Bong gân ngón chân bao lâu thì khỏi

[Xem thêm Tiếp cận chấn thương thể thao Tiếp cận với chấn thương thể thao Tham gia chơi thể thao luôn có nguy cơ chấn thương. Thông thường, chấn thương thể thao có thể được chia thành Chấn thương do thi đấu quá sức Chấn thương do vật tù Gãy xương và trật khớp [xem... đọc thêm .]

Bong gân là tổn thương ở dây chằng; căng cơ là tổn thương trong cơ. Tổn thương [đứt] cũng có thể xảy ra đối với gân.

Bên cạnh bong gân, căng cơ, và tổn thương gân, các tổn thương cơ xương còn bao gồm:

  • Gãy xương Tổng quan về gãy xương Gãy xương là hiện tượng phá vỡ xương. Hầu hết các loại gãy xương cần một lực mạnh tác động lên xương bình thường. Ngoài gãy xương, còn có kèm theo các thương tổn phần mềm hệ cơ xương. Trật khớp... đọc thêm

  • Trật khớp toàn phần Tổng quan về trật khớp Trật khớp là sự di lệch hoàn toàn của 2 đầu xương của khớp. Bán trật khớp là di lệch một phần. Thông thường, nhân viên y tế sẽ nắn khớp, nhưng đôi khi khớp tự nắn trật [tụ về vị trí ban đầu]... đọc thêm và bán trật

Tổn thương cơ xương khớp khá phổ biến và rất khác nhau về cơ chế, mức độ nghiêm trọng và điều trị. Các chi, cột sống và xương chậu có thể bị ảnh hưởng.

Tổn thương cơ xương khớp có thể xuất hiện riêng lẻ hoặc nằm trong bệnh cảnh đa chấn thương [xem Tiếp cận bệnh nhân chấn thương Tiếp cận bệnh nhân chấn thương đọc thêm ]. Hầu hết các tổn thương cơ xương khớp do chấn thương đụng giập, tuy nhiên vết thương xuyên thấu cũng có thể gây ra.

Sinh lý bệnh

Bong gân và căng cơ

Tổn thương dây chằng hoặc cơ có thể được phân loại thành

  • Độ 1: Tổn thương tối thiểu [các sợi bị kéo căng nhưng còn nguyên vẹn, hoặc chỉ một vài sợi bị đứt]

  • Độ 2: Một phần [một số cho đến hầu hết các sợi đều bị rách]

  • Độ 3: Hoàn toàn [tất cả các sợi đều bị đứt]

Tổn thương gân

Đứt gân có thể bán phần hoặc hoàn toàn.

Với tổn thương hoàn toàn, thường mất vận động do cơ chi phối.

Tổn thương bán phần có thể là do một chấn thương riêng lẻ [ví dụ chấn thương xuyên thấu] hoặc hoạt động lặp đi lặp lại [mạn tính, gây ra bệnh về gân]. Vận động thường không thay đổi, nhưng tổn thương bán phần có thể tiến triển thành tổn thương hoàn toàn, đặc biệt khi có lực tác động đáng kể hoặc lặp đi lặp lại.

Hồi phục

Nhiều tổn thương bán phần dây chằng, gân hoặc cơ hồi phục tự nhiên.

Tổn thương hoàn toàn thường yêu cầu phẫu thuật để hồi phục về giải phẫu và chức năng.

Tiên lượng và điều trị thay đổi rất nhiều tùy theo vị trí và mức độ nghiêm trọng của tổn thương.

Biến chứng

Các biến chứng nghiêm trọng do chấn thương gân, dây chằng không thường gặp tuy nhiên lại có thể dẫn đến mất chức năng chi thể vĩnh viễn.

Các biến chứng cấp tính [tổn thương liên quan] bao gồm:

  • Chảy máu: Chảy máu [ví dụ, bầm tím, tụ máu] kèm theo tất cả các tổn thương phần mềm nhiều.

  • Tổn thương mạch máu: Ít khi tổn thương dây chằng gây ra tổn thương mạch máu tuy nhiên trong một số tổn thương dây chằng nặng ví dụ gây trật gối gây tổn thương động mạch có nguy cơ cắt cụt cao.

  • Tổn thương thần kinh: Thần kinh bị tổn thương khi bị căng giãn hoặc tổn thương do các chấn thương đi kèm như gãy xương hoặc trật khớp hoặc do tổn thương đụng giập hoặc tổn thương giập nát. Khi các dây thần kinh bị đụng giập [gọi là mất chức năng thần kinh tạm thời], dẫn truyền thần kinh bị gián đoạn, nhưng dây thần kinh không bị đứt rời. Mất chức năng thần kinh tạm thời gây ra mất vận động và/hoặc cảm giác tạm thời; chức năng thần kinh hồi phục hoàn toàn trong khoảng 6-8 tuần. Khi dây thần kinh bị giập nát [gọi là đứt sợi trục thần kinh], sợi trục bị thương, nhưng bao myelin thì không. Tổn thương này nghiêm trọng hơn so với mất chức năng thần kinh tạm thời. Tùy thuộc vào mức độ tổn thương, thần kinh có thể tái tạo trong vài tuần cho tới nhiều năm. Thông thường, các dây thần kinh bị đứt rời [gọi là đứt thần kinh] trong các vết thương hở. Các dây thần kinh bị đứt rời không tự lành và cần có phẫu thuật can thiệp.

  • Hội chứng khoang Hội chứng chèn ép khoang Hội chứng khoang là hiện tượng tăng áp lưc mô mềm trong khoang kín, dẫn đến thiếu máu mô. Triệu chứng sớm nhất là đau quá mức thương tổn. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, khẳng định bằng đo áp lực... đọc thêm : Hiếm khi, việc sưng nề do bó bột dẫn đến hội chứng khoang. Áp suất mô tăng lên trong không gian khép kín, làm gián đoạn cấp máu và giảm tưới máu mô. Hội chứng khoang không được điều trị có thể dẫn tới tiêu cơ vân, tăng kali máu, và nhiễm trùng. Nó cũng có thể gây ra co cơ, giảm cảm giác, liệt. Hội chứng khoang đe doạ đến sự tồn tại của chi thể [có thể cần phẫu thuật cắt bỏ] và thậm chí là tính mạng.

Các biến chứng muộn bao gồm:

  • Sự mất vững: Các tổn thương dây chằng khác nhau, đặc biệt là bong gân độ 3, có thể dẫn đến mất vững khớp. Mất vững có thể gây tàn tật và làm tăng nguy cơ thoái hóa khớp.

  • Cứng khớp và giảm tầm vận động:Cứng khớp dễ xảy ra nếu bất động khớp kéo dài. Khớp gối, khuỷu tay, và vai đặc biệt dễ bị cứng sau chấn thương, đặc biệt ở người cao tuổi.

  • Thoái hóa khớp Thoái hóa khớp [OA] Thoái hóa khớp là bệnh khớp mạn tính có đặc điểm là nứt vỡ và mất sụn khớp cùng với những thay đổi khác của khớp, bao gồm phì đại xương [hình thành gai xương]. Triệu chứng bao gồm đau xuất hiện... đọc thêm : Các chấn thương làm mất vững khớp thường dẫn đến tăng lực tác động lên khớp, hỏng sụn khớp và dẫn đến thoái hóa khớp.

Lượng giá

  • Đánh giá tổn thương nặng

  • Bệnh sử và thăm khám lâm sàng

  • X-quang để kiểm tra gãy xương

Chẩn đoán bong gân, căng cơ, tổn thương gân nên bao gồm hỏi bệnh sử chi tiết và thăm khám lâm sàng mới đủ chẩn đoán.

Trong phòng cấp cứu, nếu cơ chế chấn thương cho thấy có tổn thương nặng hoặc đa tổn thương [như trong trường hợp tai nạn xe máy tốc độ cao hoặc ngã cao], bệnh nhân đầu tiên được đánh giá từ đầu đến chân xem có tổn thương nghiêm trọng đến tất cả các hệ cơ quan không, nếu cần thiết cần phải hồi sức [xem Tiếp cận bệnh nhân chấn thương Tiếp cận bệnh nhân chấn thương đọc thêm ].

Bệnh nhân cần được kiểm tra xem có gãy xương và trật khớp cũng như tổn thương dây chằng, gân và cơ; đôi khi một phần của đánh giá tổn thương này được trì hoãn cho đến khi loại trừ được gãy xương.

Các khớp ở trên và dưới khớp bị tổn thương cũng cần được kiểm tra.

Bệnh sử

Bệnh sử tập trung vào

  • Cơ chế chấn thương

  • Chấn thương cũ

  • Thời điểm bắt đầu đau

  • Mức độ và thời gian đau trước, trong và sau khi hoạt động

Các bác sĩ cũng nên hỏi về việc sử dụng các thuốc [ví dụ, fluoroquinolones, corticosteroid] làm tăng nguy cơ bị tổn thương gân.

Cơ chế [ví dụ, hướng và cường độ của lực] có thể gợi ý kiểu chấn thương Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân không nhớ hoặc không thể mô tả chính xác cơ chế.

Nếu bệnh nhân cho biết có biến dạng đã được xử trí trước khi được thăm khám y khoa, biến dạng đó được nhận định là biến dạng thực sự đã thuyên giảm tự nhiên.

Tiếng kêu tại khớp tại thời điểm bị thương có thể là dấu hiệu của tổn thương dây chằng hoặc gân [hoặc gãy xương]. Tổn thương dây chằng nặng thường gây đau ngay lập tức; đau xuất hiện sau vài giờ cho đến vài ngày sau chấn thương gợi ý tổn thương nhẹ.

Thăm khám thực thể

Thăm khám bao gồm

  • Đánh giá mạch và thần kinh

  • Nhìn xem có biến dạng, sưng tấy, bầm tím, vết thương hở, và giảm vận động hoặc cử động bất thường

  • Sờ xem có điểm đau, tiếng lép bép, và tổn thương xương hoặc gân

  • Kiểm tra các khớp ở trên và dưới vùng tổn thương

  • Sau khi gãy xương và trật khớp được loại trừ [bằng thăm khám lâm sàng hoặc bằng chẩn đoán hình ảnh], test kiểm tra các khớp bị ảnh hưởng xem có đau và mất vững không

Nếu co cơ và đau làm hạn chế thăm khám thực thể [đặc biệt là các nghiệm pháp thăm khám], thăm khám sẽ dễ dàng hơn sau khi bệnh nhân được dùng thuốc giảm đau toàn thân hoặc gây tê tại chỗ. Hoặc vùng tổn thương có thể được bất động cho đến khi bớt co cơ và giảm đau, thường là sau vài ngày, và sau đó bệnh nhân được kiểm tra lại.

Biến dạng gợi ý đến trật khớp, bán trật [di lệch một phần trong số các xương tạo lên khớp], hoặc gãy xương.

Sưng thường cho thấy có tổn thương cơ xương khớp đáng kể nhưng cần một vài giờ để thấy rõ. Nếu sưng không xuất hiện trong thời gian này, không nghĩ đến có đứt dây chằng.

Ấn đau đi kèm với gần như tất cả các tổn thương, và đối với nhiều bệnh nhân, chạm vào bất cứ nơi nào xung quanh vùng tổn thương đều gây khó chịu. Tuy nhiên, sự gia tăng đáng kể mức độ ấn đau ở một vùng khu trú [điểm đau] gợi ý đến bong gân [hoặc gãy xương]. Ấn đau tại chỗ bám dây chằng và cảm giác đau khi khớp bị ảnh hưởng cho thấy có tổn thương. Với rách gân hoặc cơ hoàn toàn, một vùng khuyết có thể sờ thấy rõ nơi cấu trúc bị ảnh hưởng.

Mất vững khớp nhiều gợi ý đến đứt dây chằng rất nặng [hoặc trật khớp, cái có thể tự thuyên giảm].

Test áp lực [stress] Nghiệm pháp áp lực [Xem thêm Tổng quan tổn thương dây chằng và các chấn thương mô mềm khác.] Đứt dây chằng ngoài khớp [dây chằng bên trong và bên ngoài] hoặc trong khớp [dây chằng chéo trước hoặc chéo sau] hoặc... đọc thêm được thực hiện để đánh giá độ vững của một khớp bị tổn thương; tuy nhiên, nếu nghi ngờ có gãy xương thì nghiệm pháp này không được thực hiện cho đến khi X-quang loại trừ được gãy xương. Test áp lực cạnh giường bao gồm việc vận động thụ động khớp theo hướng vuông góc với vận động bình thường. Bởi vì cơ co trong những chấn thương đau cấp tính có thể che lấp sự mất vững khớp, cần giãn các cơ xung quanh càng nhiều càng tốt, và việc thăm khám nên bắt đầu nhẹ nhàng, sau đó lặp đi lặp lại, với lực tăng dần qua mỗi lần. Các kết quả được so sánh với bên đối diện bình thường nhưng có thể bị giới hạn bởi bản chất chủ quan.

Các kết quả có thể giúp phân biệt đứt dây chằng độ 2 và độ 3:

  • Đứt dây chằng độ 2: Đau khi tiến hành nghiệm pháp, và vận động của khớp bị giới hạn.

  • Đứt dây chằng độ 3: Ít đau đớn hơn khi tiến hành nghiệm pháp bởi vì dây chằng đã bị rách hoàn toàn và không còn được kéo căng, tầm vận động khớp tăng rõ rệt.

Nếu cơ còn co nhiều dù đã sử dụng thuốc giảm đau hoặc thuốc gây tê, nên khám lại vài ngày sau đó, khi bớt co cơ.

Điểm mấu chốt và sai lầm

  • Test áp lực có thể ít gây đau hơn với bong gân độ 3 so với bong gân độ 2.

Một số trường hợp đứt gân bán phần ban đầu khó phát hiện trên lâm sàng vì chức năng không thay đổi. Bất kỳ dấu hiệu nào sau đây đều gợi ý đến đứt gân bán phần:

  • Ấn đau tại gân

  • Đau khi vận động theo tầm vận động của khớp

  • Mất chức năng

  • Yếu

  • Sờ thấy vùng tổn thương

Đứt gân bán phần có thể tiến triển thành đứt gân hoàn toàn nếu bệnh nhân tiếp tục vận động vùng bị thương. Nếu cơ chế chấn thương hoặc thăm khám cho thấy tổn thương gân bán phần hoặc nếu thăm khám không xác định được thì cần dùng nẹp để bất động và không gây tổn thương thêm. Bước đánh giá tiếp, đôi khi cần chụp MRI, để đánh giá phạm vi, mức độ tổn thương.

Cần chú ý đến các vùng tổn thương nhất định trong quá trình thăm khám để phát hiện các tổn thương thường bị bỏ sótxem Bảng: Thăm khám các tổn thương phần mềm thường bị bỏ sót Thăm khám các tổn thương phần mềm thường bị bỏ sót [Xem thêm Tiếp cận chấn thương thể thao.] Bong gân là tổn thương ở dây chằng; căng cơ là tổn thương trong cơ. Tổn thương [đứt] cũng có thể xảy ra đối với gân. Bên cạnh bong gân, căng cơ, và... đọc thêm ].

Nếu khám thực thể bình thường tại khớp mà bệnh nhân kêu đau, nguyên nhân có thể chỉ do cảm giác đau của bệnh nhân. Chẳng hạn, những bệnh nhân bị chấn thương khớp ức đòn có thể cảm thấy đau ở vai. Vì vậy, các bác sĩ lâm sàng nên luôn luôn khám các khớp ở trên và dưới nơi tổn thương.

Chẩn đoán hình ảnh

Không phải tất cả các tổn thương chi đều cần đến chẩn đoán hình ảnh. Nhiều trường hợp tổn thương dây chằng mắt cá không đòi hỏi phải X-quang trong quá trình đánh giá ban đầu bởi vì xác suất tìm ra một đường vỡ xương mà cần thay đổi phương pháp điều trị thấp; đối với bong gân mắt cá chân, tiêu chuẩn chỉ định chụp X-quang được chấp nhận rộng rãi [ Quy luật mắt cá chân Ottawa [Xem thêm Tổng quan tổn thương dây chằng và các chấn thương mô mềm khác.] Tổn thương dây chằng cổ chân rất phổ biển, thường gặp nhất là do lật bàn chân vào trong. Các dấu hiệu chung là đau,... đọc thêm ] giúp hạn chế tia X cho những bệnh nhân có nhiều khả năng bị gãy cần điều trị đặc biệt. Nếu cần chẩn đoán hình ảnh, chụp X-quang thường được ưu tiên thực hiện.

Chụp X-quang thường quy, thấy được chủ yếu là xương [và gián tiếp thấy tràn dịch khớp do chảy máu hoặc có vỡ xương nhưng bị khuất], được thực hiện để kiểm tra trật khớp và gãy xương; Chụp X-quang thường không thấy được các bằng chứng trực tiếp của đứt dây chằng nhưng có thể thấy các tương quan giải phẫu bất thường gợi ý đến đứt dây chằng hoặc tổn thương phần mềm khác. Chụp X-quang nên gồm ít nhất 2 hướng được chụp ở hai mặt phẳng khác nhau [thường là hướng trước sau và hướng bên].

Các hướng nhìn khác [ví dụ, nghiêng] có thể được thực hiện khi

  • Đánh giá nghĩ nhiều đến gãy xương và hình ảnh theo 2 hướng trên đều âm tính.

  • Cách này là thường quy với một số khớp [ví dụ hướng từ mộng chày mác khi đánh giá mắt cá, hướng nghiêng khi đánh giá chân].

  • Nghi ngờ một số bất thường

Khi chụp ngón tay nhìn từ phía bên, ngón cần đánh giá nên được tách riêng biệt với các ngón khác.

MRI có thể được thực hiện để xác định tổn thương phần mềm, bao gồm dây chằng, gân, sụn và các tổn thương cơ. MRI hoặc CT cũng có thể được thực hiện để kiểm tra các đường vỡ khó phát hiện.

Điều trị

  • Điều trị các thương tổn liên quan

  • Giảm đau, nẹp cố định và an thần

  • RICE [nghỉ ngơi, chườm đá, ép và nâng cao nơi tổn thương] hoặc PRICE [bao gồm cả nẹp cố định]

  • Thường bất động

  • Đôi khi phẫu thuật

Điều trị ban đầu

Xử lý trước tiên các tổn thương nặng ảnh hưởng tính mạng [nếu có]. Sốc mất máu Sốc mất máu [Xem thêm Sepsis and Septic Shock.] Sốc là tình trạng suy giảm tưới máu cơ quan với kết quả là rối loạn chức năng tế bào và tử vong. Cơ chế có thể làm giảm khối lượng tuần hoàn, giảm cung lượng... đọc thêm được điều trị ngay lập tức. Tổn thương động mạch cần phẫu thuật sửa chữa trừ chỉ ảnh hưởng đến nhánh nhỏ và lưu thông vẫn còn tốt. Tổn thương nặng thần kinh được phẫu thuật sửa chữa; nếu chèn ép hay đụng dập, ban đầu là theo dõi, điều trị hỗ trợ và đôi khi là vật lý trị liệu.

Nghi ngờ bị gãy xương hở hoặc trật khớp hở cần

  • Băng vết thương bằng gạc vô trùng

  • Tiêm phòng uốn ván

  • Kháng sinh phổ rộng [ví dụ, cephalosporin thế hệ 2 kèm với aminoglycosid]

  • Phẫu thuật làm sạch và cắt lọc mô hoại tử [để ngăn ngừa nhiễm trùng].

Hầu hết các tổn thương mức trung bình và nặng, đặc biệt tổn thương mất vững hoàn toàn, được cố định lập tức bằng nẹp [cố định bằng thiết bị không cứng hoặc không hình vòng tròn] để giảm đau và để tránh thương tổn thêm mô khác do tổn thương mất vững.

Dùng thuốc giảm đau cầng sớm càng tốt bằng opioid Thuốc giảm đau opioid Các thuốc giảm đau opioid và không opioid là những loại thuốc chính được sử dụng để điều trị đau. Có thể sử dụng thuốc chống trầm cảm, thuốc chống co giật và các thuốc tác động lên hệ thống... đọc thêm .

Sau khi điều trị ban đầu, các thương tổn phần mềm được điều trị theo triệu chứng và vẫn bất động chi.

Nhiều đứt dây chằng độ ba hoặc đứt gân cần phẫu thuật sửa chữa.

PRICE

Những bệnh nhân bị tổn thương phần mềm, có hoặc không có các thương tổn cơ xương khác, tốt hơn khi sơ cứu bằng PRICE [bất động, nghỉ ngơi, chườm đá, băng ép, nâm cao chi] mặc dù hiệu quả chưa có đủ bằng chứng mạnh mẽ ủng hộ.

Bất động giúp tránh các thương tổn thêm. Bao gồm hạn chế cử động phần tổn thương, sử dụng một thanh nẹp hoặc bó bột, hoặc sử dụng nạng.

Nghỉ ngơi giúp ngăn ngừa thương tổn thêm và phục hồi nhanh hơn.

Chườm đábăng ép làm giảm sưng và đau. Đá được bọc kín trong túi nilon hoặc khăn và được chườm ngắt quãng trong 24 đến 48 giờ đầu tiên [trong 15 đến 20 phút, mỗi lần chườm] Tổn thương có thể được ép bằng thanh nẹp, băng chun, hoặc đối với một số thương tích có xu hướng sưng nặng thêm, dùng băng ép Jones. Băng ép Jones gồm 4 lớp; lớp 1 [trong cùng] và lớp 3 là bông cotton, và lớp 2 và 4 là băng thun.

Nâng cao chi chi bị tổn thương ở trên tim trong 2 ngày đầu nâng cao chi để đảm bảo máu về tim tốt; vị trí này nhờ vào trọng lực giúp giảm phù nề chi và giảm thiểu sưng.

Sau 48 giờ, phủ ấm chi theo chu kì [ví dụ, bằng một miếng đệm lót sưởi ấm] trong 15 đến 20 phút có thể làm giảm đau và làm lành nhanh chóng.

Cố định

Cố định giúp giảm đau và tạo điều kiện phục hồi nhanh hơn do ngăn ngừa được thương tổn thêm.

Đứt dây chằng độ 1 được cố định trong thời gian ngắn. Vận động sớm là tốt nhất. Độ 2 nhẹ thường được cố định bằng băng treo hoặc nẹp trong vài ngày. Đứt dậy chằng độ 2 và một số độ 3 hoặc rách gân được cố định trong vài ngày hoặc vài tuần, đôi khi cần bó bột. Đứt dây chằng độ 3 đòi hỏi phẫu thuật; thường cố định chỉ là biện pháp bổ trợ.

Bó bột thường được sử dụng với các tổn thương cần cố định vài tuần. Hiếm khi, sưng ở chi bị bột trầm trọng tới mức gây ra hội chứng chèn ép khoang Hội chứng chèn ép khoang Hội chứng khoang là hiện tượng tăng áp lưc mô mềm trong khoang kín, dẫn đến thiếu máu mô. Triệu chứng sớm nhất là đau quá mức thương tổn. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, khẳng định bằng đo áp lực... đọc thêm . Nếu bác sĩ lâm sàng nghi ngờ sưng nề nặng vùng chi có bột, bột [và tất cả các đệm lót] được cắt từ đầu đến cuối ở giữa và phía bên [hai van].

Bệnh nhân bó bột nên được đưa bản hướng dẫn, bao gồm:

  • Luôn giữ bột khô.

  • Không bao giờ đặt một vật bên trong bột.

  • Kiểm tra các cạnh và da quanh vùng bó bột hàng ngày và báo bác sỹ nếu có bất kỳ vùng nào đỏ hoặc đau.

  • Lót bất kỳ cạnh nào gồ ghề với băng dính mềm, vải, hoặc các vật liệu mềm khác để tránh các cạnh của bột làm tổn thương da.

  • Khi nghỉ ngơi, đặt bột nhẹ nhàng, nên sử dụng gối nhỏ hoặc miếng đệm để tránh bột cọ sát, chèn ép lên da.

  • Nâng cao bột bất cứ khi nào có thể để hạn chế sưng nề.

  • Cần đến khám ngay lập tức nếu đau vẫn tiếp tục hoặc cảm thấy bột quá chặt.

  • Cần đến khám ngay lập tức nếu có mùi phát ra từ bên trong bột hoặc nếu có sốt, đó có thể là dấu hiệu của nhiễm trùng.

  • Cần đến khám ngay lập tức nếu đau tăng dần hoặc có bất kỳ dấu hiệu tê bì hay yếu chi mới xuất hiện.

Giữ vệ sinh tốt là rất quan trọng.

Thanh nẹp [xem Hình: Điều trị bằng bất động khớp: Một số kỹ thuật thường được sử dụng. Điều trị bằng bất động khớp: Một số kỹ thuật thường được sử dụng. Gãy xương là hiện tượng phá vỡ xương. Hầu hết các loại gãy xương cần một lực mạnh tác động lên xương bình thường. Ngoài gãy xương, còn có kèm theo các thương tổn phần mềm hệ cơ xương. Trật khớp... đọc thêm ] có thể được sử dụng để cố định một số thương tổn vững, bao gồm một số trường hợp nghi ngờ gãy xương, giúp nhanh chóng làm lành xương gãy, bong gân, và các thương tổn khác mà cần phải cố định trong nhiều ngày hoặc ít hơn. Một thanh nẹp không hình vòng; do đó, nó cho phép bệnh nhân chườm đá và vận động nhiều hơn khi phải bó bột. Nó cũng chấp nhận mức độ sưng nề nhất định, vì vậy ít khi gây ra hội chứng chèn ép khoang. Một số tổn thương mà cuối cùng cần bó bột được cố định ban đầu bằng nẹp cho đến khi gần hết sưng nề chi.

Điều trị cấp bằng cố định khớp: Một số kỹ thuật thường được sử dụng.

Băng treo hỗ trợ và hạn chế vận động ở một mức độ nhất định; nó hữu ích với các tổn thương bị ảnh hưởng bất lợi từ cố định hoàn toàn [ví dụ, đối với chấn thương vai, nếu hoàn toàn cố định, có thể nhanh chóng dẫn đến viêm dính bao khớp vai [vai đông cứng]].

Băng cuốn [một mảnh vải hoặc một dây đeo] có thể được sử dụng cùng với băng treo để ngăn cánh tay không xoay ngoài, đặc biệt vào ban đêm. Băng cuốn được cuốn vòng quanh lưng và trên vị trí tổn thương.

Cố định khớp kéo dài [> 3 đến 4 tuần với thanh niên trẻ] có thể gây ra cứng khớp, co thắt, và teo cơ. Những biến chứng này có thể phát triển nhanh chóng và có thể là vĩnh viễn, đặc biệt ở người cao tuổi. Một số tổn thương nhanh lành, điều trị tốt nhất khi phục hồi vận động chủ động trong vài ngày hoặc vài tuần đầu; vận động sớm như vậy giúp giảm thiểu co thắt và teo cơ, do đó làm tăng hồi phục chức năng. Các nhà vật lý trị liệu tư vấn cho bệnh nhân về những gì họ có thể làm trong quá trình cố định để duy trì càng nhiều chức năng càng tốt [ví dụ, các bài tập vận động khuỷu tay, cổ tay và bàn tay nếu vai bị cố định]. Sau khi cố định, các nhà vật lý trị liệu có thể giúp bệnh nhân phục hồi hoặc cải thiện phạm vi vận động và sức mạnh cơ bắp và đưa ra các bài tập để tăng cường và ổn định khớp bị tổn thương, do đó giúp ngăn ngừa tái phát và suy giảm chức năng sau này.

Đặc điểm chấn thương ở người cao tuổi

Người cao tuổi có xu hướng mắc các tổn thương về cơ xương nói chung vì các nguyên nhân sau đây:

  • Thường có xu hướng ngã [ví dụ do mất thăng bằng ở tuổi già, do các tác dụng bất lợi của thuốc đối với sự nhận cảm hay phản xạ tư thế, do hạ huyết áp tư thế]

  • Giảm phản xạ bảo vệ khi ngã.

Đối với bất kỳ tổn thương cơ xương nào ở người cao tuổi, mục tiêu điều trị là nhanh chóng trở về được các hoạt động hàng ngày.

Cố định [bất động khớp] nhiều khả năng có tác dụng bất lợi ở người cao tuổi.

Vận động sớm và vật lý trị liệu rất cần thiết để phục hồi chức năng.

Các bệnh kèm theo [ví dụ, viêm khớp] có thể ảnh hưởng tới việc hồi phục.

Những điểm chính

  • Các chấn thương làm mất cung cấp máu và hội chứng chèn ép khoang đe doạ đến khả năng sống của chi và có thể đe doạ tới cả mạng sống.

  • Kiểm tra tìm sự gãy xương và trật khớp, xem xét các biện pháp giảm trật khớp tự nhiên, đồng thời kiểm tra tổn thương dây chằng, gân và cơ [đôi khi các đánh giá này được hoãn lại cho đến khi loại trừ được gãy xương].

  • Xem xét mức độ đau và kiểm tra các khớp ở trên và dưới vùng bị tổn thương, đặc biệt nếu các kết quả khám thực thể là bình thường tại khớp mà bệnh nhân vẫn kêu đau [ví dụ, đau vai ở bệnh nhân bị chấn thương khớp ức sườn].

  • Chụp X-quang là không cần thiết cho nhiều trường hợp bong gân mắt cá chân.

  • MRI có thể được chỉ định để chẩn đoán thương tổn phần mềm.

  • Xử lý lập tức thương tổn nghiêm trọng liên quan và cố định tổn thương mất vững, và điều trị đau càng sớm càng tốt

  • Điều trị hầu hết các thương tích nhẹ với PRICE [bất động, nghỉ ngơi, chườm đá, băng ép, nâng cao chi].

  • Cung cấp cho bệnh nhân các bản hướng dẫn rõ ràng về chăm sóc khi bó bột.

  • Khuyến khích bệnh nhân, đặc biệt là người cao tuổi thực hiện các bài tập được khuyến cáo để duy trì phạm vi vận động và sức mạnh cơ bắp.

Video liên quan

Chủ Đề