Bài học kinh nghiệm rút ra từ xác định lực lượng cách mạng trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên

Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng vĩ đại nhất của nhân dân ta trong thế kỷ 20.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào mùa Thu năm 1945 đã tạo nên một bước ngoặt lịch sử, làm thay đổi căn bản vận mệnh của đất nước và dân tộc ta. Nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.

Cách mạng Tháng Tám mở rộng cửa để đất nước và dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Hơn sáu thập kỷ rưỡi qua, kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta đã viết tiếp những trang sử anh hùng. Ðã tiến hành và giành thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc kháng chiến cứu nước ròng rã 30 năm, đánh thắng hai đế quốc to, thực hiện trọn vẹn độc lập, thống nhất cho Tổ quốc. Ðã sáng tạo nên công cuộc đổi mới toàn diện, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì 'dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh'.

Cách mạng Tháng Tám đưa lại cho Ðảng và nhân dân ta nhiều bài học quý báu. Trong các bài học đó, đặc biệt vô giá là bài học về sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng.

Ðúng đắn vì ngay từ đầu, từ Hội nghị lần thứ Tám của Trung ương [năm 1941], Ðảng ta đã xác định đây là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, nhưng trước mắt tập trung vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc. 'Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được'.[1]

Ðúng đắn vì Ðảng ta luôn coi cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, đại đoàn kết toàn dân tộc là sức mạnh vô địch. Ðường lối chính trị của Ðảng ta nêu lên trong Cách mạng Tháng Tám là tập hợp hết thảy các lực lượng yêu nước, đoàn kết các dân tộc, cố kết toàn dân dưới ngọn cờ giải phóng Tổ quốc, tổ chức nhân dân thành một đội quân chính trị hùng hậu đi liền với xây dựng các lực lượng vũ trang, lập căn cứ địa cách mạng, dẫn đến cuộc khởi nghĩa đồng loạt của nhân dân trên cả nước. Một cuộc khởi nghĩa mà cả dân tộc 'nhất tề đứng lên', triệu người như một, 'nhất hô thiên vạn ứng'!

Ðúng đắn vì Ðảng ta vận dụng khéo léo nghệ thuật khởi nghĩa, chọn đúng thời cơ. Thời cơ lớn xuất hiện khi kẻ thù ở thế lâm nguy, Pháp bị Nhật hất cẳng, Nhật lại bị Ðồng minh đánh bại. Trong khi đó, các lực lượng cách mạng đã sẵn sàng xốc tới. Nói cho cùng, thời cơ của Cách mạng Tháng Tám đã được nhen nhóm từ 15 năm trước, khi Ðảng ta ra đời. Xô-viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 và Khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 là ba cuộc diễn tập lớn. Cao trào cứu nước 1940-1945 là bước chuẩn bị trực tiếp và có ý nghĩa quyết định. Chính vì vậy, ngay sau khi nhận được tin Nhật đầu hàng Ðồng minh vào đêm 13-8 thì sáng 14-8, Tổng bộ Việt Minh đã phát lệnh Tổng khởi nghĩa. Và không đầy 10 ngày sau đó, Tổng khởi nghĩa đã thành công trong toàn quốc.

Ðúng đắn còn vì Ðảng ta biết tự xây dựng mình thành một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phấn đấu vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, Ðảng không có lợi ích nào khác. Ðảng một lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với quần chúng đông đảo. Chính vì vậy, chỉ với 5.000 đảng viên mà Ðảng đã động viên được toàn dân nổi dậy. Và cũng chính vì vậy, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: 'Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc'.[2]

Ôn lại bài học cũ để hiểu rõ hơn bài học mới.

Tổng kết 80 năm hoạt động của mình, Ðảng ta, qua 'Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội' [bổ sung, phát triển năm 2011], đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn. Bài học thứ 5 nêu rõ: 'Sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam'.

Nhấn mạnh hai chữ đúng đắn là có ý nói, không phải bất cứ sự lãnh đạo nào của Ðảng cũng đều dẫn tới thắng lợi. Không. Chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn mới là nhân tố quyết định thắng lợi. Ðúng đắn vừa là tiền đề vừa là điều kiện tiên quyết. Còn lãnh đạo không đúng, lãnh đạo sai lầm thì kết quả sẽ ngược lại.

Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám nói riêng và của sự nghiệp cách mạng nước ta nói chung trong 80 năm qua chứng minh rằng sự lãnh đạo của Ðảng ta là đúng đắn. Nhưng bên cạnh đó, ở thời kỳ này hay thời kỳ khác, Ðảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, dẫn đến những tổn thất không đáng có. Ðiều đáng ghi nhận là Ðảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, tự chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.

Ðể bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng, như Cương lĩnh nhấn mạnh, 'Ðảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Ðảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên'.[3]

Gắn liền với bài học thứ 5, Cương lĩnh, phần nói về Ðảng, cũng khẳng định: 'Ðể đảm đương được vai trò lãnh đạo, Ðảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Ðảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Ðảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái'.[4]

Không phải ngẫu nhiên mà từ ngày tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Ðảng ta luôn lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Ðảng là nhiệm vụ then chốt, gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế, xây dựng Ðảng với phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội.

Nắm chắc nhiệm vụ then chốt để làm gì? Ðể xây dựng Ðảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh về mọi mặt. Ðể vai trò lãnh đạo của Ðảng đối với cách mạng không ngừng được nâng cao và phát huy. Ðể sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng luôn là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Bài học về sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng trong Cách mạng Tháng Tám cho đến nay vẫn còn sống động.

Tháng 8 năm 2011

[1] Văn kiện Ðảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, t7, tr113.

[2] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t6, tr159.

[3], [4] Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr66 và tr89.

HÀ ÐĂNG

Thứ hai , 25/10/2021 | 22:25 GMT+7

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là một sự kiện chính trị trọng đại của Đảng, đất nước và dân tộc ta, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển của đất nước.

Với chủ đề: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy ý chí và quyết tâm phát triển đất nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đại hội XIII của Đảng có nhiệm vụ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII gắn với việc đánh giá 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10 năm thực hiện Cương lĩnh [bổ sung, phát triển năm 2011], Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 [kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước]; xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 [kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng] và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045 [kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam]. Đây sẽ là những dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của Đảng ta, dân tộc ta, đất nước ta, có ý nghĩa định hướng và tầm nhìn chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
 


Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được đề ra tại Đại hội VII năm 1991 của Đảng, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Để đạt được những thành tựu đó có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân cơ bản và hết sức quan trọng là sau mỗi một nhiệm kỳ 5 năm thực hiện nghị quyết, Đảng ta lại tổng kết, đánh giá và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu làm sợi chỉ đỏ soi đường cho thực tiễn cách mạng tiếp theo. Cũng như những lần Đại hội nhiệm kỳ trước, Báo cáo chính trị nhiệm kỳ này cũng đã đưa ra được 5 bài học kinh nghiệm đó là:

Một là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng chống suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí. 


Công tác cán bộ phải thực sự là "then chốt của then chốt", tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Bí thư, ủy viên Ban Chấp hành trung ương.
Hai là, trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm "dân là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". 
Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ba là, trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện, phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực; có bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn, vướng mắc; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của cả hệ thống chính trị; phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương; coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; thực hiện tốt sự phối hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển.
Bốn là, tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hòa giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế; thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò động lực của con người, văn hoá, của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước.
Năm là, chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, tuyệt đối không được để bị động, bất ngờ. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định an ninh, an toàn để phát triển đất nước. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. 
Xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng; đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ. Phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh của thời đại. Khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Các bài học kinh nghiệm này được Đảng ta rút ra thể hiện sự kế thừa và nối tiếp các bài học của những lần đại hội của Đảng trước đó rút ra, cũng như trong các cương lĩnh xây dựng đất nước. Tuy nhiên, các bài học rút ra lần này đã có sự xắp xếp,  sửa đổi, bổ sung và phát triển phù hợp với tình hình đất nước trong điều kiện mới hiện nay.

Năm bài học trong Báo cáo chính trị trình Đại hội lần thứ XIII của Đảng phản ánh tư duy của Đảng ta về cách mạng Việt Nam, và về sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng. Năm bài học đó được rút ra từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng trong nhiệm kỳ vừa qua và trong suốt 35 năm Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới xây dựng đất nước. Các bài học lớn tạo thành một giá trị tổng thể, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Sức sống của nó không chỉ ở chỗ nó được đúc kết một cách khoa học và đúng đắn, mà còn ở chỗ các bài học ấy sẽ được vận dụng một cách sáng tạo trong tình thần đổi mới và phát triển.

DUY BẢY

Video liên quan

Chủ Đề