Cách mạng tân hợi 1911 do ai lãnh đạo

Nhìn lại 100 năm cuộc Cách mạng Tân Hợi

Chụp lại hình ảnh,

Nhà cách mạng dân chủ Trung Quốc, Tôn Dật Tiên [1866-1925]

Nhân kỷ niệm 100 năm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ do Tôn Trung Sơn lãnh đạo thành công năm 1911 ở Trung Quốc, nhà nghiên cứu lịch sử Chương Thâu đã dành cho BBC một cuộc trao đổi nhìn nhận lại ý nghĩa của sự kiện này.

Nhà sử học cho rằng cuộc cách mạng Tân Hợi, vốn theo khuynh hướng tư sản đại nghị, không chỉ có một ý nghĩa lịch sử đối với Trung Quốc cận đại mà còn tác động đến nhiều quốc gia trong khu vực, như Đông Nam Á và Việt Nam.

Cựu Trưởng phòng Lịch sử Cận đại thuộc Viện Sử học Việt Nam cho rằng một loạt các thế hệ các nhà Cách mạng Việt Nam, từ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cho tới Hồ Chí Minh đều chịu ảnh hưởng sâu rộng của tư tưởng Tam dân Chủ nghĩa của Cách mạng Tân Hợi.

Đối với cả Trung Quốc và Đài Loan, GS Chương Thâu cho rằng Cách mạng Tân Hợi 10/10/2011 và tư tưởng của Tôn Trung Sơn đã có những di sản lịch sử to lớn, tuy Trung Quốc đi theo chủ nghĩa cộng sản, còn Đài Loan vốn trung thành với đường lối dân chủ tư sản [dân tộc, dân chủ, dân sinh] của Tôn Trung Sơn, trở thành một quốc gia theo thể chế dân chủ.

Từ Hi Thái hậu [1835–1908], là hiện thân phe bảo thủ trong triều đình nhà Thanh, bà nắm quyền lực triều chính trong vòng 47 năm, và đã ngăn chặn nỗ lực Bách nhật duy tân của vua Quang Tự [1871–1908].

Sau thất bại Bách nhật duy tân năm 1898, cố vấn vua Quang Tự là Khang Hữu Vi [trái, 1858–1927] và Lương Khải Siêu [1873–1929] đã đi lưu vong, trong khi Đàm Tự Đồng [phải, 1865–1898] bị xử tử. Tại Canada, Khang và Lương thành lập Bảo Hoàng Hội [保皇會] để thúc đẩy chế độ quân chủ lập hiến tại Trung Quốc. Năm 1900, hội ủng hộ cuộc nổi dậy ở miền trung Trung Quốc để giải cứu Quang Tự, và sau đó bị chính quyền Bắc Kinh đàn áp. Sau Cách mạng Tân Hợi 1911-1912, Lương trở thành Bộ trưởng Bộ Tư pháp Trung Hoa Dân Quốc. Khang vẫn tiếp tục ủng hộ bảo hoàng và hỗ trợ phục vị hoàng đế Trung Hoa [Đại Thanh] cho Thanh Đế cuối cùng Phổ Nghi năm 1917 trước khi bị lật đổ trở lại bởi sự phản đối gay gắt của các thế lực quân phiệt cùng toàn bộ nhân dân Trung Quốc.

Sau thất bại đầu tiên trước phương Tây trong Chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất năm 1842, triều đình nhà Thanh đã nỗ lực ngăn chặn sự xâm phạm của người nước ngoài vào Trung Quốc. Những nỗ lực cải cách và điều chỉnh miễn cưỡng sự quản lý truyền thống đã bị triều đình cực bảo thủ ngăn chặn, vốn không muốn có quá nhiều quyền lực bị thay đổi. Sau thất bại Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai năm 1860, nhà Thanh đã cố gắng hiện đại hóa bằng cách áp dụng một số công nghệ phương Tây thông qua Phong trào Tự cường [洋務運動] từ năm 1861.[4] Trong các cuộc chiến chống Thái Bình Thiên Quốc [1851–64], Niệp [1851–68], Vân Nam [1856–68] và Tây Bắc [1862–77], quân đội đế quốc truyền thống tỏ ra thiếu khả năng và triều đình đã dựa vào quân đội địa phương.[5] Năm 1895, Trung Quốc phải chịu một thất bại khác trong Chiến tranh Thanh-Nhật.[6] Điều này chứng tỏ rằng xã hội phong kiến ​​truyền thống Trung Quốc cũng cần phải được hiện đại hóa nếu những tiến bộ công nghệ và thương mại thành công.

Năm 1898 vua Quang Tự được các nhà cải cách lúc đó như Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu cho một cuộc cải cách mạnh mẽ trong giáo dục, quân sự và kinh tế theo Bách nhật duy tân.[6] Cuộc cải cách đột ngột bị ngăn chặn bởi phe bảo thủ do Từ Hi Thái hậu lãnh đạo.[7] Vua Quang Tự, là con rối phụ thuộc vào Từ Hi, bị trục xuất khỏi cung và quản thúc tháng 6/1898.[5] Các nhà cải cách Khang và Lương buộc phải sống lưu vong. Khi ở Canada, vào tháng 6 năm 1899, họ đã cố gắng thành lập Bảo Hoàng Hội trong nỗ lực phục vị hoàng đế.[5] Từ Hi Thái hậu là người kiểm soát chính nhà Thanh từ thời điểm này. Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn thúc đẩy Liên quân bát quốc tấn công Bắc Kinh năm 1900 và sự áp đặt các hiệp ước bất bình đẳng, chia cắt hầu hết lãnh thổ, tạo ra các tô giới và đặc quyền thương mại. Dưới áp lực bên trong và bên ngoài, triều đình nhà Thanh bắt đầu áp dụng một số cải cách. Nhà Thanh quản lý để duy trì sự độc tài trong quyền lực chính trị bằng các cuộc đàn áp, thường rất tàn bạo, với tất cả các cuộc nổi loạn trong nước. Những người bất đồng chính kiến ​​chỉ có thể hoạt động trong các đoàn thể bí mật và các tổ chức ngầm, trong các tô giới hoặc lưu vong ở nước ngoài.

Theo suy nghĩ của những người Hán đương thời [tuyệt đại đa số người Trung Quốc], thì nhà Thanh là một chính quyền do ngoại tộc [Mãn Châu] làm chủ từ năm 1644, vừa hèn yếu thối nát, vừa ngăn trở đất nước phát triển theo đường lối tư bản.

Có nhiều nhà cách mạng và các nhóm muốn lật đổ chính quyền nhà Thanh để tái lập chính quyền do người Hán lãnh đạo. Các tổ chức cách mạng đầu tiên được thành lập bên ngoài Trung Quốc, như Phụ Nhân Văn xã [輔仁文社] do Dương Cù Vân, thành lập tại Hồng Kông năm 1890. Văn xã gồm 15 thành viên, bao gồm Tạ Toản Thái, người đã châm biếm chính trị "Tình hình Viễn Đông", một mạn họa đầu tiên của Trung Quốc, và sau này trở thành một trong những người sáng lập cốt lõi của Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng [南華早報].[8]

Tôn Dật Tiên tại Luân Đôn

Tôn Dật Tiên thành lập Hưng Trung Hội [興中會] tại Honolulu năm 1894 với mục đích chính là gây quỹ cho các cuộc cách mạng.[9] Hai tổ chức đã sát nhập năm 1894.[10]

Các nhóm nhỏ

Hoa hưng Hội được thành lập năm 1904 với các nhân vật nổi tiếng như Hoàng Hưng, Chương Sĩ Chiêu, Trần Thiên Hoa và Tống Giáo Nhân, cùng hơn 100 người khác. Hội có khẩu hiệu là "Chiếm cứ một tỉnh, các tỉnh khác hưởng ứng"nhằm đánh đổ Mãn Thanh vốn cướp nước của người Hán từ 1644 đến lúc đó nên mục tiêu là quét sạch phong kiến quân chủ Mãn Châu để đi thành lập 1 nền Cộng hòa dân quốc Trung Hoa cho người Hán [雄踞一省,与各省纷起].[11]

Quang phục Hội [光復會] thành lập năm 1904, tại Thượng Hải, bởi Thái Nguyên Bồi. Các nhân vật nổi tiếng gồm Chương Bỉnh Lân và Đào Thành Chương.[12] Mặc dù tuyên bố phản Thanh, Quang phục Hội rất phê phán Tôn Dật Tiên.[13] Một trong những nhà cách mạng nữ nổi tiếng nhất là Thu Cẩn, người đấu tranh cho quyền của phụ nữ và cũng đến từ Quang phục hội.[13]

Ngoài ra còn có nhiều tổ chức cách mạng nhỏ khác, như Lệ Trí Học hội [勵志學會] tại Giang Tô, Công Cường hội [公強會] tại Tứ Xuyên, Ích Văn hội [益聞會] và Hán tộc Độc lập hội [漢族獨立會] tại Phúc Kiến, Dị Tri xã [易知社] tại Giang Tây, Nhạc Vương hội [岳王會] tại An Huy và Quần Trí hội [群智會/群智社] tại Quảng Châu.[14]

Ngoài ra còn có các tổ chức vũ trang chống Mãn Châu, gồm Thanh bang [青帮] và Hồng môn Trí Công đường [致公堂].[15] Tôn Trung Sơn đã tiếp xúc với Hồng môn, còn được gọi Thiên Địa hội.[16][17]

Ca Lão hội [哥老會] là một tổ chức khác, với Chu Đức, Ngô Ngọc Chương, Lưu Chí Đan và Hạ Long. Đây là nhóm cách mạng cuối cùng phát triển thành đảng Cộng sản.

Tôn Dật Tiên với thành viên Đồng Minh hội

Đồng Minh hội

Tôn Dật Tiên thống nhất thành công Hưng Trung Hội, Hoa hưng Hội và Quang Phục Hội vào mùa hè năm 1905, qua đó thành lập Đồng Minh Hội [同盟會] tháng 8/1905 tại Tokyo.[18] Cương lĩnh của Hội là "Đánh đuổi giặc Thát[19], khôi phục Trung Hoa, lập chính phủ hợp quần". Khi thành lập Đồng Minh hội có 90% thành viên có độ tuổi từ 17 đến 26.[20] Một số tác phẩm trong thời đại bao gồm các ấn phẩm mạn họa, như Thời sự Họa báo [時事畫報].[21]

Theo sử liệu, thì Cách mạng Tân Hợi thành công không phải ngẫu nhiên, mà là kết quả của cuộc vận động cách mạng lâu dài và các cuộc nổi dậy trước đó, mà công đầu là Đồng Minh hội do Tôn Dật Tiên làm Tổng lý.

Trước Cách mạng Tân Hợi

Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, thì trước khi Cách mạng Tân Hợi nổ ra, Tôn Dật Tiên và đảng cách mạng của ông đã tổ chức 10 cuộc khởi nghĩa chống Thanh nhưng đều bị thất bại. Điểm lược một vài vụ nổi bật:

Năm 1895, nhân lúc nhân dân cả nước căm giận nhà Thanh ký hiệp ước Mã Quan với Nhật Bản, ngày 26 tháng 10, Tôn Dật Tiên định tổ chức khởi nghĩa ở Quảng Châu. Nhưng kế hoạch bị lộ, các đồng chí của ông bị giam và bị giết hơn 70 người, ông phải trốn sang Nhật Bản, rồi qua Honolulu. Đây là cuộc khởi nghĩa lần đầu của ông[22].

Tháng 11 năm 1899, phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ, Tôn Dật Tiên cùng với các đồng chí chạy thoát vội trở về nước, tổ chức khởi nghĩa ở Quảng Châu lần thứ hai. Ông cử Trịnh Sĩ Lương đi đánh Huệ Châu [Quảng Đông], Sử Kiên Như đi ném tạc đạn giết Tổng đốc Đức Thọ. Nhưng cả hai việc đều thất bại. Sử Kiên Như tuẫn nạn và nhiều chiến sĩ cách mạng khác lại bị bắt giam và bị giết.

Ngày 18 tháng 9 năm 1905 tại Tokyo [Nhật Bản], Tôn Dật Tiên cùng Hoàng Hưng chủ trì việc hợp nhất Hưng Trung Hội với hai tổ chức cách mạng khác là Quang Phục hội và Hoa Trung hội. Kể từ đây, đảng vừa hợp nhất có tên là Trung Quốc Đồng Minh hội [gọi tắt là Đồng Minh hội], do Tôn Dật Tiên làm Tổng lý[23]. Năm 1906, hai hội viên của Đồng Minh hội là Lưu Đạo Nhất và Thái Thiệu Nam tổ chức khởi nghĩa ở ba nơi là Bình Hương [Giang Tây], Trương Lăng [24] và Lưu Dương [Hồ Nam], nhưng tất cả đều thất bại.

Mùa thu năm 1907, Đồng Minh hội tổ chức khởi nghĩa ở Khâm Châu thuộc Quảng Đông [nay thuộc Quảng Tây]. Chiếm được Phòng Thành, nhưng vì không có tiếp tế, phải rút vào Thập Vạn Đại Sơn[25]. Đến mùa đông năm ấy, quân cách mạng đánh chiếm Trấn Nam Quan[26], Khâm Châu, Liêm Châu [nay tên là Hợp Phố thuộc Quảng Tây], Thượng Tư [Quảng Tây], nhưng rồi cùng vì không có tiếp tế nên phải rút đi.

Năm 1908, quân cách mạng cùng dân địa phương khởi nghĩa ở Hà Khẩu [Vân Nam]. Sau khi đánh thắng một trận lớn, quân và dân cùng tiến lên uy hiếp Mông Tự, nhưng rồi cũng phải rút đi vì không có tiếp tế. Mùa thu năm ấy, chi bộ Đồng Minh hội thành lập ở Hương Cảng [Hồng Kông]. Năm 1910, tổ chức này cho người vận động lực lượng tân binh ở Quảng Đông nổi dậy, nhưng bị đàn áp ngay.

Tháng 4 năm 1911, Đồng Minh hội chọn 500 cảm tử quân, hợp với quân địa phương, đánh vào dinh Tổng đốc Quảng Châu. Cuộc đột kích này do Hoàng Hưng và Triệu Thanh chỉ huy, nổ ra ngày 27 tháng 4 năm 1911 [tức ngày 29 tháng 3 năm Tân Hợi]. Tuy nhiên, do quân cảm tử và khí giới không đến cùng một lượt, và còn do bị lộ, nên số quân đánh vào dinh Tổng đốc phải tuẫn nạn nhiều. Sau tìm được 72 thi hài đem hợp táng tại Hoàng Hoa Cương ở Quảng Châu, và được người đời gọi là Thất thập nhị liệt sĩ [27]. Đây là lần khởi nghĩa thứ 10 do Đồng Minh hội tổ chức, trước khi nổ ra cuộc khởi nghĩa tự phát ở Vũ Xương.

Cũng trong khoảng thời gian này, việc nhà Thanh trao quyền kinh doanh đường sắt Việt-Hán và Xuyên Hán cho Mỹ đã gây thêm một làn sóng căm phẫn trong nhân dân Trung Quốc. Khắp nơi, nổi lên phong trào đòi tẩy chay hàng Mỹ, đòi chính phủ xóa bỏ điều ước đã ký với Mỹ. Thấy người dân chống đối quá, Mỹ đồng ý xóa điều ước với điều kiện Thanh đình phải bồi thường 6. 750.000 đô la. Vừa sợ đế quốc, vừa sợ nhân dân, Thanh đình sai Tổng đốc Lưỡng Hồ là Trương Chi Động vay tiền của Anh để bồi thường cho Mỹ.

Đến ngày 9 tháng 5 năm 1911, Thanh đình ra sắc lệnh "Quốc hữu hóa đường sắt" nhưng thực chất là trao quyền kinh doanh cho bốn nước là Anh, Mỹ, Pháp và Đức. Lập tức lần lượt ở Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Châu, Tứ Xuyên...nhân dân nổi lên chống đối vì họ cho rằng Thanh đình đã bán rẻ quyền lợi dân tộc. Thanh đình bèn ra lệnh trấn áp phong trào quyết liệt, cấm báo chí đưa tin, cấm bãi thị, bãi khóa, diễn thuyết và cho giải tán các hội đồng bảo vệ đường sắt...Tuy nhiên, bất chấp lệnh trên, bất chấp cả những lời lẽ can ngăn của phái quân chủ "lập hiến", phong trào chống đối vẫn lên cao, nhất là ở Tứ Xuyên[28].

Ngày 7 tháng 9 năm 1911, Tổng đốc Tứ Xuyên là Triệu Nhĩ Phong phái người đến mời các thủ lĩnh trong hội bảo vệ đường sắt đến dinh thương lượng, nhưng sau đó cho lính bắt tất cả. Thấy điều bạo ngược, hàng vạn người dân Thành Đô [tỉnh lỵ của tỉnh Tứ Xuyên] kéo đến dinh Tổng đốc đòi thả người, nhưng bị Triệu Nhĩ Phong ra lệnh nổ súng làm chết 32 người và làm bị thương nhiều người khác.Căm phẫn tột độ, phong trào bãi khóa, bãi thị lan rộng ra toàn tỉnh Tứ Xuyên, về sau phát triển mạnh thành cuộc khởi nghĩa Thành Đô, buộc triều Thanh phải đem quân từ Hồ Bắc về trấn áp.

Tổ chức khác

Tháng 2/1906 Nhật Tri hội [日知會] cũng gồm nhiều nhà cách mạng, như Tôn Vũ [孫武], Trương Hán Kiệt, Hà Quý Đạt và Chu Tử Long.[29][30] Những người tham gia hội sau đó trở thành nòng cốt thành lập Đồng Minh hội tại Hồ Bắc.

Trong tháng 7/1907 một số thành viên của Đồng Minh hội ở Tokyo đã ủng hộ một cuộc cách mạng ở khu vực sông Dương Tử. Lưu Quỹ Nhất [劉揆一], Tiêu Đạt Phong [焦達峰], Trương Bá Tường [張伯祥] và Tôn Vũ [孫武] thành lập Cộng Tiến hội [共進會].[31][32] Trong tháng 1/1911, tổ chức cách mạng Chấn Vũ học xã [振武學社] đổi tên thành Văn học xã [文學社].[33] Tưởng Dực Võ [蔣翊武] được chọn làm lãnh đạo.[34] Hai tổ chức này sau đó đóng góp vai trò quan trọng trong Cách mạng Vũ Xương.

Nhiều nhà cách mạng trẻ đã thông qua chương trình cấp tiến vô chính phủ. Tại Tokyo Lưu Sư Bồi [劉師培] đề xuất lật đổ chính quyền người Mãn và quay lại giá trị chính thống Trung Quốc. Tại Paris Lưu Sư Bồi, Ngô Trĩ Huy và Trương Nhân Kiệt tán thành với Tôn Vũ về sự cần thiết cách mạng và gia nhập Đồng Minh hội, nhưng lập luận rằng một sự thay thế chính trị của một chính phủ bằng một chính phủ khác sẽ không tiến bộ;cách mạng trong gia đình, giới tính và xã hội sẽ loại bỏ giá trị của chính quyền và sự áp bức. Trương Kế một người vô chính phủ cho rằng phương tiện cách mạng là bảo vệ ám sát và khủng bố, nhưng những người khác khẳng định rằng chỉ có giáo dục là chính đáng. Những người vô chính phủ quan trọng bao gồm Thái Nguyên Bồi, Uông Tinh Vệ và Trương Nhân Kiệt, là những người hỗ trợ tài chính cho Tôn Vũ. Nhiều người trong số những người vô chính phủ này sau đó sẽ đảm nhận các vị trí cao trong Quốc Dân Đảng [KMT].[35]

Tầm nhìn

Nhiều nhà cách mạng đẩy mạnh quan điểm phản Thanh/chống-Mãn và nhắc lại truyền thống lịch sử những cuộc chiến chống Mãn Châu với người Hán trong thời nhà Minh [1368–1644]. Chủ đạo giới trí thức bị ảnh hưởng bởi những cuốn sách có từ thời cuối nhà Minh, triều đại cuối cùng của người Hán. Năm 1904, Tôn Dật Tiên tuyên bố mục tiêu tổ chức là "đánh đuổi giặc Thát, khôi phục Trung Hoa, thành lập Dân quốc, bình đẳng ruộng đất." [驅除韃虜, 恢復中華, 創立民國, 平均地權].[18] Nhiều tổ chức ngầm thúc đẩy ý tưởng "Phản Thanh phục Minh" [反清復明] đã có từ những ngày Thái bình Thiên quốc.[36] Những người khác như Chương Bỉnh Lân, hỗ trợ con đường "hưng Hán diệt Hồ" [興漢滅胡] và "chủ nghĩa bài Mãn" [排滿主義].[37]

Cuộc cách mạng Tân Hợi được nhiều nhóm ủng hộ, bao gồm cả sinh viên và trí thức từ nước ngoài trở về, cũng như những người tham gia các tổ chức cách mạng, ở hải ngoại, binh lính của Tân quân, quý tộc địa phương, nông dân và những người khác.

Hải ngoại

Hỗ trợ từ Hoa kiều trong Cách mạng Tân Hợi là hết sức quan trọng. Năm 1894, Hưng Trung hội tổ chức cuộc họp tại nhà của một Hoa kiều.[38] Hoa kiều tham gia hỗ trợ và tích cực tài trợ cho các hoạt động cách mạng, đặc biệt là người Hoa ở Đông Nam Á đặc biệt ở Malaya.[39] Nhiều nhóm sau được Tôn Dật Tiên tổ chức lại, người được gọi "cha đẻ Cách mạng Trung Quốc".[39]

Trí thức mới xuất hiện

Năm 1906, sau khi bãi bỏ chế độ khoa cử phong kiến, chính quyền nhà Thanh cho thành lập nhiều trường học mới và khuyến khích sinh viên đi du học. Nhiều thanh niên đã theo học các trường mới thành lập hoặc đi du học ở nước ngoài như Nhật Bản.[40] Một lớp trí thức mới xuất hiện từ những học sinh đó, những người đã đóng góp rất nhiều cho Cách mạng Tân Hợi. Bên cạnh Tôn Trung Sơn, các nhân vật chủ chốt trong cuộc cách mạng như Hoàng Hưng, Tống Giáo Nhân, Hồ Hán Dân, Liệu Trọng Khải, Chu Chấp Tín và Uông Tinh Vệ, tất cả đều là du học sinh ở Nhật Bản. Một số trí thức trẻ như Trâu Dung, được biết tới là người viết Cách mạng quân, trong đó ông nói về sự hủy diệt của Mãn Châu trong 260 năm bị áp bức, đau khổ, tàn ác, chuyên chế và biến con cháu Hoàng đế trở thành George Washington.[41]

Trước năm 1908, các nhà cách mạng tập trung vào việc sắp xếp các tổ chức để chuẩn bị cho các cuộc nổi dậy mà các tổ chức sẽ phát động; do đó, các tổ chức sẽ được cung cấp hầu hết nhân lực cần thiết cho việc lật đổ nhà Thanh. Sau Cách mạng Tân Hợi, Tôn Trung Sơn nhớ lại những ngày tuyển dụng hỗ trợ cho cách mạng và nói: "Các nhà văn chuyên tâm vào việc tìm kiếm danh vọng và lợi nhuận, vì vậy họ chỉ được coi là thứ yếu. Ngược lại, các tổ chức như Thiên Địa hội đã có thể gieo rắc rộng rãi những ý tưởng phản Thanh phục Minh."[42]

Thượng lưu và tư sản

Hòa Thạc Khánh Thân vương với các thành viên trong nội các hoàng gia

Quyền lực giới thượng lưu ở địa phương trở nên rõ ràng. Từ tháng 12 năm 1908, chính quyền nhà Thanh đã tạo ra một số bộ máy cho phép các thượng lưu và tư sản tham gia chính trị. Những người trung lưu này ban đầu là những người ủng hộ chủ nghĩa hợp hiến. Tuy nhiên, họ trở nên bất mãn khi chính quyền nhà Thanh tạo ra nội các do Hòa Thạc Khánh Thân vương làm Tổng lý.[43] Đến năm 1911, nội các thí điểm gồm 13 thành viên, trong đó có chín người Mãn được lựa chọn từ hoàng gia.[44]

Người ngoại quốc

Bên cạnh người Trung Quốc và Hoa kiều, một số người cũng ủng hộ và tham gia Cách mạng Tân Hợi là người nước ngoài; Trong số đó, người Nhật là nhóm tích cực nhất. Một số người Nhật thậm chí đã trở thành thành viên của Đồng Minh hội. Miyazaki Touten là người Nhật hỗ trợ thân thiết nhất; một số khác như Heiyama Shu, Ryōhei Uchida. Homer Lea một người Mỹ, người trở thành cố vấn nước ngoài thân thiết của Tôn Trung Sơn vào năm 1910, đã ủng hộ tham vọng quân sự của Tôn Trung Sơn.[45]Lính Anh Rowland J. Mulkern cũng tham gia cách mạng.[46] Một số người nước ngoài, như nhà thám hiểm người Anh Arthur de Carle Sowerby, đã dẫn đầu các cuộc thám hiểm để giải cứu các nhà truyền giáo nước ngoài vào năm 1911 và 1912.[47]

Viên Thế Khải [1859–1916]

Viên vươn lên nắm quyền ở miền bắc Trung Quốc và xây dựng quân đội Bắc Dương.

Tổ chức cánh cực hữu theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan Nhật Hắc Long hội [黑龍會] cũng hỗ trợ các hoạt động của Tôn Trung Sơn chống lại Mãn Châu, họ tin rằng việc lật đổ nhà Thanh sẽ giúp người Nhật chiếm lấy vùng Mãn Châu và người Hán sẽ không phản đối việc này. Toyama tin rằng người Nhật có thể dễ dàng chiếm Mãn Châu, Tôn Trung Sơn cùng các nhà cách mạng phản Thanh khác sẽ không kháng cự đồng thời giúp người Nhật tiếp quản và mở rộng buôn bán thuốc phiện ở Trung Quốc trong khi nhà Thanh đang cố gắng tiêu diệt buôn bán thuốc phiện. Hắc Long hội ủng hộ nhà cách mạng Tôn Trung Sơn và chống Mãn Châu cho đến khi nhà Thanh sụp đổ.[48] Tổ chức cánh cực hữu theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan Huyền Dương xã [玄洋社] lãnh đạo bởi Tōyama Mitsuru hỗ trợ bài Mãn, phản Thanh bao gồm các hoạt động do Tôn Trung Sơn tổ chức và ủng hộ Nhật Bản tiếp quản Mãn Châu. Đồng Minh hội phản Thanh được thành lập và có trụ sở tại Nhật Bản, nơi tập trung nhiều nhà cách mạng chống Thanh.

Người Nhật đã cố gắng hợp nhất các nhóm chống Mãn được lập ra từ người Hán để đánh bại nhà Thanh. Người Nhật là những người đã giúp Tôn Trung Sơn hợp nhất tất cả các nhóm cách mạng chống Thanh, chống Mãn cùng nhau và có những người Nhật như Tōten Miyazaki trong liên minh cách mạng chống Mãn Châu. Hắc Long hội tổ chức cho Đồng Minh hội cuộc họp đầu tiên.[49] Hắc Long hội có mối quan hệ rất mật thiết với Tôn Trung Sơn và thúc đẩy chủ nghĩa châu Á và Tôn nhiều khi tự biến mình thành người Nhật[50] và họ đã có mối liên hệ với Tôn trong một thời gian dài.[51] Các nhóm Nhật Bản như Hắc Long hội có tác động lớn đến Tôn Trung Sơn.[52] Theo sử gia quân sự Mỹ, sĩ quan quân đội Nhật là một phần của Hắc Long hội. Yakuza và Hắc Long hội đã giúp sắp xếp tại Tokyo để Tôn Trung Sơn tổ chức các cuộc họp đầu tiên, và hy vọng sẽ tràn ngập Trung Quốc bằng thuốc phiện và lật đổ nhà Thanh và đánh lừa người Trung Quốc lật đổ nhà Thanh, thực tế vì lợi ích của Nhật Bản. Sau khi cuộc cách mạng thành công, Hắc Long hội bắt đầu thâm nhập vào Trung Quốc và truyền bá thuốc phiện. Hắc Long hội được Nhật Bản cho tiếp quản Mãn Châu vào năm 1932.[53] Tôn Trung Sơn đã lấy vợ là người Nhật, Kaoru Otsuki.

Binh sĩ Tân quân

Bài chi tiết: Tân quân [nhà Thanh]

Tân quân được thành lập năm 1901 sau khi nhà Thanh thất bại trong Chiến tranh Thanh-Nhật.[40] Được thành lập theo sắc lệnh của Bát kỳ.[40] Tân quân được trang bị và huấn luyện tốt nhất.[40] Tân quân có chất lượng cao hơn so với lực lượng cũ và thúc đẩy dần thành quân đội chính quy.[40] Bắt đầu từ năm 1908, những người cách mạng bắt đầu kêu gọi Tân quân. Tôn Trung Sơn và các nhà cách mạng thâm nhập vào Tân quân.[54]

Lãnh đạo cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 ở Trung Quốc là

A. Mao Trạch Đông.

B. Tôn Trung Sơn.

C. Hồng Tú Toàn.

D. Đặng Tiểu Bình.

Video liên quan

Chủ Đề