Ai là người tìm ra châu mĩ năm 1492

Các học sinh được dạy rằng Christopher Columbus là người khám phá ra châu Mỹ, vượt qua Đại Tây Dương trên ba con thuyền Nina, Pinta và Santa Maria. Nhà thám hiểm người Italy thậm chí còn được tôn vinh vào mỗi tháng 10 trong Ngày Columbus, ngày lễ quốc gia mang tên ông.

Tuy nhiên, người đàn ông được ghi nhận đã phát hiện ra "Tân Thế giới" lâu nay lại là chủ đề gây tranh cãi trong lịch sử Mỹ do cách ông đối xử với cộng đồng người da đỏ bản địa, cũng như vai trò trong quá trình chiếm đóng thuộc địa. Hàng chục thành phố và nhiều bang Mỹ, như Minnesota, Alaska, Vermont và Oregon, đã thay thế Ngày Columbus bằng Ngày của Người dân Bản địa.

Ai là người tìm ra châu mĩ năm 1492

Nhà thám hiểm người Italy Christopher Columbus. Ảnh: AP.

Giờ đây, trong bối cảnh các cuộc biểu tình sôi sục trên cả nước Mỹvấn đề bất bình đẳng chủng tộc, xuất phát từ vụ người đàn ông da màu George Floyd bị cảnh sát ghì chết, người dân Mỹ bắt đầu phá hủy những bức tượng Columbus, nhằm gợi nhắc về những tội ác mà ông gây ra cho người bản địa.

"Chúng ta nên đặt câu hỏi tại sao những người Mỹ như chúng ta lại tiếp tục tôn vinh Columbus, mà không biết sự thật lịch sử về di sản của ông ấy, cũng như lý do ban đầu lập ra kỳ nghỉ đó", tiến sĩ Leo Killsback, trợ lý giáo sư tại Đại học Bang Arizona, cho biết.

Theo nhà sử học David Perry, rõ ràng những chuyến hải trình của Columbus "có tác động lịch sử không thể phủ nhận, mở ra kỷ nguyên vĩ đại của hoạt động khám phá Đại Tây Dương, thương mại, cuối cùng là chiếm đóng thuộc địa của người châu Âu".

Tuy nhiên, Columbus không phải người đầu tiên phát hiện ra "Tân Thế giới". Trước khi ông đặt chân đến châu Mỹ vào năm 1492, người da đỏ bản địa đã sống tại đây suốt nhiều thế kỷ. Người châu Âu đầu tiên tới lục địa Bắc Mỹ cũng được cho là không phải Columbus, mà là nhà thám hiểm người Na Uy Leif Eriksson, người đến trước Columbus 5 thế kỷ.

Trong hành trình qua các hòn đảo ở khu vực Caribe, cùng những bờ biển tại Trung và Nam Mỹ, Columbus gặp những người dân bản địa mà ông coi là "người Ấn Độ". Ông được cho là đã cùng đoàn tùy tùngbắt nhiều người bản địa làm nô lệ, đối xử vô cùng tàn bạo với họ, theo History, chuyên trang về lịch sử của Mỹ.

Trong suốt những năm có mặt tại châu Mỹ, Columbus đã buộc người bản địa lao động cật lực để kiếm lợi nhuận. Sau đó, ông bán hàng nghìn người Taino sang Tây Ban Nha và rất nhiều người đã chết trên đường. Những người bản địa không bị bắt làm nô lệ thì bị đưa đi đàovàng trong các mỏ và làm việc trong các đồn điền.

History cho biết trong thời gian giữ chức thống đốc tại khu vực giờ đây là Cộng hòa Dominica, Columbus đã giết nhiều người bản địa để đáp trả cuộc nổi dậy của họ. Nhằm đề phòng những cuộc nổi loạn trong tương lai, ông còn cho kéo lê thi thể nạn nhântrên đường phố để thị uy.

Ai là người tìm ra châu mĩ năm 1492

Tượng Columbus tạithành phố Boston, bang Massachusetts, Mỹ, bị mất đầu hôm 10/6. Ảnh: Reuters.

Nhà sử học Perry cho biết các cộng đồng bản địa ở châu Mỹ còn "bị suy tàn do phơi nhiễm với những dịch bệnh của Cựu Thế giới,rồi sụp đổ trước sự càn quét của dịch bệnh".

Người Taino chưa từng tiếp xúc và không có khả năng miễn dịch với đậu mùa, sởi và cúm, những căn bệnh mà Columbus cùng đoàn người của ông đưa đến đảo Hispaniola. Theo Tổ chức Nghiên cứu Y học Oklahoma (OMRF), ước tính có 250.000 người bản địa sinh sống tại Hispaniola vào năm 1492. Tuy nhiên, tới năm 1517, con số này chỉ còn 14.000.

Một số nhà sử học tin rằng những căn bệnh mà người châu Âu và châu Phi mang tới "Tân Thế giới" có thể đã giết chết tới 90% dân số bản địa, tỷ lệchết chóc cao hơn cả"Cái chết Đen", tức bệnh dịch hạch, hoành hành ở châu Âu thời trung cổ, OMRF cho hay.

Hôm 10/6, cảnh sát thành phố Boston, bang Massachusetts, Mỹ, phải phong tỏa khu vực xung quanh bức tượng Columbustrên đại lộ Atlantic, khi phần đầu của nóbị tháo rời trong đêm và vứt trên mặt đất gần đó. Đây không phải lần đầu bức tượng bị phá hoại. Năm 2015, dòng chữ "Mạng sống người da màu quan trọng"phun bằng sơn đỏ cũng xuất hiện trên bức tượng.

    Đang tải...

  • {{title}}

Ánh Ngọc (Theo CNN)

Sự thật thì châu Mỹ ban đầu là một lục địa không có người sinh sống, sau được khám phá bởi những người đến từ Bắc Á. Những người du mục này đã trở thành người bản địa ở đây, còn người châu Âu đầu tiên phát hiện ra châu Mĩ là Leif Erikson.

Leif Erikson là con trai của Erik the Red - người lập nên khu dân cư ở Greenland băng giá. Về việc Leif Erikson đã tìm ra châu Mỹ như thế nào lại có hai nguồn thông tin khác nhau.

Theo dân gian của người Greenland (Saga of the Greenlanders), Erikson biết đến châu Mỹ là nhờ nghe được từ câu chuyện của Bjarni Herjólfsson. Bjarni Herjólfsson vô tình khám phá ra đại lục Bắc Mỹ do thuyền của ông lái chệch về hướng Tây trên đường đến Greenland. Sau đó, vào khoảng năm 1000, một đoàn thủy thủ 35 người chỉ huy bởi Leif Erikson đã khởi hành để tìm ra vùng đất như lời của Bjarni.

Như vậy, Bjarni là người châu Âu đầu tiên "nhìn thấy" châu Mỹ, nhưng không đặt chân đến.

Tuy nhiên theo Saga of Erik the Red thì trên đường từ Nauy trở về Greenland để truyền bá Kito giáo, Leif Erikson đã vô tình phát hiện ra Vinland cũng do thuyền lái chệch hướng. Vinland là cái tên tiếng Nauy được đặt cho vùng đất thuộc châu Mỹ mà ông đặt chân đến. Những khám phá tiếp theo được công nhận là của Thorfinn Karlsefni và vợ ông, Gudrid.

Theo các bằng chứng khảo cổ thì cái tên Vinland (có nghĩa là vùng đất rượu vang) phản ánh cho sự phát triển của nho dại ở đây. Một vùng đất khác mà Leif gọi là Markland lại rất giàu có về rừng, nơi có rất nhiều những cây thân gỗ để thu hoạch và sử dụng.

Vậy phải chăng trước Colombus, đã có vài người khác tìm được ra châu Mỹ? Đây vẫn là điều còn gây tranh cãi. Tuy vậy, việc Colombus là người khai phá ra châu Mỹ vẫn đang được lịch sử công nhận, nên ở thời điểm hiện tại đó vẫn là kiến thức chuẩn mà chúng ta cần phải nắm được.

nguồn: kenh14.vn

Một phát hiện có giá trị sánh ngang cuốn tiểu thuyết của Dan Brown đã giúp làm sáng tỏ các cuộc hành trình của John Cabot, nhà thám hiểm và hàng hải Italy, cho thấy ông đã có kiến thức về các cuộc hành trình của châu Âu đến “Thế giới mới” trước khi Christopher Columbus thực sự thám hiểm châu Mỹ vào năm 1492.

>>> 4 điều hoang tưởng về Christopher Columbus

Dù vẫn được thừa nhận là người khám phá ra châu Mỹ, Christopher Columbus cũng chỉ đặt chân tới lục địa của Thế giới mới vào năm 1498 bằng chuyến tàu đến Nam Mỹ. Còn ở vùng Bắc Mỹ, Cabot là người châu Âu đầu tiên kể từ sau Leif Ericson và người Vikings đặt chân lên đất Bắc Mỹ bằng ba cuộc hành trình cho vua Henry VII của (Anh) vào mùa hè năm 1496 - 1498. Chuyến thám hiểm thứ hai của Cabot được thực hiện vào năm 1497 giúp châu Âu khám phá ra Bắc Mỹ - tại đảo Newfoundland (nghĩa là vùng đất mới được tìm thấy) thuộc Canada ngày nay.

Giờ đây, nghiên cứu trên cuốn sổ ghi tiền nong đã ố vàng tiết lộ một điều bất ngờ về chuyến thám hiểm của Cabot: Vào tháng 4, nhà thám hiểm người Italy nhận được tiền hỗ trợ từ một ngân hàng Italy - ngân hàng Bardi London. Lời ghi chú cho thấy người châu Âu có lẽ đã tìm ra Thế giới mới từ nhiều thập kỷ trước khi cả Cabot và Columbus ra khơi.

Ai là người tìm ra châu mĩ năm 1492

Ai là người đàu tiên đặt chân lên châu Mỹ?

“Đoạn ghi chú ngắn mở ra cả một chương mới trong hiểu biết của Cabot. Nó cho thấy các chuyến thám hiểm của người châu Âu là một phần của hệ thống thám hiểm do Italy tài trợ", nhà sử học Francesco Guidi-Bruscoli ở ĐH Florence nói.

Guidi Bruscoli môt tả chi tiết phát hiện này trên tạp chí chuyên ngành Historical Research (Nghiên cứu lịch sử), trong đó nói rằng đoạn chú thích ngắn nhắc tới: “vùng đất mới” ("il nuovo paese") chứ không phải “một vùng đất mới” ("un nuovo paese").

Việc sử dụng mạo từ il (the trong tiếng Anh) chứ không phải un (a trong tiếng Anh) thực sự là một điều gây hoang mang. Cụm từ đó có thể ám chỉ rằng khoản tiền được cấp cho Cabot để ông có thể tìm ra một vùng đất mà sự tồn tại của nó đã được biết đến trước đó. Có thể ngân hàng Bardi thu được lợi ích kinh tế đáng kể nên mới tài trợ cho một chuyến thám hiểm gần như chắc chắn.

Vì giấy chứng nhận hoàng gia của Cabot chỉ được áp dụng cho những vùng đất mà “người thuộc Kito giáo chưa biết đến”, nên khó có khả năng “vùng đất mới” ở đây chính là vùng đất mà Columbus tìm được trước đó 4 năm. Vì thế, đoạn ghi chú có thể cho thấy tuyên bố của các thương nhân Anh rằng họ đã phát hiện ra Bắc Mỹ trước cả Columbus là đúng.

“Không may là chúng ta chỉ có vài manh mối. Đoạn ghi chú này ẩn ý rằng ngân hàng Bardi tin vào chuyến thám hiểm trước đó, nhưng chúng ta cũng không thể mặc định rằng chuyến thám hiểm như thế đã thực sự xảy ra", Guidi-Bruscoli nói.

Luận điểm này được củng cố của một lá thư viết trong mùa đông 1497 bởi một thương nhân người Anh tên là John Day gửi cho “Lord Grand Admira” - gần như chắc chắn là Christopher Columbus. Bức thư được phát hiện vào những năm 1950 nói đến hành trình thám hiểm được hoàn thành vào năm 1497 của Cabot tới Newfoundland, nhưng trước đó những người đàn ông đến từ Anh “đã tìm thấy và phát hiện vùng đất đó trong quá khứ”.

Bằng chứng trên được tìm thấy trong kho dữ liệu của nhà sử học Alwyn Ruddock - chuyên gia hàng đầu về các cuộc thám hiểm của người Anh.

Theo nhà sử học Evan Jones ở ĐH Bristol, tài liệu mà Ruddock tìm thấy “hứa hẹn sẽ cách mạng hóa hiểu biết của chúng ta đối với sự tham gia của châu Âu với Bắc Mỹ vào 3 thập kỷ sau năm 1492”.

Ví dụ, Ruddock nói rằng đã tìm thấy bằng chứng trong các nguồn tài liệu bằng tiếng Italy và Tây Ban Nga rằng các thương nhân người Anh đặt chân tới New World vào khoảng thời gian nào đó trước năm 1470, và rằng Cabot không chết trong chuyến thám hiểm năm 1498 như nhiều người vẫn tưởng, mà ông trở lại Anh vào năm 1500.

“Bà ấy đã tìm ra những khám phá bất ngờ, nhưng bà yêu cầu phải hủy hết nghiên cứu của mình sau khi bà qua đời", Jones nói.

Điều này được thực hiện vào năm 2005, khi Ruddock qua đời vào tuổi 89. Công trình chưa xuất bản của bà - gồm 78 túi tài liệu ghi chú, thư từ, ảnh, và phim - đều bị đốt hết.

Ruddock cũng nói rằng Cabot được một ngân hàng Italy tài trợ. Năm 2010, khi được mời tới thăm nhà của sử gia đã qua đời, Jones và nhà nghiên cứu Margaret Condon đã phát hiện ra nguồn gốc của thông tin này trên một tờ giấy dính vào tủ giầy cũ, trong đó nhắc đến ngân hàng Bardi London.

“Ngân hàng Bardi - đó là tất cả những gì chúng ta cần tìm ra về ngân hàng Italy mà Ruddock đã giữ bí mật gần một thế kỷ nay", Jones nói. Jones và Condon đã liên lạc với Fuidi-Bruscoli ở Florence, rồi sau đó Fuidi-Bruscoli đã tìm ra đoạn ghi chú ngắn trong kho dữ liệu tư nhân của gia đình Guicciardini.

Tham khảo: Discovery

Theo Đất Việt, Discovery