[tintuc]
Tiền đề khoa học tự nhiên cho sự ra đời của Triết học Mác - Lênin
Môn học: Triết học Mác - Lênin
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia Hà Nội
- Ngoài những tiền đề về kinh tế - xã hội và lý luận, sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác với tư cách là học thyết cao nhất của chủ nghĩa duy vật, không thể tách rời những thành tựu của khoa học tự nhiên. Bởi vì, không dựa vào những thành tựu mới của khoa học tự nhiên thì không thể phê phán được chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, và không thể khắc phục được phương pháp luận siêu hình về thế giới.
- Trong những phát hiện của khoa học tự nhiên từ những năm 30 đến những năm 50 của thế kỷ XIX, Mác và Ăngghen đặc biệt chú ý đến ba phát minh lớn, có ý nghĩa đối với sự hình thành chủ nghĩa duy vật biện chứng, đó là:
+ Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng [của nhà Vật lý học Rôbéc Mâye người Đức]
+ Học thuyết Tế bào [của nhà sinh vật học Slâyđen và S.Van người Đức]
+ Học thuyết tiến hóa [của Đắcuyn người Anh]
- Về nội dung: Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đã chứng minh khoa học vế sự thống nhất, không tách rời nhau, sự chuyển hóa lẫn nhau và được bảo toàn giữa các hình thức vận động khác nhau của thế giới vật chất. Thuyết tế bào chứng minh cho sự thống nhất về mặt nguồn gốc, hình thái và cấu tạo vật chất của cơ thể thực vật, động vật và giải thích sự phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của thế giới sinh vật. Thuyết tiến hóa giải thích tính chất biện chứng của sự phát triển phong phú, đa dạng của các giống loài trong thế giới tự nhiên hữu sinh bởi tính di truyền, biến dị và mối liên hệ hữu cơ giữa các loài thực vật, động vật trong quá trình chọn lọc tự nhiên.
- Về giá trị: Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào, thuyết tiến hóa là những thành tựu khoa học bác bỏ tư duy siêu hình và quan điểm duy tâm tôn giáo về vai trò của Đấng sáng tạo; khẳng định tính đúng đắn quan điểm về thế giới vật chất là vô cùng, vô tận, tự tồn tại, tự vận động, tự chuyển hóa của thế giới quan duy vật biện chứng; khẳng định tính khoa học của tư duy biện chứng duy vật trong nhận thức và thực tiễn.
Như vậy, sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác không phải là ngẫu nhiên mà là một hiện tượng hợp qui luật. Nó Do những nguyên nhân kinh tế, xã hội và sự phát triển của tư tưởng nhân loại trước đó. Khái quát kinh nghiệm của phong trào công nhân và những thành tựu của khoa học tự nhiên, nghiên cứu có phê phán những tư tưởng lý luận trước đó, Mác và Ăngghen đã thực hiện bước ngãặc vĩ đại trong triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học.
[/tintuc]Đánh giá của bạn về bài viết này?
Trang web này sử dụng cookie để nâng cao khả năng điều hướng trang web, phân tích việc sử dụng trang web và hỗ trợ chúng tôi cải thiện trải nghiệm trang web của bạn theo quy định của Google.
OkTriết học của C.Mác
[1818 – 1883] và Ph.Ăngghen [1820 – 1895] là sự kế thừa những thành tựu vĩ đại
của tư tưởng triết học từ thời cổ đại cho đến cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ
XIX.
Sự ra đời
của chủ nghĩa Mác nói chung, của triết học Mác nói riêng là một quá trình, quá
trình này có thể được chia thành hai giai đoạn cơ bản sau:
• Giai
đoạn [1841 – 1844]: là giai đoạn hình thành dần dần các quan điểm triết học, sự
chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và từ chủ
nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội khoa học.
• Giai
đoạn [1844 – 1848]: Khởi thảo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quá trình này hoàn thành vào năm 1848 với sự
xuất hiện tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.
• Giai
đoạn [1848 – 1895]: Mác và Ăngghen bổ sung phát triển và hoàn thiện hệ thống,
quan điểm triết học mác-xít. Giai đoạn
này được chia thành ba thời kỳ:
- Thời
kỳ thứ nhất, Mác và Ăngghen bổ sung và phát triển triết học thông qua tổng kết
kinh nghiệm cách mạng tư sản [tháng 2/1848].
- Thời
kỳ thứ hai, Mác và Ăngghen nghiên cứu các vấn đề kinh tế, viết bộ Tư bản từ những
năm 40 và xuất bản năm 1867.
- Thời
kỳ thứ ba, Mác và Ăngghen bổ sung, phát triển và hoàn thiện triết học và chủ
nghĩa Mác, làm cho chủ nghĩa Mác trở thành hệ tư tưởng thống trị trong phong
trào công nhân.
Triết học
Mác ra đời trong những điều kiện lịch sử giữa thế kỷ XIX. Nó là kết quả của sự
phát triển lịch sử tư tưởng triết học và sự phát triển của khoa học nói chung,
trong sự phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ XIX và cuộc
đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đang diễn ra mạnh mẽ ở thời kỳ
đó.
1. Điều
kiện kinh tế - xã hội
Vào những
năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã khẳng định được vị thế của mình và
đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra
những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học
Mác nói riêng. Điều này thể hiện ở chỗ:
• Thứ
nhất, sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra điều kiện thực tiễn
tuyệt đối cần thiết cho sự thoát khỏi lý tưởng không tưởng xã hội chủ nghĩa cho
chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng, bởi lẽ, chính sự phát triển của
kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra cơ cở vật chất – kỹ thuật cho việc thực hiện
những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản.
• Thứ
hai, chính sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã đặt ra nhiều vấn đề thực tiễn,
lý luận, chính trị, xã hội... đòi hỏi các nhà lý luận phải giải trả lời, nghĩa
là nó kích thích cho các trào lưu tư tưởng triết học ra đời trong đó có triết học
Mác.
• Thứ
ba, chính sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa làm cho giai cấp công nhân
phát triển cả về số lượng và chất lượng. Do vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân ngày càng phát triển chuyển từ tự phát lên tự giác. Từ đấu tranh kinh
tế sang đấu tranh chính trị, điển hình như cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở
Liông [Pháp – 1831], khởi nghĩa của thợ dệt ở Xilêdi [Đức – 1844], Phong trào
Hiến chương ở Anh [Từ năm 1836 đến năm 1847]. Cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân đòi hỏi phải có một lý luận khoa học, cách mạng dẫn đường, trong khi đó có
rất nhiều các trào lưu tư tưởng phản khoa học tìm cách len lỏi vào phong trào
công nhân. Điều này đã thúc đẩy cho sự ra đời của triết học Mác. Có thể nói, sự
xuất hiện của giai cấp công nhân trên vũ đài lịch sử cùng với cuộc đấu tranh mạnh
mẽ của họ là điều kiện chính trị - xã hội quan trọng nhất thúc đẩy sự ra đời của
chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
2. Tiền
đề về khoa học tự nhiên
Bước sang
đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên có bước phát triển vượt bậc, đã chuyển từ
trình độ thực nghiệm lên trình độ lý luận, đặc biệt xuất hiện nhiều phát minh
khoa học vạch thời đại, có ảnh hưởng to lớn đến sự ra đời của triết học Mác:
• Định
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Mikhail Vasilyevich Lomonosov
[8/11/1711 – 4/4/1765] và Antoine Lavoisier [26/8/1743 – 8/5/1794].
• Thuyết
tế bào của Theodor Schwann [sinh ngày 7/12/1810, Neuss, Đức; mất ngày
11/1/1882, Köln, Đức] và Matthias Schleiden [1804-1881]. Chứng minh sự thống nhất
về mặt kết cấu sinh học của thế giới hữu sinh.
• Học
thuyết tiến hóa của Charles Darwin [12/2/1809 – 19/4/1882] là học thuyết cho rằng
sự sống của sinh vật chịu tác động dưới một áp lực gay gắt gọi là chọn lọc tự
nhiên. Chứng tỏ có sự phát triển từ thế giới vô cơ. Giữa các loài sinh vật với
giới tự nhiên có mối quan hệ chặt chẽ. Đó là kết quả của sự tiến hóa tự nhiên.
Bác bỏ quan điểm tôn giáo, thần học về loài người, nguồn gốc loài người.
Ý nghĩa của
các định luật và học thuyết đối với sự hình thành và phát triển triết học Mác:
Khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại khác nhau,
các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch
ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.
3. Tiền
đề lý luận
• Kinh
tế chính trị học tư sản cổ điển Anh với những lý luận kinh tế quan trọng của
A.X-mít [1723-1790] và Đ.Ri-các-đô [1772 – 1823]. Hai ông đã có những đóng góp
quan trọng cho lý luận về kinh tế. Đặc biệt, đã chỉ ra nguồn gốc của giá trị.
Tuy nhiên, hai ông chưa chỉ ra được nguồn gốc của giá trị thặng dư. Mác –
Ăngghen trên cơ sở kế thừa những giá trị trong học thuyết của hai ông đã chỉ ra
được nguồn gốc của giá trị thăng dư – một cơ sở khoa học để phân tích, giải
thích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như xã hội tư bản chủ nghĩa,
làm cơ sở khoa học cho quan niệm duy vật về lịch sử của Mác.
• Chủ
nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông
[1760 - 1825] và Sáclơ Phuriê [1772 –1837]. Hai ông đã có nhiều đóng góp cho lý
luận về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt hai ông đã chứng minh được hai điểm quan trọng:
- Một
là, cần phải đập tan nhà nước tư sản;
- Hai
là, có thể đập tan được nhà nước tư sản.
Tuy
nhiên, hai ông cũng còn nhiều hạn chế, nhưng hạn chế cơ bản nhất là tính không
tưởng trong lý luận của các ông. Mác – Ăngghen trên cơ sở tiếp thu những giá trị
tích cực, khắc phục tính không tưởng, tổng kết phong trào công nhân, tổng kết
thực tiễn lịch sử, đã chỉ ra rằng muốn xóa bỏ nhà nước tư sản phải bằng con đường
cách mạng vô sản và thay thế nó bằng nhà nước vô sản kiểu mới.
• Triết
học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hê-ghen
[1770-1831] và Phoiơbắc [1804-1872], là nguồn gốc lý luận trực tiếp.
- Với
triết học Hêghen thì giá trị hạt nhân hợp lý là phép biện chứng, nhưng hạn chế
lớn nhất ở Hêghen là thế giới quan duy tâm khách quan.
- Với
Phoiơbắc, giá trị lớn nhất trong tư tưởng của ông là thế giới quan duy vật nhân
bản. Nhưng hạn chế lớn nhất của ông là tính chưa triệt để, máy móc, siêu hình.
Mác –
Ăngghen kế thừa phép biện chứng của Hêghen, cải tạo nó, khắc phục tính chất duy
tâm, thần bí và đặt nó trên nền tảng thế giới quan duy vật. Đồng thời Mác –
Ăngghen kế thừa thế giới quan duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính chất siêu
hình, máy móc, tính không triệt để của nó và làm giàu chủ nghĩa duy vật này bằng
phép biện chứng. Trên cơ sở đó, Mác – Ănghen sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
4. Nhân
tố chủ quan
• Ngoài
những điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề khoa học tự nhiên và lý luận, thì sự
ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng không thể thiếu
nhân tố chủ quan của bản thân Mác và Ăngghen. Đó là sự thông minh hơn người của
các ông. Đã vậy, hai ông lại cần cù, chịu khó, nghiêm túc trong nghiên cứu khoa
học. Nhờ những tố chất ấy hai ông đã kế thừa được toàn bộ tinh hoa trong lịch sử
tư tưởng nhân loại, tổng kết được những thành tựu của khoa học đương đại, tổng
kết phong trào công nhân để cho ra đời một chủ nghĩa Mác – ngọn cờ lý luận của
giai cấp công nhân - hoàn bị trong cả lĩnh vực tự nhiên và lĩnh vực xã hội.
• Cùng
với sự thông minh, tinh thần làm việc không mệt mỏi là tình yêu thương con người
hết mình của hai ông và quyết tâm hy sinh vì con người, là những nhân tố quan
trọng thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Tóm lại:
Triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử
không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp
công nhân đòi hỏi phải có lý luận mới soi đường mà còn vì những tiền đề cho sự
ra đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra.
Nguồn: Giáo trình