Cách tính liều tiêm insulin

Xem, Đái tháo đường Đái tháo đường [DM] Đái tháo đường [DM] là tình trạng giảm tiết insulin và kháng insulin ngoại vi dẫn đến tăng glucose máu. Triệu chứng sớm liên quan tới tăng glucose máu và bao gồm uống nhiều, khát nhiều, tiểu... đọc thêm .]

Điều trị chung Điều trị Đái tháo đường [DM] là tình trạng giảm tiết insulin và kháng insulin ngoại vi dẫn đến tăng glucose máu. Triệu chứng sớm liên quan tới tăng glucose máu và bao gồm uống nhiều, khát nhiều, tiểu... đọc thêm cho tất cả bệnh nhân đái tháo đường gồm thay đổi lối sống, gồm chế độ ăn và luyên tập. Theo dõi thường xuyên nồng độ glucose máu là cần thiết để phòng tránh biến chứng của đái tháo đường Biến chứng của đái tháo đường [Xem đái tháo đường.] Bệnh nhân đái tháo đường [DM], nhiều năm kiểm soát đường máu kém dẫn đến nhiều biến chứng, chủ yếu mạch máu, ảnh hưởng mạch máu nhỏ [ vi mạch ], mạch máu lớn [ mạch máu... đọc thêm .

Bệnh nhân đái tháo đường típ 1 điều trị vớiinsulin cũng như chế độ ăn và luyện tập.

Bệnh nhân đái tháo đường típ 2 thường bắt đầu điều trị với chế độ ăn và luyện tập Nếu kết quả định lượng không đủ kiểm soát đường máu, bệnh nhân có thể được kê đơn thuốc hạ đường máu, tiêm đông vận thụ thể glucagon-like peptide-1 [GLP-1] , insulin, hoặc phối hợp những thuốc này.

Đối với một số bệnh nhân đái tháo đường, Ức chế hệ renin-angiotensin-aldosterone [RAAS] [ức chế men chuyển hoặc chẹn thụ thể angiotensin II], statins, và aspirin thường được cho để tránh biến chứng.

Insulin

Insulin là bắt buộc đối với tất cả bệnh nhân đái tháo đường típ 1 nếu không có insulin, bệnh nhân sẽ bị toan ceton ; insulin cũng rất hữu ích cho việc quản lý của nhiều bệnh nhân đái tháo đường típ 2.

Điều trị thay thếInsulin ở bệnh nhân đái tháo đường típ 1 nên bắt trước chức năng tế bào beta sử dụng 2 loại insulin để cung cấp nhu cầu nền và bữa ăn[thay thế sinh lý]; tiếp cận này đòi hỏi chú ý đến chế độ ăn và luyện tập cũng như thời gian và liều insulin.

Khi insulin cần cho bệnh nhân đái tháo đường típ 2, kiểm soát đường máu có thể đạt được với insulin nền kết hợ với thuốc hạ đường máu khônginsulin , dù vậy insulin bữa ăn wcos thể cần cho một số bệnh nhân.

Ngoại trừ insulin regular, được sử dụng truyền tĩnh mạch bệnh nhân nhập viện Nhập viện Đái tháo đường [DM] là tình trạng giảm tiết insulin và kháng insulin ngoại vi dẫn đến tăng glucose máu. Triệu chứng sớm liên quan tới tăng glucose máu và bao gồm uống nhiều, khát nhiều, tiểu... đọc thêm , insulin hầu hết được tiêm dưới da. Gần đây, dạng bào chế insulin dạng hít cũng được chấp nhận.

Hầu hết dạng bào chếinsulin hiện nay là insulin người tái tổ hợp, thực tế loại bỏ các phản ứng dị ứng thường gặp với thuốc khi được chiết xuất từ các nguồn động vật. Một số loại analog được chấp nhận. Những đồng phân này được tạo ra băng điều chỉnh phân tử insulin người, thay đổi tốc độ hấp thu và thời gian tác dụng.

Dạng Insulin thường được phân loại bằng thời gian bắt đầu và khoảng tác dụng. [xem Bảng: Bắt đầu, đỉnh, và thời gian tác dụng của chế phẩm insulin người* Bắt đầu, đỉnh, và thời gian tác dụng của chế phẩm insulin người* Xem, Đái tháo đường.] Điều trị chung cho tất cả bệnh nhân đái tháo đường gồm thay đổi lối sống, gồm chế độ ăn và luyên tập. Theo dõi thường xuyên nồng độ glucose máu là cần thiết để phòng tránh... đọc thêm ]. Tuy nhiên, các thông số này thay đổi trong và giữa các bệnh nhân, tùy thuộc vào nhiều yếu tố [ví dụ, vị trí và kỹ thuật tiêm, lượng mỡtg dưới da, lưu lượng máu tại chỗ tiêm].

Insulin tác dụng nhanh, gồm lispro và aspart, được hấp thụ nhanh, bởi vì đảo ngược của một cặp amnio acid ngăn cản phân tử insulin liên kết thành dimer và polymers molecule. Thuốc bắt đầu giảm glucose huyết tương thường trong 15 phút nhưng có thời gian tác dụng ngắn [ 1 h trước khi sử dụng. Insulin glargine không trộn với bất kì insulin khác.

Nhiều bút có sẵn insulin được chấp nhận để thay thế lọ và bơm tiêm . Bút Insulin có thể thuận tiện hơn khi sử dụng xa nhà và thích hợp với bệnh nhân hạn chế thị lực hoặc sự khéo léo. Các dụng cụ tự tiêm thuốc [để sử dụng với bơm] có thể hữu ích cho bệnh nhân thường xuyên sợ bị tiêm, và bơm tiêm phóng đại được chấp nhận sử dụng cho bệnh nhân có thị lực kém.

Lispro, aspart, or regular insulin cũng có thể sử dụng cho bơm insulin liên tục. Bơm truyền insulin dưới da liên tục có thể loại bỏ việc cần tiêm nhiều mũi insulin hàng ngày, và tạo sự linh hoạt nhất trong thời gian bữa ăn, và giảm đáng kể sự biến đổi nồng độ glucose. Nhược điểm bao gồm chi phí, lỗi cơ học dẫn đến sự gián đoạn cung cấp insulin, và bất tiện đeo thiết bị bên ngoài. Tự theo dõi thường xuyên, cẩn thận và chú ý tới chức năng của bơm là cần thiết để sử dụng bơm insulin an toàn và hiệu quả. Công nghệ lai đầu tiên, hệ thống truyền insulin khép kín đã được có mặt . Một hệ thống khép kín hoặc "tụy nhân tạo" là hệ thống thuật toán sử dụng tính toán và truyền liều insulin tự động từ bơm insulin , dựa trên kết quả nhập vào từ máy theo dõi glucose liên tục . Hệ thống được phê duyệt vẫn yêu cầu đầu vào từ người dùng cho liều bolus.

Biến chứng của điều trị insulin

Biến chứng phổ biến nhất

  • Hạ đường máu Hạ gluocse máu Hạ đường máu không liên quan đến liệu pháp insulin ngoại sinh là một hội chứng lâm sàng không phổ biến đặc chưng bởi tình trạng glucose huyết thanh thấp, kích thích thần kinh giao cảm có triệu... đọc thêm

Biến chứng không thường gặp gồm

  • Hạ kali máu Tăng kali huyết Tăng kali máu là nồng độ kali huyết thanh > 5,5 mEq/L, thường là kết quả của giảm bài tiết kali của thận hoặc dịch chuyển kali bất thường ra khỏi tế bào. Thường có một vài yếu tố đóng góp đồng... đọc thêm

  • Dị ứng vị trí tiêm

  • Dị ứng toàn thân

  • Phì đại hoặc teo mỡ cục bộ

  • kháng thể kháng -insulin lưu hành

Hạ đường máu là biến chứng phổ biến nhất của biến chứng điều trị insulin , xuất hiện thường hơn ở bệnh nhân cố gắng kiểm soát glucose chặt chẽ và tiếp cận glucose gần bình thường. Triệu chứng hạ đường máu nhẹ hoặc trung bình gồm đau đầu, toát mồ hôi, hồi hộp, lâng lâng, nhìn mờ, kích thích và lẫn lộn. Các triệu chứng của hạ đường máu nặng hơn bao gồm co giật và mất ý thức. Ở bệnh nhân lớn tuổi, hạ đường máu có thể gây ra triệu chứng giống đột quị như thất ngôn hoặc liệt nửa người và có nhiều khả năng dẫn tới đột quị, nhồi máu cơ tim và đột tử. Bệnh nhân mắc đái tháo đường type 1 thời gian dài có thể có cơn hạ đường máu không nhận biết vì chúng không còn gặp các triệu chứng tự động [hạ đường máu không nhận biết].

Bệnh nhân nên được dạy để nhận biết các triệu chứng hạ đường máu, thường đáp ứng nhanh chóng bằng đường, bao gồm kẹo, nước trái cây và viên nén glucose. Thông thường, nên uống 15 g glucose hoặc sucrose. Bệnh nhân nên kiểm tra mức đường máu sau 15 phút sau khi đưa vào glucose hoặc đường sucrose và ăn thêm 15 g nếu mức đường máu không > 80 mg/dL [4.4 mmol/L]. Đối với bệnh nhân bất tỉnh hoặc không thể nuốt, hạ đường máu có thể được điều trị ngay lập tức với glucagon 1 mg tiêm dưới da hoặc tiêm bắp hoặc truyền tĩnh mạch dung dịch dextrose 50 mL 50% [25 g] sau đó, nếu cần thiết, truyền tĩnh mạch dung dịch dextrose 5% hoặc 10% để duy trì mức đường máu thích hợp.

Tăng đường máu có thể theo sau hạ đường máu bởi vì ăn quá nhiều đường hoặc hạ đường máu gây tăng đột biến hormone điều hòa ngược [glucagon, epinephrine, cortisol, GH]. Liều insulin trước đi ngủ quá cao có thể gây giảm glucose và kích thích đáp ứng điều hòa ngực, dẫn tới tăng đường máu sáng sớm. [Hiệu ứng Somogyi ]. Một nguyên nhân phổ biến hơn của tăng đường máu buổi sáng không giải thích được, tuy nhiên, là sự gia tăng hormone tăng trưởng buổi sáng sớm [hiện tượng bình minh]. Trong trường hợp này, liiều insulin buổi tối nên tăng, thay đổi chế phẩm tác dụng kéo dài hoặc tiêm muộn hơn.

Hạ kali máu có thể gây ra bởi chuyển kali vào nội bào vì insulin-kích thích bơm Na-Ka, nhưng không thường gặp. Hạ Kali máu thường xuất hiện trong chăm sóc cấp cứu khi dự trữ cơ thể giảm và sử dụng truyền insulin.

Dị ứng tại chỗ tiêm insulin thường hiếm, đặc biệt với sử dụng insulins người, nhưng nhưng vẫn có thể xảy ra ở những bệnh nhân bị dị ứng latex vì mủ cao su tự nhiên có trong nắp đậy lọ. Thuốc có thể gây ra đau tức thời hoặc bỏng, sau đó là ban đỏ, ngứa, và sẩn cứng - sau này đôi khi vẫn còn dai dẳng trong nhiều ngày. Hầu hết các phản ứng tự nhiên biến mất sau nhiều tuần tiêm liên tục và không cần điều trị cụ thể, mặc dù thuốc kháng histamine có thể giúp giảm triệu chứng.

Dị ứng toàn thân rất hiếm với insulins người nhưng có thể xuất hiện khi tái khới trị insulin sau khi thất bại. Các triệu chứng phát triển từ 30 phút đến 2 giờ sau khi tiêm và bao gồm nổi mề đay, phù mạch, ngứa, co thắt phế quản và sốc phản vệ. Điều trị bằng thuốc kháng histamin thường đủ, nhưng epinephrine và glucocorticoids tĩnh mạch có thể cần thiết. Nếu điều trị insulin cần thiết sau khi có phản ứng dị ứng toàn thân, test nẩy da với chế phẩm insulin tinh khuyết và khử khuẩn nên thực hiện.

Phì đại hoặc teo mỡ khu trú tại vùng tiêm insulin thường hiếm và được cho là hậu quả từ phản ứng miễn dịch với thành phần của chế phẩm insulin . Có thể giải quyết bằng thay đổi các vị trí tiêm.

Kháng thể kháng insulin lưu hành là một nguyên nhân rất hiếm của kháng insulin . Thể kháng insulin này đôi khi có thể được điều trị bằng thay đổi chế phẩm insulin [vd, từ insulin động vật sang người] và quản lý bằng corticoid nếu cần thiết .

Phác đồ insulin cho đái tháo đường típ 1

Phác đồ từ 2 lần / ngày chia liều phối hợp [ vd, chia liều của insulins tác dụng nhanh và trung gian ] tới phác đồ sinh lý hơn nền - bolus sử tiêm nhiều mũi trong ngày [ vd, to more physiologic basal-bolus regimens using multiple daily injections [eg, liều nền cố định của insulin tác dụng kéo dài và thay đổi liều insulin tác dụng nhanh sau ăn] hoặc bơm insulin . Điều trị tích cực, định nghĩa là theo dõi glucose 4 lần/ngày và 3 mũi tiêm/ngày hoặc truyền insulin liên tục, hiệu quả hơn so với điều trị thông thường [1 đến 2 mũi insulin mỗi ngày có hoặc không có theo dõi] để phòng tránh bệnh võng mạc, thận, và thần kinh đái tháo đường. Tuy nhiên, điều trị tích cực có thể dẫn đến các cơn hạ đường huyết thường xuyên hơn và tăng cân và hiệu quả hơn chỉ ở bệnh nhân có khả năng và sẵn sàng đóng vai trò tích cực trong việc tự chăm sóc bản thân.

Thông thường, hầu hết bệnh nhân đái tháo đường típ 1 có thể bắt đầu tổng liều từ 0.2 đến 0.8 đơn vị insulin/kg/ngày. Bệnh nhân béo phì có thể đòi hỏi liều cao hơn. Điều trị thay thế sinh lý cần phải cho 40 đến 60% liều insulin hàng ngày cho thuốc tác dụng trung gian hoặc tác dụng kéo dài để cho nhu cầu nền, với phần còn lại cho thuốc tác dụng nhanh hoặc ngắn để giải quyết tăng sau ăn. Cách tiếp cận này hiệu quả nhât khi liều insulin tác dụng nhanh hoặc ngắn được điều chỉnh cho glucose máu trước ăn và thành phần bữa ăn được dự đoán. Hệ số điều chỉnh, cũng được biết như là hệ số nhạy insulin, là số lượng mà 1 đơn vị insulin sẽ làm giảm nồng độ glucose máu sau 2 đến 4 giờ; hệ số này thường đươc tính bằng sử dụng " quy tắc 1800 " khi insulin tác dụng nhanh được sử dụng để điều chỉnh [1800/ tổng liều insulin trong ngày]. Đối với insulin regular, sử dụng " quy tắc 1500 rule" . Liều điều chỉnh[ nồng độ glucose hiện tại - nồng độ glucose mục tiêu/hệ số điều chỉnh] là liều của insulin sẽ làm giảm nồng độ glucose máu tới khoảng mục tiêu. Liều điều chỉnh này có thể bổ sung cho insulin trước ăn và được tính cho số lượng carbonhydrate trong một bữa ăn, sử dụng tỉ lệ carbohydrate insulin [CIR]. CIR thường được tính bằng sử dụng "quy tắc 500" [500/tổng liều hàng ngày].

Để minh họa cách tính liều ăn trưa, hãy giả định như sau:

  • glucose đầu ngón tay trước ăn: 240 mg/dL

  • tổng liều insulin hàng ngày: 30 đơn vị insulin nền + 10 insulin bolus cho mỗi bữa ăn = 60 đơn vị tổng hàng ngày

  • Hệ số điều chỉnh [hệ số nhạy insulin ]: 1800/60 = 30 mg/dL/đơn vị

  • Hàm lượng carbohydrate ước tính của bữa ăn sắp tới: 50 g

  • Carbohydrate:insulin [CIR]: 500/60 = 8:1

  • Target glucose: 120 mg/dL

Liều insulin sau ăn= 50 g carbohydrate chia cho 8 g/đơn vị insulin = 6 units

Liều điều chỉnh = [240 mg/dL - 120 mg/dL]/30 hệ số điều chỉnh = 4 đơn vị

Tổng liều trước bữa ăn này= liêu bữa ăn + liều điều chỉnh = 6 + 4 = 10 đơn vị insulin nhanh.

Phác đồ sinh lý như vậy cho phép tự do hơn về lối sống vì bệnh nhân có thể bỏ qua hoặc thay đổi thời gian các bữa ăn và duy trì mức đường máu bình thường. Những khuyến cáo này là để bắt đầu điều trị; sau đó, lựa chọn phác đồ thường dựa trên đáp ứng sinh lý và các tùy chọn của bệnh nhân và bác sĩ. Tỉ lệ carbohydrate cho insulin và hệ số nhạy insulin cần được tùy chỉnh dựa theo bệnh nhân đáp ứng với liều insulin . Điều chỉnh này đòi hỏi phải làm việc chặt chẽ với một chuyên gia về đái tháo đường.

Phác đồ insulin cho đái tháo đường típ 2

Phác đồ cho đái tháo đường típ 2 cũng đa dạng. Nhiều bệnh nhân, nồng độ glucose được kiểm soát tốt với thay đổi lối sống và thuốc hạ đường máu không insulin, nhưng insulin nên được thêm khi glucose không kiểm soát được bằng 3 thuốc. Dù không phổ biến, đái tháo đường típ 1 khởi phát người lớn có thể là nguyên nhân. Insulin nên thay thế thuốc hạ đường máu không insulin ở phụ nữ bắt đầu có thai. Liệu pháp phối hợp rõ ràng nhất là sử dụng insulin với biguanides uống và thuốc tăng nhạy insulin . Phác đồ thay đổi từ tiêm 1 mũi mỗi ngày của insulin tác dụng trung gian hoặc tác dụng kéo dài [thường trước khi đi ngủ] tới phác đồ tiêm nhiều mũi sử dụng cho bệnh nhân đái tháo đường típ 1. Nói chung, phác đồ hiệu quả đơn giản nhất được ưu tiên. Vì kháng insulin , một số bệnh nhân đái tháo đường típ 2 đòi hỏi nhu cầu liều insulin lớn [> 2 đơn vị/kg/ngày]. Một biến chứng thường gặp là tăng cân, chủ yếu là do giảm glucose trong nước tiểu và cải thiện hiệu quả trao đổi chất.

Thuốc uống hạ đường máu

Thuốc uống hạ đường máu [xem Bảng: Đặc điểm của thuốc uống hạ đường máu Đặc điểm của thuốc uống hạ đường máu Xem, Đái tháo đường.] Điều trị chung cho tất cả bệnh nhân đái tháo đường gồm thay đổi lối sống, gồm chế độ ăn và luyên tập. Theo dõi thường xuyên nồng độ glucose máu là cần thiết để phòng tránh... đọc thêm và xem Bảng: Sự kết hợp thuốc hạ đường huyết Sự kết hợp thuốc hạ đường huyết Xem, Đái tháo đường.] Điều trị chung cho tất cả bệnh nhân đái tháo đường gồm thay đổi lối sống, gồm chế độ ăn và luyên tập. Theo dõi thường xuyên nồng độ glucose máu là cần thiết để phòng tránh... đọc thêm ] là trụ cột của điều trị đái tháo đường típ 2, cùng với đồng vận thụ thể glucagon-like peptide-1 [GLP-1] . Insulin thường bổ sung khi 3 thuốc thất bại kiểm sát đường máu. Thuốc uống hạ đường máu có thể

  • Tăng tiết insulin từ tụy [secretagogues]

  • Mô ngoại vi nhạy cảm với insulin [sensitizers]

  • Giảm hấp thu glucose từ đường tiêu hóa

  • Tăng glucose nước tiểu

Các loại thuốc với các cơ chế tác dụng khác nhau có thể có tác dụng hiệp đồng.

Sulfonylureas

Sulfonylureas [SUs] là thuốc kích thích tụy tiết insulin . Các thuốc này làm hạ glucose máu bằng cách kích thích tế bào beta của tụy tiết insulin và có lẽ tăng nhạy cảm insulin với các mô ngoại vi và tại gan. Thế hệ đầu tiên [xem Bảng: Sự kết hợp thuốc hạ đường huyết Sự kết hợp thuốc hạ đường huyết Xem, Đái tháo đường.] Điều trị chung cho tất cả bệnh nhân đái tháo đường gồm thay đổi lối sống, gồm chế độ ăn và luyên tập. Theo dõi thường xuyên nồng độ glucose máu là cần thiết để phòng tránh... đọc thêm ] thì gây ra nhiều tác dụng phụ và ít được dùng thường xuyên. tất cả các thuốc nhóm SUs đều gây ra tăng insulin máu và tăng từ 2-5 ka, do kháng sinh insulin và bị giới hạn tác dụng của các thuốc này. Tất cả các thuốc đều có thể gây ra hạ đường máu Hạ gluocse máu Hạ đường máu không liên quan đến liệu pháp insulin ngoại sinh là một hội chứng lâm sàng không phổ biến đặc chưng bởi tình trạng glucose huyết thanh thấp, kích thích thần kinh giao cảm có triệu... đọc thêm . Yếu tố nguy cơ bao gốm: tuổi > 65; sử dụng các thuốc tác dụng kéo dài đặc biệt như [ chlorpropamide, glyburide hoặc glipizide ], ăn uống hay luyện tập thất thường, và suy gan hoặc suy thận.

Hạ đường máu gây ra với các thuốc tác dụng kéo dài có thể kéo dài nhiều ngày sau khi kết thúc điều trị, đặc biệt có thể gây tổn thương thần kinh kéo dài, và có thể gây tử vong. Vì những lí do trên mà nhiều bệnh nhân nhập viện vì hạ đường máu đặc biệt là bệnh nhân già. Chlorpropamide có thể gây ra hội chứng tiết ADH không phù hợp Hội chứng tiết ADH không thích hợp Hạ natri máu là tình trạng giảm nồng độ natri huyết thanh 136 mEq / L gây ra bởi thừa nước liên quan đến chất hòa tan. Các nguyên nhân thường gặp bao gồm sử dụng lợi tiểu, tiêu chảy, suy tim... đọc thêm . Hầu hết bệnh nhân dùng SUs đơn trị liệu thì đều cần kết hợp với nhóm thuốc khác để đạt hiệu quả, điều này gợi ý SUs có thể gây cạn kiệt chức năng tế bào beta. Tuy nhiên, điều lo ngại về bài tiết insulin và tình trạng kháng insulin có lẽ là 1 đặc điểm của bệnh đái tháo đường hơn là do thuốc điều trị bệnh đái tháo đường. -

Kích thích bài tiết Insulin tác dụng ngắn

Các thuốc kích thích tiết insulin tác dụng ngắn như [repaglinide, nateglinide] kích thích tiết insulin tương tự như SUs. Chúng tác dụng nhanh hơn, Tuy nhiên chúng kích thích tiết insulin nhiều hơn trong bữa ăn so với các thời điểm khác . Bởi vậy chúng đặc biệt hiệu quả trong việc hạ glucose máu sau ăn và ít có nguy cơ hạ đường máu. Chúng có thể gây tăng cân mặc dù ít hơn so với SUs. Bệnh nhân đáp ứng với nhóm đường uống khác như SUs, metformin thì dường như không đáp ứng với thuốc này.

Biguanides

Nhóm biguanide gây hạ đường máu bởi vì giảm tân tạo đường ở gan chúng làm tăng nhậy cảm insulin ở mô ngoại vi, nhưng chúng cũng tăng thu nhận glucose ở mô ngoại vi bởi đơn giản do giảm tân tạo glucose ở gan. Biguanides cũng làm giảm mỡ máu và giảm hấp thu chất dinh dưỡng ở đường tiêu hóa, tăng nhậy cảm tế bào beta, và làm giảm nồng độ yếu tố ức chế plasminogen 1, bởi vậy nó ảnh hướng trong việc chống đông. Metformin là thuốc duy nhất trong nhóm biguanide có mặc tại Mỹ. Nó có hiệu quả trong việc giảm đường máu, hiếm khi gây hạ đường huyết, và có thể được sử dụng an toàn với các thuốc uống khác và insulin. Ngoài ra Metformin không gây tăng cân và thậm chí điều chỉnh cân nặng do giảm cảm giác thèm ăn. Tuy nhiên thuốc thường gây tác dụng phụ trên đường tiêu hóa như tiêu chảy, khó tiêu Ít xảy ra hơn là gây kém hấp thu vitamin B12, nhưng các triệu chứng thiếu máu nặng thì rất hiếm.

Metformin gây ra nhiễm toan lactic đe dọa tính mạng thì rất hiếm nhưng thuốc này chống chỉ định với những bệnh nhân có nguy cơ cao nhiễm toan như suy thận nặng, suy hô hấp, nghiện rượu, nhiễm toan chuyển hóa khác, hoặc mất nước. Thuốc này không nên dùng khi đang phẫu thuật hoặc mắc các tình trạng bệnh nghiêm trọng. Nhiều người dùng metformin đơn trị liệu cuối cùng vẫn cần phối hợp với 1 thuốc khác.

Thiazolidinediones

Thiazolidinediones [TZDs] làm giảm đề kháng insulin ở mô ngoại vi nhưng cơ chế chuyển hóa của nó thì còn chưa sáng tỏ. Thuốc này gắn với receptor ở nhân của tế bào mỡ [ PPAR-γ] , nó dịch mã gen liên quan chuyển hoá glucose và chuyển hóa lipid. TZDs cũng làm tăng HDL_C, hạ triglycerid, và cũng chống viêm, chống xơ vữa mạch máu. TZDs cũng hiệu quả tương tự SUs và metformin trong việc hạ HbA1c. TZDs cũng có lợi trong điều trị bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu Gan nhiễm mỡ [Xem thêm Cấu trúc và chức năng gan và Đánh giá bệnh nhân có bệnh lý gan.] Gan nhiễm mỡ là sự tích tụ lipid trong tế bào gan, sự phản ứng thường gặp của gan đối với tổn thương. Gan nhiễm mỡ... đọc thêm [NAFLD].

Mặc dù 1 thuốc nhóm TZD [troglitazone] gây ra suy gan cấp nhưng các thuốc có mặt hiện nay đều phải được chứng mình không gây độc cho gan. Tuy nhiên khuyến cáo , trước khi dùng thuốc nên kiểm tra chức năng gan TZDs có thể gây ra phù ngoại biên, đặc biệt bệnh nhân dùng insulin và có thể gây suy tim. Tăng cân vì ứ trệ dịch và tăng dự trữ mỡ là thông thường và tăng khoảng [> 10 kg] ở 1 số bệnh nhân. Rosiglitazone có thể tăng nguy cơ bị suy tim, đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, dột quỵ và gẫy xương. Pioglitazone có thể gây tăng ung thư bàng quang mặc dù dữ liệu còn đang tranh cãi, suy tim, và gẫy xương.

Ức chế Alpha-glucosidase

Ức chế anpha-glucosidase [AGIs] hoàn toàn ức chế enzym ruột, do đó làm giảm glucose máu sau ăn. AGIs kém hiệu quả hơn so với các thuốc uống khác trong việc giảm glucosse máu, bệnh nhân thuơgf ngừng thuốc do khó thở, thừa dịch và tiêu chảy. Nhưng vì tính an toàn khác của các thuốc và có thể được sử dung kết hợp với các thuốc khác và với insulin.

Thuốc ức chế DPP-4

Các thuốc ức chế DPP-4 như alogliptin, linagliptin, saxagliptin, sitagliptin tác dụng kéo dàingoại tiết GLP-1 bằng việc ức chế men DPP-4; và ức chế thoái hoá GLP-1 Có sự tăng nhẹ nguy cơ mắc viêm tuỵ cấp ở bệnh nhân dùng ức chế DPP-4, nhưng cần cân nhắc tính an toàn và tác dụng của chúng. Giảm HbA1c ở mức độ trung bình

Ức chế SGLT-2

Thuốc ức chế SGLT2 như canaglifozin, dapaglifozin, empaglifozin ức chế SGLT2 ở phần gần ống thận, nó ức chế tái hấp thu glucose bởi vậy nó gây ra glucose niệu và làm giảm glucose máu. Thuốc ức chế SGLT2 có thể gây giảm cân mức độ trung bình và hạ huyết áp Empagliflozin làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch ở bệnh nhân tiểu đường.

Tác dụng phụ thường gặp nhất là viêm đường sinh dục tiết niệu, đặc biệt là nhiễm nấm. Triệu chứng hạ huyết áp tư thế cũng có thể xảy ra. Có nhiều báo cáo về đái tháo đường nhiễm toan ceton Toan ceton [DKA] Nhiễm toan ceton là biến chứng cấp tính của bệnh đái tháo đường đặc trưng bởi tăng đường huyết, tăng ceton trong máu và nhiễm toan chuyển hóa. Đường máu tăng cao là nguyên nhân dây tăng áp lực... đọc thêm ở cả bệnh nhân đái tháo đường type 1 và cả type 2.

Ức chế Dopamin

Bromocriptine là 1 chất ức chế dopaminehạ HbA1c khoảng 0,5% mặc dù cơ chế chưa được hiểu rõ. Mặc dù được chấp nhận dùng cho bệnh nhân đái tháo đường type 2 nhưng không thường dùng bởi vì những tác dụng phụ của nó.

Thuốc hạ glucose máu đường tiêm

Thuốc hạ đường máu ngoài insulinglucagon-like peptide-1 [GLP-1] amylin analog, pramlintide [xem Bảng: Đặc điểm thuốc hạ đường huyết dạng tiêm không phải Insulin. Đặc điểm thuốc hạ đường huyết dạng tiêm không phải Insulin. Xem, Đái tháo đường.] Điều trị chung cho tất cả bệnh nhân đái tháo đường gồm thay đổi lối sống, gồm chế độ ăn và luyên tập. Theo dõi thường xuyên nồng độ glucose máu là cần thiết để phòng tránh... đọc thêm ]. Các thuốc này thường được dùng kết hợp với các thuốc hạ đường máu khác

Đồng vận GLP-1 receptor

Exenatide [an incretin hormone], liraglutide, dulaglutide, albiglutide] bài tiết insulin phụ thuộc glucose và chậm làm trống dạ dày. Các thuốc đồng vận GLP1 có thể làm giảm cảm giác thèm ăn và giảm cân và kích thích tế bào beta. Công thức tính liều có sẵn cho 1 lần / ngày; 2 lần / ngày; hàng tuần. Các tác dụng phụ thông thường nhất của chất đồng vận GLP 1 là về dạ dày, ruột đặc biệt nôn , buồn nôn. Các thuốc chủ vận GLP 1 cũng có nguy cơ nhẹ bị viêm tuỵ cấp Tổng quan về viêm tụy Viêm tụy được phân loại là cấp tính hoặc mạn tính. Viêm tụy cấp là bệnh lý viêm mà được chẩn đoán bằng cả lâm sàng và mô học. Viêm tụy mạn tính được đặc trưng bởi các thay đổi mô học mà không... đọc thêm . Các thuốc này có chống chỉ định với u đa nhân tuyến giáp Ung thư tuyến giáp thể tủy [Xem thêm Tổng quan về chức năng tuyến giáp.] Có 4 loại ung thư tuyến giáp nói chung. Hầu hết các bệnh ung thư tuyến giáp biểu hiện như nhân giáp không triệu chứng. Hiếm khi, di căn hạch bạch... đọc thêm bởi vì tăng nguy cơ.

Chất tương tự Amylin

Pramlintide tương tự amylin là một hormon do tế bào beta tụy tiết ra, giúp làm giảm nồng độ glucose sau ăn. Pramlintide làm chậm bài tiết glucagon sau ăn, làm chậm quá trình làm trống dạ dày,điều khiển sự no. Nó được sử dụng đường tiêm, dạng kết hợp với insulin. Bệnh nhân đái tháo đường type 1 dùng liều từ 30-60 mcg trước bữa ăn, với bệnh nhân đái tháo đường type 2 thì liều 120 mcg.

Các thuốc được dùng bổ trợ trong điều trị đái tháo đường

Các thuốc dùng để ngăn chặn cũng như điều trị các biến chứng của đái tháo đường là rất quan trọng, bao gồm: Biến chứng của đái tháo đường [Xem đái tháo đường.] Bệnh nhân đái tháo đường [DM], nhiều năm kiểm soát đường máu kém dẫn đến nhiều biến chứng, chủ yếu mạch máu, ảnh hưởng mạch máu nhỏ [ vi mạch ], mạch máu lớn [ mạch máu... đọc thêm Các thuốc bổ trợ được khuyến cáo Xem, Đái tháo đường.] Điều trị chung cho tất cả bệnh nhân đái tháo đường gồm thay đổi lối sống, gồm chế độ ăn và luyên tập. Theo dõi thường xuyên nồng độ glucose máu là cần thiết để phòng tránh... đọc thêm

  • Ức chế men chuyển hoặc ức chế thụ thể

  • Aspirin

  • Statins

Thuốc ức chế men chuyển hoặc thuốc ức chế thụ thể Bệnh thận đái tháo đường [Xem đái tháo đường.] Bệnh nhân đái tháo đường [DM], nhiều năm kiểm soát đường máu kém dẫn đến nhiều biến chứng, chủ yếu mạch máu, ảnh hưởng mạch máu nhỏ [ vi mạch ], mạch máu lớn [ mạch máu... đọc thêm được chỉ định ở bệnh nhân có bằng chứng sớm về bệnh thận đái đường [ albumin trong nước tiểu] thậm chí khi không có tăng huyết áp, là sự chọn tốt cho việc điều trị tăng huyết áp ở bệnh nhân tiểu đường và người không suy giảm chức năng thận.

thuốc ức chế men chuyển cũng có thể giúp ngăn chặn biến cố tim mạch ở bệnh nhân tiểu đường.

Aspirin 81 đến 325 mg 1 lần/ ngày sẽ giúp bảo vệ hệ tim mạch và nên được sử dụng cho phần lớn bệnh nhân tiểu đường nếu không có chống chỉ định.

Statins thường xuyên được khuyến cáo bởi AHA/ACC cho các bệnh nhân tiểu đường tuổi từ 40-70. Điều trị mức độ trung bình đến cao, không có mục tiêu nồng độ lipid. Với những bệnh nhân dưới 40 tuổi hoặc trên 75 tuổi, statin được dùng dựa trên sự cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ, và sự ưa thích của bệnh nhân. Bệnh nhân tiểu đường type 2 thường có xu hướng tăng cao triglycerid và tăng LDLvà giảm HDL[; họ sẽ điều trị rối loạn mỡ máu như ở bệnh nhân mắc bệnh mạch vành với mục tiêu là: LDL 1.1 mmol/L], and triglycerides

Chủ Đề