100 bài hát Hy Lạp hay nhất mọi thời đại năm 2022

Mặc dù từ cách đây 50 nghìn năm đã có thể chế ra nhạc cụ, song có lẽ người xưa mới chỉ biết viết nên những ca khúc đầu tiên vào vài nghìn năm trước cho đến thế kỷ thứ XIII, trong đó từ thế kỷ thứ I tới thế kỷ thứ IV, phần lớn các bài hát đều là thánh ca, chứ chưa có các thể loại đa dạng như ngày nay.

Bài hát cổ đại đầu tiên của thế giới là Hurrian khúc số 6, của cư dân Akkadia, một dân tộc sống trên bán đảo Ả Rập, trong thời kỳ đồ đồng 3.400 năm trước. Qua phát hiện khảo cổ đối với 29 mảnh đất sét khắc những dòng chữ nêm tại thành cổ Amorite, Ugarit - miền bắc Syria đầu thập niên 60, người ta thấy rằng, đây chính là những bài hát sơ khai của nhân loại, và đặc biệt mảnh thứ sáu là một giai điệu trọn vẹn, có gần như đầy đủ các nốt nhạc, lời ca cùng những hướng dẫn chơi đàn chín dây sammun, một kiểu đàn giống đàn lyre/ harp của phương Tây. Vì các ký tự thuộc loại ngôn ngữ tối cổ nên các nhà nghiên cứu chưa thể cắt nghĩa toàn bộ bài hát, song đại thể chúng có ý nghĩa tán tụng nữ thần nông nghiệp Nikkai– người bảo trợ cho các vườn hoa quả và vụ mùa thu hoạch bội thu vào hè tại địa phương. Bà là một nữ thần rất quan trọng, đem lại sự ấm no, hạnh phúc của dân gian nên về sau còn được thờ phụng bởi khá nhiều dân tộc khác. Ca khúc được viết dưới dạng những vết khắc hình chữ V, và chạy theo một đường xoáy trôn ốc từ trước ra sau, trên xuống dưới với bên trên là lời ca, các âm tiết tương ứng các nốt nhạc và bên dưới là cách chơi đàn, gồm các số và tên của mỗi dây đàn.

Ca khúc cổ đại thứ hai là nhị điệu Thần khúc Delphi, được hai nghệ sĩ người Athen - Hy Lạp sáng tác vào năm 138 và 128 trước CN, và được tìm thấy ở thành phố Delphi năm 1893. Cả hai đều ca ngợi thần mặt trời Apollo, một trong 12 vị thần lớn nhất của thần thoại Hy Lạp, và là người che chở cho Delphi. Ông vừa là thần ánh sáng xua tan màn đêm, vừa là hiện thân của khả năng giải trừ tai ương, đồng thời cho kiến thức, chân lý và sự dự báo. Rất nhiều thành phố Hy Lạp thờ Apollo, song đền đài lớn nhất là tại Delphi. Thần khúc thứ nhất gồm có ba khổ, mở đầu với việc mời gọi các nàng thơ Muses - nữ thần âm nhạc và nhảy múa rời khỏi đỉnh núi Helicon để cùng nhau tới diện kiến Apollo. Các phần sau kể về các chiến công của thần. Thần khúc thứ hai lại hồi tưởng ngày Apollo chào đời trên hòn đảo Delos - khi ấy cả bầu trời lẫn mặt biển cùng hân hoan, rạng rỡ. Nhạc của cả hai tác phẩm đều thuộc dạng đơn âm, song cách ký âm khá khác biệt, một là ký thanh âm để hát do tác giả của nó là một ca sĩ, và một là ký cụ âm để chơi nhạc vì người sáng tác là một nhạc sĩ chơi đàn 16 dây cithara. 

Xuất hiện muộn hơn vào thế kỷ thứ I, nhưng Văn bia Seikilos lại là ca khúc cổ đại hoàn mỹ nhất, cả về phần nhạc lẫn lời ca của nhân loại. Đây là một bài hát ngắn, cũng là văn bia của một ngôi mộ ở thị trấn Tralles, xưa thuộc Hy Lạp và nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Dựa theo những gì trên đó, thì tác phẩm là của Seikilos, một nhân vật sống vào năm 200  trước CN đến 100  sau CN. Ông viết bài hát này để tưởng nhớ vợ hoặc mẹ là Euterpe, cũng có thể là viết tặng nữ thần Euterpe vì Euterpe là tên của nữ thần âm nhạc. Nó được phát hiện năm 1883 và chỉ có mấy câu sau: “Khi còn sống, hãy cháy hết mình. Bỏ qua mọi buồn đau - sầu khổ. Bởi cuộc sống chỉ ngắn trong gang tấc. Còn thời gian luôn cướp của ta đi”. Cũng có người lại chuyển thể thế này: “Khi còn sống, hãy vui ca - nhảy múa. Đời là bao, lại nặng gánh trần gian”. Ngoài ca từ trên, còn thấy một dòng chữ: “Tôi là bia, một hình ảnh, được Seikilos đặt ở đây, như là một dấu hiệu để ghi nhớ mãi mãi”. Không nghi ngờ gì nữa, Văn bia Seikilos chính là một tang ca, được lập theo phong tục tạc bia nhằm tri ân, hồi tưởng người xưa.

Là bài hát mở đầu trong Ki tô giáo, Thánh ca Oxyrhynchus cũng ra đời vào những năm cuối cùng của thế kỷ thứ III, tại Ai Cập thuộc Hy Lạp, khi Hy Lạp bắt đầu có đạo Thiên Chúa. Khác với các tác phẩm khắc ở trên đất đá, nó đã được viết trên giấy bằng tiếng Hy Lạp, và nhờ thế có thể chép ra nhiều bản phổ biến. Vào năm 1786, người ta đã tìm thấy bài thánh ca trong tập giấy Oxyrhynchus, là một tập giấy cổ bao hàm rất nhiều lĩnh vực ở thành phố Oxyrhynchus - Ai Cập. Nội dung của ca khúc không chỉ hay, sâu sắc mà nhạc lý cũng rất chuẩn theo thang âm phương Tây. Bài hát có nội dung là: “Tất cả hãy lặng yên. Sao trên trời đừng nháy. Gió hãy ngừng thổi. Sông thôi trôi. Để chúng con xin hát mừng, Cha - con và thánh thần. Cùng hô vang Amen, Amen. Cùng các vị vua cúi chào, đồng thanh ca ngợi Chúa, người đem tới bao điều tốt lành, Amen. Lời ca, tiếng nhạc rất du dương, bên cạnh những quãng tám, còn có các khoảng lặng để hướng tới Thiên Chúa và cầu xin sự che chở, ân xá”.

Tuy Thánh ca Oxyrhynchus là thánh ca đầu tiên, song bài hát gây ấn tượng mạnh mẽ và được hát nhiều nhất trong nhà thờ cho đến nay, là bài hát Te Deum [Lạy Thiên Chúa, chúng con xin ca ngợi danh Ngài]. Một ca khúc của La Mã, viết năm 387 và được cho là của thánh Ambrose và Agustine. Trong nhiều thế kỷ, mọi người vẫn có phong tục hát bài ca này như một nghi lễ tạ ơn và đón chào năm mới… Ngày xưa, người ta hay hát vào lễ cầu kinh buổi sáng, song hôm nay thì bất kỳ lúc nào trong các sự kiện trọng đại, nhất là sự kiện quốc thể như các lễ tấn phong của tòa thánh, đăng quang của vua chúa, nhậm chức của tổng thống, đêm Noel, Tết dương và âm lịch cùng các ngày kỷ niệm trong năm. Đặc biệt bài thánh ca luôn được hát vào ngày 31 tháng 12, ngày cuối cùng của một năm, để tạ ơn Chúa vì một năm an lành. Ngoài hát, nhiều nhà thờ thường vẽ Te Deum lên cửa sổ với hình ảnh hai giáo sĩ đang làm lễ rửa tội hoặc đặt tên thánh cho mọi người. Từ bản gốc thế kỷ thứ IV, đến nay đã có khá nhiều dị bản thánh ca Te Deum, mà câu mở đầu đều là Lạy Thiên Chúa…, rồi kể lại ngày Chúa Ki tô giáng sinh, chịu cực hình, tử thương, phục sinh và vinh quang.

Lập tiền đề cho những bài hát tiếng Anh, ngôn ngữ quốc tế là luân khúc Mùa hè sang [đến rồi] hay Bài hát Chim cu thế kỷ thứ XIII. Do được phát hiện ở tu viện Reading - Anh nên nó còn có tên là Reading Rota. Được sáng tác năm 1260 bằng thổ ngữ Wessex, đây là một ca khúc vui nhộn về ngày hè cùng các con vật, không rõ tác giả song có lẽ là của W. de Wycombe, một nhà chép sách thời Trung cổ. Đóng vai trò quan trọng trong lịch sử văn học nghệ thuật cùng đời sống văn hóa đương thời của châu Âu, ca khúc có đặc trưng là sự hát đi hát lại nhịp nhàng một khổ, ngoài ra là hát bè, phụ xướng âm vang với sự tham gia của từ ba người trở lên. Giai điệu rất rộn ràng, lôi cuốn và có thể làm một điệu nhảy sôi động: “Mùa hè đang đến kìa. Hót vang lên chim cu. Hạt cây nẩy mầm rồi. Và đồng cỏ mọc xanh. Hát vang lên chim cu. Cừu mẹ trả lời con. Bò mẹ nhường bê con. Bò mộng lồng quấy phá. Cừu cực quanh quẩn quanh. Hát vui lên chim cu. Chim cu ơi, chim cu. Chim hót hay lắm cơ. Hót mãi đừng ngừng nhé. Nào hót đi, chim cu. Hót đi, chim cu ơi”.

Thực ra, mùa hè trong bài hát có ý nghĩa như mùa xuân ở mỗi nước. Đó là thời điểm báo hiệu mọi sự sinh sôi, năng lượng và sức khỏe. Bài hát thể hiện nỗ lực của đông đảo người dân khi vượt qua mùa đông khắc nghiệt, lúc mà vào thời Trung cổ thức ăn rất khan hiếm, cuộc sống vất vả. Mùa đông kết thúc là lúc chim cu bắt đầu làm tổ, bò cừu dê ngựa đều đi tìm bạn. Vì thế, ai cũng vui khi nghe thấy tiếng chim cu, và hát lên bài hát này tỏ lòng vui sướng. Họ có thể hét to, và hát tái lặp để chung vui.

Âm nhạc chắc chắn đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của người Hy Lạp. Trong niềm vui và nỗi buồn, người Hy Lạp hát. Và sự thật là họ có cơ hội lựa chọn trong số một số loại bài hát, để thể hiện mỗi khi cảm xúc của họ: có rất nhiều bài hát dân gian, Rebetika, Laika, Entexna [Từ Hy Lạp 'τέχη' có nghĩa là 'nghệ thuật', nghệ thuật ', Vì vậy, 'Entexna' là một thể loại các bài hát có âm nhạc và lời bài hát tinh vi hơn] cũng như các bài hát rock và pop.

Trong số những bài hát này, những bài hát từ 50 50 và 60 người nổi bật so với phần còn lại, ngay cả ngày nay. Hai thập kỷ vàng của các bài hát Hy Lạp hiện đại với các nhà soạn nhạc về sự khác biệt và những người biểu diễn độc đáo. Trên thực tế, một số bài hát này đã thu hút sự chú ý vượt ra ngoài biên giới Hy Lạp; Họ được biểu diễn bởi các nghệ sĩ nổi tiếng ở nước ngoài, nhiều lần ngay cả trong ngôn ngữ Hy Lạp! Vì vậy, hãy để Lừa nghe một số bài hát đã tiếp tục tận hưởng thành công quốc tế:

1. Không còn nghi ngờ gì nữa, một trong những giai điệu Hy Lạp phổ biến nhất trên toàn thế giới là bài hát ‘τ Melina Merkouri khó quên đã thực hiện nó theo cách độc đáo của riêng cô trong bộ phim của Jules Dassin, ‘Never on Chủ nhật và làm mê hoặc khán giả trên toàn thế giới. Đối với bài hát này, vào năm 1960, Manos Hadjidakis đã giành được một giải Oscar cho bài hát gốc hay nhất. Vào cuối năm 90, ban nhạc nổi tiếng Pink Martini đã trình bày cho những người yêu thích âm nhạc phiên bản của riêng họ về bài hát của họ trong tiếng Hy Lạp và ‘τ

Và tất nhiên chúng ta không nên bỏ qua để đề cập đến buổi biểu diễn của bài hát của Diva Miss Piggy Ultimate từ The Muppet Show!

2. Vào năm 1960, Manos Hadjidakis đã sáng tác bài hát μες Người biểu diễn bài hát là một trong những nữ diễn viên nổi tiếng và được yêu thích nhất trong lịch sử điện ảnh Hy Lạp, Aliki Vouiyouklaki. Nhưng cùng một bài hát cũng được trình diễn thực tế trong tiếng Hy Lạp bởi nghệ sĩ nổi tiếng Harry Belafonte!

3. Vào năm 1959, một nữ diễn viên Hy Lạp vĩ đại khác, Tzeni Karezi, đã thu âm cho nhạc nền của bộ phim ' Bầu trời], được sáng tác bởi Manos Hadjidakis. Ba năm sau, vào năm 1962, ca sĩ nổi tiếng người Mỹ Brenda Lee đã biểu diễn bài hát bằng tiếng Anh, lần này có tựa đề ‘All Alone Am I xông; Bài hát ngay lập tức trở thành một hit quốc tế.

Brenda Lee

4. Vào năm 1959, Nana Mouskouri đã tham gia lễ hội bài hát Hy Lạp đầu tiên và giành giải thưởng đầu tiên biểu diễn bài hát ‘κάπάρχρ Bài hát cũng được trình diễn bởi một nghệ sĩ nam, Georges Moustaki nổi tiếng.

5. Trong 60,, vẻ đẹp tự nhiên của Hy Lạp đại lục và Quần đảo Hy Lạp đóng vai trò là bối cảnh cho các bộ phim khác nhau được quay trong nước; Kết quả là Hy Lạp trở nên nổi tiếng quốc tế. Một ví dụ điển hình của những bộ phim này là sản phẩm của Mỹ ‘Boy on a Dolphin, do Jean Negulesco [1957] đạo diễn, hầu hết đều được quay trên đảo Hydra đẹp như tranh vẽ. Sophia Loren và Tony Maroudas đã biểu diễn trong tiếng Hy Lạp một bài hát ngọt ngào và rất lãng mạn có tựa đề ‘

6. ‘Misirlou, [có nghĩa là‘ Người phụ nữ Ai Cập] là tiêu đề của một bài hát Rebetiko cũ. Số lượng các nghệ sĩ đã biểu diễn nó cũng như các phiên bản nhạc cụ của nó là rất lớn. Trong số các phiên bản này, có thể nhận ra ngay lập tức là của guitarist Dick Dale trong 60, đặc biệt là sau khi nó được sử dụng trong bộ phim Pulp Fiction của Quentin Tarantino [1994]. Mười năm sau, ‘Misirlou, được biểu diễn tại lễ kết thúc Thế vận hội Olympic năm 2004 ở Athens bởi ca sĩ nổi tiếng Anna Vissi.

Tất nhiên, bài hát Hy Lạp không thể bị thiếu trong Omilo! Trên thực tế, nhiều sinh viên của chúng tôi thực sự bắt đầu học tiếng Hy Lạp, vì tình yêu đối với âm nhạc Hy Lạp và vì họ tò mò muốn biết lời bài hát của những bài hát Hy Lạp yêu thích của họ là gì! Đó là lý do tại sao chúng tôi luôn đảm bảo rằng các sinh viên của chúng tôi được trình bày liên quan đến bài hát Hy Lạp trong các khóa học chuyên sâu của chúng tôi [như một hoạt động buổi tối ngoại khóa]. Có trước họ lời bài hát của những bài hát họ nghe, các sinh viên có thể tham gia; Cuối cùng, tất cả chúng ta cuối cùng đã hát cùng! Nói cách khác, niềm vui và học tập đi đôi với nhau, vì nó luôn luôn như vậy với Omilo!

Nhấn vào đây và xem video để có ý tưởng tốt hơn 🙂

++++++++++++++++++++++++++++++++

Bạn có muốn tìm hiểu thêm về âm nhạc Hy Lạp, bao gồm; Thông tin về thể loại âm nhạc, nhà soạn nhạc, ca sĩ, bài hát Hy Lạp với bản dịch tiếng Anh và các bài tập Hy Lạp thêm để cải thiện tiếng Hy Lạp của bạn?
information about the music genre,
composers, singers,
Greek songs with English translations,
and extra Greek exercises to improve your Greek?

Sau đó, hãy xem các cuốn sách điện tử sau, tất cả được thực hiện bởi đội Omilo.

Bài hát nổi tiếng nhất của Hy Lạp là gì?

1. Không còn nghi ngờ gì nữa, một trong những giai điệu Hy Lạp phổ biến nhất trên toàn thế giới là bài hát 'τα π Melina Merkouri khó quên đã thực hiện nó theo cách độc đáo của riêng cô trong bộ phim 'Never On Sunday' của Jules Dassin và mê hoặc khán giả trên toàn thế giới.Τα παιδιά του Πειραιά' [The children of Piraeus]. The unforgettable Melina Merkouri performed it in her own unique way in Jules Dassin's film 'Never on Sunday' and mesmerized the audience worldwide.

Âm nhạc Hy Lạp truyền thống được gọi là gì?

Âm nhạc truyền thống [dân gian] của Hy Lạp hoặc âm nhạc Dim Dimiki vì nó được gọi phổ biến nhất, bao gồm tất cả các bài hát, nhịp độ và nhịp điệu của các vùng Hy Lạp [ngoại trừ các khu vực đô thị được thiết lập gần đây].dimotiki music” as it is most commonly called, includes all songs, tempos and rhythms of the Greek regions [with the exception of more recently established urban areas].

Ca sĩ Hy Lạp giỏi nhất là ai?

15 trong số những ca sĩ Hy Lạp vĩ đại nhất và nổi tiếng nhất mọi thời đại..
Nana Mouskouri ..
Haris Alexiou ..
Demis Roussos ..
Nhà thờ đức mẹ Maria..
Anna Vissi ..
George Dalara ..
Vicky Leandros ..
Yannis Philippakis ..

Những bài hát Hy Lạp được gọi là gì?

Dimotika.Âm nhạc dân gian Hy Lạp truyền thống được gọi là Dimotika và xuất hiện trong thời kỳ Byzantine trở đi [với một số điểm tương đồng với phong cách Hy Lạp cổ đại].. Traditional Greek folk music is known as Dimotika and emerged during the Byzantine period onwards [with some commonalities to ancient Greek styles].

Chủ Đề