Bài tập kinh tế biển vào khai khác chuyên tuyến năm 2024

Để đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, Nghị quyết số 26/NQ-CP, ngày 05/3/2020 của Chính phủ xác định kế hoạch đến năm 2025 phát triển kinh tế biển, ven biển tập trung vào các lĩnh vực sau:

Đối với du lịch và dịch vụ biển: tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết số 103/NQ-CP, ngày 06/10/2017 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị [khóa XII] về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó, tập trung phát triển du lịch và dịch vụ biển theo mục tiêu, yêu cầu của Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; rà soát, xây dựng và ban hành các chính sách ưu đãi để tạo sự phát triển đột phá cho du lịch và dịch vụ biển, v.v.

Với kinh tế hàng hải: tập trung xây dựng và nâng cao hiệu quả quản lý khai thác các cảng: cửa ngõ quốc tế, chuyên dùng quy mô lớn. Cải tạo nâng cấp các cảng hiện có; xây dựng có trọng điểm một số cảng địa phương theo chức năng, quy mô phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; đầu tư nâng cấp, nạo vét duy tu các tuyến luồng hàng hải; tiếp tục phát triển đội tàu biển Việt Nam theo hướng hiện đại, hiệu quả; phát triển đồng bộ dịch vụ hỗ trợ vận tải biển, vận tải đa phương thức, đặc biệt nâng cao chất lượng dịch vụ logistics; nâng cao thị phần vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu, v.v.

Về khai thác dầu khí và các tài nguyên, khoáng sản biển: nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò, tận thăm dò dầu khí các bể trầm tích có tiềm năng đang khai thác; đẩy mạnh tìm kiếm, thăm dò các bể nước sâu, xa bờ; nghiên cứu, thăm dò các dạng hydrocarbon phi truyền thống; gắn việc tìm kiếm, thăm dò dầu khí với điều tra, khảo sát, đánh giá tiềm năng tài nguyên, khoáng sản đáy biển, đặc biệt là những khoáng sản có giá trị cao, có ý nghĩa chiến lược, v.v.

Lĩnh vực nuôi, trồng và khai thác hải sản: chuyển đổi từ các mô hình nuôi, trồng thủy sản quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu sang nuôi công nghiệp, quy mô lớn với công nghệ hiện đại; chuyển dịch ngư trường từ vùng biển ven bờ ra vùng lộng và vùng khơi; xây dựng và vận hành các mô hình nơi cư trú nhân tạo cho các loài sinh vật biển, mô hình nhà màng công nghệ cao. Ứng dụng công nghệ cao và tiết kiệm năng lượng phục vụ khai thác thủy sản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất gắn với bảo vệ môi trường biển, v.v.

Về công nghiệp ven biển: đẩy mạnh thu hút đầu tư và phát triển các ngành công nghệ cao, thân thiện với môi trường, dự án sử dụng công nghệ nguồn vào các khu: kinh tế, công nghiệp ven biển; ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp chế biến sâu, ứng dụng công nghệ cao để gia tăng giá trị, v.v.

Đối với phát triển năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới: ưu tiên đầu tư phát triển năng lượng tái tạo trên các đảo phục vụ sản xuất, sinh hoạt, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thúc đẩy đầu tư xây dựng, khai thác điện gió, điện mặt trời và một số dạng năng lượng tái tạo khác. Quan tâm phát triển một số ngành kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên đa dạng sinh học biển, như: rừng ngập mặn, dược liệu biển, nuôi, trồng và chế biến rong, tảo, v.v.

Cùng với đó, kế hoạch xác định: phát triển các vùng biển về du lịch và dịch vụ biển tại vùng có tiềm năng, lợi thế; đồng thời, đẩy mạnh đầu tư cải tạo, nâng cấp một số tuyến, luồng hàng hải quan trọng, cải tạo và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, như: đê chắn sóng, bến neo đậu, cầu cảng,… theo hướng đồng bộ, hiện đại, bền vững.

[TTĐN] - Phát triển kinh tế biển xanh đang trở thành xu hướng tất yếu trên quy mô toàn cầu, được xem là nền tảng cho phát triển bền vững kinh tế biển.

Cầu Vân Tiên hiện là cây cầu vượt biển dài nhất Quảng Ninh, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, kết nối hạ tầng giao thông của tỉnh và cả nước. [Ảnh tư liệu: TTXVN]

Đây cũng là yếu tố then chốt trong quá trình thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững số 14 về biển và đại dương đến năm 2030 của Liên hợp quốc gắn với những thành tựu của nền kinh tế tri thức và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Là quốc gia có tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế biển, Việt Nam đã bắt kịp xu hướng này nhằm đạt các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển, hiện thực hóa mục tiêu đưa đất nước trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu về biển. Phóng viên TTXVN phản ánh nội dung này qua hai bài viết: "Kinh tế biển xanh - cánh cửa mở ra tương lai bền vững".

Bài 1: Hướng ra biển là thịnh vượng

Theo Tổ chức Đối tác quản lý môi trường các biển Đông Á, kinh tế biển xanh là mô hình kinh tế sử dụng hạ tầng và công nghệ xanh, các cơ chế tài chính sáng tạo và sắp xếp thể chế chủ động để đạt mục tiêu bảo vệ biển, vùng bờ biển và tăng cường khả năng đóng góp vào phát triển bền vững.

Tại Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm kinh tế biển xanh được làm rõ trong Báo cáo “Kinh tế biển xanh - Hướng đến kịch bản phát triển bền vững kinh tế biển” do Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam [nay là Cục Biển và Hải đảo Việt Nam - Bộ Tài nguyên và Môi trường] và Chương trình phát triển Liên hợp quốc [UNDP] công bố tháng 5/2022. Theo đó, kinh tế biển xanh là nền kinh tế sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên biển phục vụ phát triển kinh tế, cải thiện sinh kế và việc làm, cũng như “sức khỏe” hệ sinh thái biển.

Tiềm năng đa dạng, dồi dào

Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3.260 km, trên 3.000 hòn đảo. Dân số của 28 tỉnh, thành phố ven biển chiếm hơn 50% dân số cả nước; phần lớn lao động làm việc trong các ngành nghề liên quan đến biển. Với điều kiện địa chính trị, địa kinh tế, Việt Nam có những tiềm năng to lớn để phát triển kinh tế biển.

Theo Cục Biển và Hải đảo Viêt Nam, biển Việt Nam có khoảng 35 loại hình khoáng sản với trữ lượng khai thác khác nhau; trong đó, dầu khí là tài nguyên lớn nhất ở thềm lục địa, có tầm chiến lược quan trọng. Vùng biển phát hiện khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau và khoảng 1.300 loài trên các hải đảo. Biển Việt Nam được coi là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển của thế giới.

Đa dạng sinh học biển và các hệ sinh thái đã cung cấp nguồn lợi hải sản to lớn cho nền kinh tế. Đó là ngư trường đánh bắt truyền thống rộng lớn với hơn 2.000 loài cá; trong đó 130 loài có giá trịnh kinh tế cao, trên 600 loài giáp xác, nhuyễn thể và rong biển. Trữ lượng nguồn lợi hải sản bình quân hàng năm ước tính vào khoảng 4,364 triệu tấn, chưa bao gồm nguồn lợi tại các vùng biển sâu, gò nổi và thềm lục địa. Ngư trường khai thác thủy sản được phân làm 5 vùng chính: Vịnh Bắc Bộ chiếm 17,3% nguồn lợi thủy sản; vùng duyên hải miền Trung chiếm 20%; vùng Đông Nam Bộ chiếm 25,6%; vùng Tây Nam Bộ 13,4% và vùng giữa Biển Đông là 23,7%.

Việt Nam có tiềm năng phát triển, nuôi trồng thủy sản ở biển và ven biển. Diện tích có thể khai thác là 500.000 ha vùng vịnh kín ven bờ, ven các đảo gần bờ và các bãi triều thấp. Đến nay, khoảng 57.000 ha đã được sử dụng; 443.000 ha còn lại vẫn ở dạng tiềm năng.

Du lịch biển là ưu thế đặc biệt. Với 125 bãi biển lớn nhỏ, trong đó khoảng 20 bãi có quy mô và tiêu chuẩn quốc tế... nắng ấm quanh năm, không khí trong lành cùng nhiều cảnh quan đẹp là điều kiện lý tưởng để Việt Nam xây dựng các khu nghỉ mát, nghỉ dưỡng, du lịch cao cấp. Một số địa danh du lịch biển của Việt Nam đã được biết đến trên phạm vi toàn cầu như Vịnh Hạ Long, hai lần được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên thế giới và đã được công nhận là Kỳ quan Thiên nhiên của thế giới. Vịnh Nha Trang được coi là một trong những vịnh đẹp nhất hành tinh. Bãi biển Đà Nẵng được Tạp chí Forbes bầu chọn là một trong 6 bãi biển quyến rũ nhất hành tinh. Đảo và vùng ven biển tập trung nhiều di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển, các khu bảo tồn thiên nhiên; nhiều di tích văn hóa-lịch sử; các lễ hội, tín ngưỡng dân gian liên quan đến biển…Phát huy những lợi thế này, du lịch biển hàng năm đóng góp khoảng 70% doanh thu của ngành Du lịch cả nước.

Một lợi thế rất quan trọng khác là vùng biển Việt Nam thuộc Biển Đông - một trong những con đường giao thương hàng hải quốc tế nhộn nhịp nhất trên thế giới, nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Bờ biển mở ra cả 3 hướng Đông, Nam và Tây Nam rất thuận lợi phát triển thương mại quốc tế và hội nhập kinh tế biển. Dọc bờ biển, hơn 100 điểm xây dựng được hải cảng, đặc biệt là cảng nước sâu quy mô lớn. Đến nay, nước ta đã ký hiệp định hàng hải thương mại với 26 quốc gia; phát triển được 30 cảng biển với 166 bến cảng, 350 cầu cảng với tổng chiều dài khoảng 45.000m; xây dựng 18 khu kinh tế ven biển…

Nhận diện rõ thách thức

Khẳng định Việt Nam có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế biển, nhiều chuyên gia lưu ý cần phải có giải pháp trọng tâm, trọng điểm bảo vệ môi trường để phát triển kinh tế biển xanh một cách bền vững.

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Chu Hồi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Thủy sản Việt Nam nhận định, đại dương đang đứng trước những nguy cơ rất nghiêm trọng do tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, hoạt động khai thác tài nguyên, ô nhiễm môi trường biển và các rủi ro khác. Những nguy cơ này diễn biến ngày càng nhanh và khó lường.

Theo Tiến sỹ Nguyễn Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Việt Nam phát triển kinh tế biển chưa gắn kết hài hòa với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Ô nhiễm, sự cố môi trường ở một số nơi các vùng ven biển còn diễn ra nghiêm trọng. Ô nhiễm rác thải nhựa đã trở thành vấn đề cấp bách. Các hệ sinh thái biển, đa dạng sinh học biển bị suy giảm. Một số tài nguyên biển bị khai thác chưa bền vững…

Liên hợp quốc cảnh báo 90% quần thể cá lớn bị cạn kiệt và 50% rạn san hô bị phá hủy. Ô nhiễm rác thải nhựa đã chạm đến nơi sâu nhất trong lòng đại dương và con người đang lấy đi từ đại dương nhiều hơn những gì có thể được bổ sung.

Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy, Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu và nước biển dâng, đặc biệt là những vùng đất ngập nước ven biển như Cà Mau, Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Nam Định…Biến đổi khí hậu tác động tới các hệ sinh thái theo nhiều cách khác nhau. Nước biển dâng 5m sẽ khiến Việt Nam mất 16% diện tích đất liền, đe dọa 35% dân số và 35% tổng sản phẩm quốc nội.

Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam nhấn mạnh, biển và đại dương là nguồn sống, không gian sinh tồn vô cùng quan trọng của con người, là nền tảng cơ bản cho phát triển bền vững. Tuy vậy, biển và đại dương đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng, điển hình nhất là ô nhiễm rác thải, trong đó rác thải nhựa chiếm tỷ trọng lớn. Việt Nam là một trong số những nước thải lượng lớn rác nhựa ra đại dương với khối lượng khoảng 0,28 - 0,73 triệu tấn/năm, tương đương 6% tổng lượng rác thải nhựa ra biển trên toàn thế giới. 80% rác thải nhựa xuất phát từ đất liền, từ những hoạt động sản xuất, sinh hoạt của con người; 20% còn lại xuất phát từ hoạt động nghề cá, nuôi trồng thủy sản, tàu bè trên biển.

Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của ngành Du lịch cùng với gia tăng dân số làm lượng rác thải hàng ngày không được xử lý xả ra môi trường ngày một nhiều thêm, gây tác hại nghiêm trọng tới môi trường các khu vực ven biển và hải đảo, đặc biệt là làm suy giảm các hệ sinh thái cỏ biển và san hô trong các khu bảo tồn.

Chủ Đề