trong thực hiện nhiệm vụ công tác chuyên môn. Bản thân phải coi học tập không chỉ là quyền lợi của bản thân mà còn là trách nhiệm chính trị, nghĩa vụ đối với Tổ quốc, từ đó phát triển hơn nữa: năng lực làm việc, năng lực tổ chức quản lý, năng lực giáo dục quần chúng, năng lực tổng kết thực tiễn, năng lực giao tiếp, đối thoại, tranh luận...

Thứ ba, làm việc phải có tinh thần trách nhiệm và tâm huyết. Bác dạy: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư… phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Vì vậy tôi cần phát huy tinh thần cầu thị, tiếp thu ý kiến đóng góp phê bình của đồng nghiệp đối với công việc mình được giao; phải chủ động nêu cao ý thức, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, thường xuyên tự soi, kiểm tra tiến độ các công việc mình đảm nhiệm, để có biện pháp triển khai tốt các nhiệm vụ, công việc, phần việc được giao.

Đồng thời, phải khiêm tốn, tôn trọng và phát huy Đoàn viên Thanh niên đơn vị, chăm lo đời sống của Đoàn viên Thanh niên có hoàn cảnh khó khăn, tìm hiểu và lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của Đoàn viên Thanh niên. Tăng cường đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, xây dựng thế hệ thanh niên trí truệ, giàu lòng yêu nước, có đạo đức cách mạng, có ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.

Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra giám sát, nhất là ở phương diện đạo đức công vụ. Nhằm hướng tới làm cho đội ngũ, cán bộ đảng viên nhận ra những khuyết điểm, giúp nhau sửa chữa và khắc phục những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, qua đó mà tiến bộ, đoàn kết thống nhất trong Đảng được tăng cường. Trong xây dựng Chi bộ, bản thân cần phát huy hiệu quả của công tác tự phê bình và phê bình, chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn và đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, “5 xây, 5 chống”...

Bên cạnh đó, tôi định hướng các hoạt động chuyên môn công tác Đoàn và phong trào Thanh niên khối Cơ quan và Doanh nghiệp Tỉnh trong thời gian tới cần: “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hoà cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thảm mỹ cho thế hệ trẻ. Tạo động lực cho Đoàn viên Thanh niên xung kích trong học tập, lao động, sáng tạo, khởi nghiệp, làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Chú trọng đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, truyền thống, lý tưởng cách mạng thông qua việc tuyên truyền, tổ chức các phong trào thi đua rèn luyện, các phong trào “Nhật ký làm theo lời Bác”, “Học kỳ quân đội”, “Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ Việt Nam”, cuộc vận động “Xây dựng giá trị hình mẫu thanh niên Vĩnh Long thời kỳ mới”... Phát động cụ thể hóa các phong trào: “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”, “Xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc”, “Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”, “Tuổi trẻ sáng tạo”. “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc”, “Tuổi trẻ chung tay xây dựng nông thôn mới”… Tiếp tục thực hiện các công trình, phần việc thanh niên tình nguyện góp phần phát triển kinh tế, xã hội Tỉnh nhà. Qua đó, giúp Đoàn viên Thanh niên hiểu rõ được truyền thống vẻ vang của Đảng ta và của dân tộc, hiểu biết sâu sắc hơn những tấm gương thanh niên tiêu biểu, anh hùng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để biết ơn các thế hệ cha anh đã hy sinh thân mình vì độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc.

Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn cán bộ trẻ cho Đảng. Việc giới thiệu Đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét, kết nạp được các Cơ sở đoàn quan tâm thực hiện tốt. Thực hiện cuộc vận động “Đoàn viên phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam”, giới thiệu đoàn viên ưu tú, giáo dục và rèn luyện đảng viên trẻ, cung cấp cán bộ cho Đảng, góp phần xây dựng Đảng về tổ chức. Hằng năm, Đoàn khối đều chú trọng ưu tiên giới thiệu cho Đảng những đoàn viên, thanh niên là công nhân, thanh niên sản xuất giỏi, thanh niên dân tộc thiểu số. Cùng với đó, nhiều cán bộ Đoàn khối trưởng thành được Đảng tin tưởng giao nhiệm vụ, giữ cương vị quan trọng trong tổ chức đảng, chính quyền các cấp như Ủy viên Thường vụ, Phó Bí thu, Bí thư Đảng ủy khối, Tỉnh ủy...

Linh hoạt, thích ứng với tình hình Dịch, các hoạt động cần đổi mới phương thức thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin, rút ngắn thời gian, tăng tính tương tác, quan tâm tới nhu cầu, sở thích của thanh niên. Cụ thể như tổ chức nhiều cuộc thi tìm hiểu, sinh hoạt chính trị và tuyên truyền, giáo dục đã mang lại những hiệu quả thiết thực và thu hút đông đảo đoàn viên, thanh niên tham gia.

Tôi luôn quán triệt và tuyên truyền Đoàn viên Thanh niên phải tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, không để mắc mưu các thế lực thù địch, làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia - dân tộc và cuộc sống hòa bình, hạnh phúc của nhân dân - thành quả của thế hệ cha anh đã dày công xây dựng.

Đặc biệt, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Đoàn viên Thanh niên chúng tôi không chỉ kiên định lý tưởng Đảng mà còn phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác xây dựng và phát triển thế hệ thanh niên Việt Nam thời kỳ mới. Theo đó, nhiệm vụ vừa cấp thiết trước mắt, vừa chiến lược, lâu dài là tổ chức Đoàn, Đoàn viên Thanh niên là phải tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch.

Các phong trào hành động của Đoàn khối trong thời gian tới sẽ tập trung phát huy tinh thần chủ động, xung kích, sáng tạo của Đoàn viên Thanh niên. Để tiếp tục khẳng định với Đảng và Nhân dân: Đoàn viên, Thanh niên là lực lượng tin cậy, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng và dân tộc.

Chủ Đề